BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: GIAO DỊCH DÂN SỰ
BÀI 1: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức
Câu 1: Những điểm mới của BLDS năm 2015 (so với BLDS năm 2005) về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
BLDS 2015 quy định:
“Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.”
BLDS 2005 quy định:
“Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.”
Để có hiệu lực pháp luật, giao dịch dân sự phải đáp ứng một số điều kiện trong đó có
điều kiện về năng lực xác lập giao dịch.
•
Về chủ đề này, điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 xác định điều kiện để giao
dịch có hiệu lực là “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Nội
dung này đã được thay đổi và, ngày nay, điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 xác
định “chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập”. Việc bổ sung này là hợp lý vì giao dịch dân
sự rất khác nhau và năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào giao dịch
cụ thể.
1
So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thay từ “người tham gia giao dịch” bằng “chủ
thể”. Sự thay đổi này chỉ mang tính kỹ thuật, không kéo theo thay đổi về nội dung,
để có sự tương tích với những nội dung khác của BLDS 2015.
• Theo điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, một trong những điều kiện để giao
dịch có hiệu lực là “mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của pháp luật”. Đã có ý kiến cho rằng, “cách xây dựng quy định lập lờ này sẽ dẫn
tới cách hiểu là “bất kỳ quy định nào” trong pháp luật Việt Nam (Luật cũng như
văn bản dưới Luật). Nên nêu rõ đó là quy định trong “Luật” do Quốc hội ban
hành”. Cuối cùng, Dự thảo trình Quốc hội thông qua vào năm 2015 đã theo hướng
vừa nêu và nội dung này đã được ghi nhận trong BLDS 2015.1
•
Câu 2: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ
thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Từ năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ và không còn khả năng nhận
thức được.
• Ngày 7/5/2010 ông Hội bị Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội
mất năng lực hành vi dân sự.
•
Câu 3: Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi
ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
Ngày 08/02/2010 vợ chồng ông Hội bà Hương đã bán căn nhà cho vợ chồng ông
Hùng, bà Trinh với giá 580.000.000đ. Nhưng đến ngày 7/5/2010 ông Hội mới bị tuyên
mất năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, giao dịch của ông Hội và vợ là bà Hương được xác
lập trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự. (lúc đó ông bị tai biến nằm
liệt một chỗ không nhận thức được nhưng Tòa án vẫn chưa tuyên).
Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không?
Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội bị vô hiệu:
•
•
Vì từ năm 2007, ông đã bị tai biến và nằm liệt một chỗ, không thể nhận thức được.
Cơ sở pháp lý Điều 130 BLDS 2005 có quy định “Khi giao dịch dân sự do người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của
người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật
giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.”
1 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, 2016, tr. 143 đến 146
2
Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không và
Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
Vụ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là
ông Diện do chị Thu là người đại diện theo pháp luật với bị đơn là ông Sơn. Trong đó
Tòa án đưa ra hướng giải quyết là xem xét có hay không sự gian dối khi hai bên ký kết
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tại thời điểm giao kết hợp đồng ông Diện
đã bị tâm thần thì việc chuyển nhượng có hợp pháp hay không và có bị áp dụng thời hiệu
về khởi kiện hay không? Đồng thời hủy bán án sơ thầm đình chỉ khi giải quyết vụ án.
•
•
•
•
•
•
16/01/1993, ông Diện viết “giấy nhượng tài sản” cho ông Sơn bao gồm bất động
sản và những tài sản đi kèm. Trong đó có ông Diện, bà Hiền (vợ ông Diện) và 1 số
người khác. Bản án đã có hiệu lực pháp luật.
24/05/1994, đơn ly hôn ông Diện của bà Hiền được Tòa án nhân dân huyện Từ
Liêm giải quyết, cho bà ly hôn. Trong đó không giải quyết phần tài sản trên.
15/12/2009 Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm tuyên bố ông Diện mất năng lực hành
vi dân sự.
02/12/2010 bà Thu là con gái và cũng là người đại diện theo pháp luật của ông
Diện có đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trên, đồng thời ủy quyền cho mẹ là
bà Hiền tham gia tố tụng vụ án. Trong đó bà Hiền trình bày là khi ký giấy chuyển
nhượng đất thì ông Diện đã bị bệnh tâm thần và không là chủ được hành vi, đồng
thời ép bà ký vào giấy. Từ đó hợp đồng sai với quy định pháp luật. Ông Sơn xác
định khi chuyển nhượng ông Diện không có biệu hiện bệnh nên không đồng ý hủy
hợp đồng.
Dựa trên thông tin cung cấp từ bệnh viện tâm thần Hà Nội và Trung tâm giám định
pháp y tâm thần Sở Y Tế Hà Nội, Tòa án xác định ông Diện cần người giám hộ tại
thời điểm ký giấy.
Các bản án trước đó về vụ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa nguyên đơn là ông Diện do chị Thu là người đại diện theo pháp luật với bị
đơn là ông Sơn bị hủy và giao hồ sơn vụ án lại để xét xử sơ thẩm cho đúng quy
định của pháp luật.2
2 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, 2016, Bản án 56-58
3
Câu 6: Suy nghĩa của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý
khi đưa ra hướng xử lý.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao khá thuyết phục:
Công nhận quyền khởi kiện của chị Ánh trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Hội, bà Hương và 2 vợ chồng ông Hùng, bà Trinh. Ông Hội đã
bị tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự từ ngày 07/05/2010 và chị Ánh là
người được cử là người đại diện theo pháp luật cho ông Hội và là người thừa kế
quyền và nghĩa vụ của ông Hội theo quy định tại Điều 130 BLDS 2005.
• Cần xác minh làm rõ phần diện tích 43,7m2 đất (chưa được cấp giấy chứng nhận
quền sử dụng đất và không có trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 08/02/2010) đã đăng ký kê khai và có đủ điều kiện được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không. Theo biên bản định giá ngày 30/06/2011 của Tòa
án nhân dân thành phố Tuy Hòa, thì ngoài diện tích 120m2 đất ông Hội, bà Hương
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có 43,7m2 đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên đất có nhà diện tích 56,7m2, móng đá,
tường gạch, mái tôn cao 3m và vật kiến trúc khác nhưng không có trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 8/2/2010 giữa vợ chồng ông Hùng và bà
Trinh.
• Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 35/2012/DSPT ngày 1/7/2012 của Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án dân sự sơ thẩm số 98/2011/DSST ngày
22/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên về vụ án “Tranh chấp
hợp đồng mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là chị
Ánh với bị đơn là bà Hương và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
• Tòa án đã chỉ ra được thiếu sót của các bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
•
Câu 7: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó có
bị vô hiệu không? Vì sao?
Dựa theo khoản 2 Điều 141 BLDS 2015, những giao dịch tặng, cho động sản, bất
động sản đều mang lại lợi ích cho ông Hội nên người đại diện được toàn quyền quyết
định thay ông Hội, nếu người đại diện (chị Ánh) đồng ý xác lập giao dịch thì giao dịch đó
vẫn có hiệu lực.
BÀI 2: Giao dịch xác lập do có nhầm lẫn
4
Câu 1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về giao dịch vô hiệu do nhầm
lẫn? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên
Vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn được quy định tại Điều 126 BLDS
2015 có những sự sửa đổi, bổ sung so với Điều 131 BLDS 2005.
Trước đây, Điều 131 BLDS 2005 quy định “khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận
thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường
hợp một bên do lỗi cố ý làm bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải
quyết theo Điều 132 của Bộ luật này.
Ngày nay, Điều 126 BLDS 2015 theo hướng “trường hợp giao dịch dân sự được xác
lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác
lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Giao dịch dân sự được xác lập có sự
nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên
đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc
xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được”.
Điều luật được quy định tại BLDS 2005 này có chỗ không ổn:
Thứ nhất, chỉ đề cập tới nhầm lẫn do lỗi của một bên mà chưa bao quát được hết
trường hợp nhầm lẫn như cả hai cùng nhầm lẫn nên không thể coi là có một bên có
lỗi.
• Thứ hai, chỉ đề cập tới nhầm lẫn “về nội dung” trong khi đó các hệ thống đều thừa
nhận cả nhầm lẫn về “chủ thể” (thực tế, loại nhầm lẫn này đã có và Tòa án vẫn
theo hướng vô hiệu).
• Thứ ba, chỉ cho vô hiệu nếu bên kia “không chấp nhận” thay đổi trong khi đó có
những nhầm lẫn không thể thay đổi được.3
•
Câu 2: Đoạn nào của bản án trên cho thấy Toà án đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu do
nhầm lẫn?
3 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, 2016, tr. 153 đến 154.
5
Phần NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN, mục [3] “Bà Mai không biết thông tin về
đường nhựa rộng 18m trước nhà là của Quân đội, Quân đội sẽ xây tường chắn
ngang vào đầu năm 2016; do đó, có căn cứ xác định bà Mai bị nhầm lẫn về vị thế
của nhà đất khi thực hiện giao dịch. Khoản 1, Điều 126 của BLDS 2015 (Điều 131
của BLDS 2005) quy định “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự
nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác
lập giao dịch thì bên nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu…”; bà Mai có liên hệ với bà Anh để thương lượng giảm giá trị của hợp
đồng là có thiện chí nhưng bà Anh không đồng ý thương lượng, trong trường hợp
này bà Mai yêu cầu huỷ hợp đồng là đúng quy định của pháp luật.
• Phần QUYẾT ĐỊNH, mục 2.1. “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Trần Thị Kim Mai; tuyên bố “hợp đồng mua bán nhà đất” xác lập ngày 17/02/2016
và “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” xác lập ngày 02/3/2016 giữa bà
Trần Thị Kim Mai và bà Wòng Thị Lan Anh được văn phòng công chứng Thủ Dầu
Một công chứng số 1170 (quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD) là vô hiệu; bà Wòng
Thị Lan Anh phải trả lại cho bà Trần Thị Kim Mai số tiền đã nhận là 460.000.000
đồng (bốn trăm sau mươi triệu đồng).
•
Câu 3: Theo anh/chị, nhầm lẫn là gì và trong vụ việc trên, có nhầm lẫn không? Vì
sao?
Nhầm lẫn là sự khác nhau giữa nhận thức của một bên về một vấn đề và thực tế
của vấn đề này. Chẳng hạn, một bên nhận thức rằng đây là thật nhưng thực tế là
giả và bất kỳ sự khác nhau nào giữa nhận thức và thực tế đều có thể được coi là
nhầm lẫn4
• Trong vụ việc trên có nhầm lẫn và sẽ giải thích ở câu 4.
•
4 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam –Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6), trang 488, 489 .
6
Câu 4: Giả sử có nhầm lẫn, việc Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn có
thuyết phục không? Vì sao?
•
•
Việc Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là thuyết phục.
Vì khi bà Anh dẫn bà Mai đi xem nhà đất thì Sư đoàn BB7 chưa xây rào và trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền xác lập quy định
không rõ rằng đường nhựa rộng 18m đó là của Sư đoàn BB7 gây nhầm lẫn cho
chính cả bà Anh là chủ sở hữu nên với tư cách là người mua nhà thì bà Mai sẽ
không thể biết rằng con đường 18m đó là của Sư đoàn BB7 nếu bà Anh không
thông báo. Toà án đã chứng minh rằng do bà Mai bị nhầm lẫn trong quá trình diễn
ra hợp đồng bởi bà không biết đến việc con đường nhựa 18m là của Sư đoàn BB7
và họ sẽ xây rào vào đầu năm 2016 mà chỉ biết rằng nhà, đất của bà Anh có mặt
tiền đường nhựa 18m đó. Ở đây cũng có sự nhầm lần về quyền sở hữu con đường
nhựa giữa bà Anh và Sư đoàn BB7 Cũng như trường hợp mua bán xe máy trong
Bản án số 08/DSST ngày 9/2/1999 của Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng,
Thành phố Hà Nội, lúc mua xe thì anh Mạnh nghĩ rằng chiếc xe máy Dream II đó
không phải là tang vật của một vụ cướp mà là xe hợp pháp của anh Thắng nên ở
đây có sự nhầm lẫn về giá trị thực tế và giá trị pháp lý của nó 5. Việc bà Mai mua
nhà đất với mục đích là sử dụng đường nhựa 18m này nên khi Sư đoàn BB7 xây
rào bít lại và đường đi chỉ còn 2m thì không thoả mãn được mục đích của bà
Mai (thoả mãn khoản 1, Điều 126, BLDS 2015).
5 Bản án số 08/DSST ngày 9/2/1999 của Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
7
BÀI 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối
Câu 1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS
năm 2005 và BLDS năm 2015.
Điều 132 BLDS 2005: Giao dịch dân sự vô Điều 127 BLDS 2015: Giao dịch dân sự vô
hiệu do bị lừa dối, đe dọa.
hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do
bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu.
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do
bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự đó là vô hiệu.
So với Điều 132 BLDS năm 2005 thì Điều 127 BLDS 2015 có thêm hành vi
cưỡng ép là điều kiện để chủ thể có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
đó là vô hiệu.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị
tuyên vô hiệu do có lừa dối?
Trích bản án số 521/2010/DS-GĐT:
“Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân- họ hàng
của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà, đất mà các bên
thỏa thuận hoán đổi đã có Quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định
tháo dỡ do xây nhà trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường giá trị căn nhà; còn
thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để được mua nhà tái định cư theo Quyết định
135/QĐ-UB ngày 21-11-2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán
nhượng” không có chữ kí ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà
135/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vậy, giao dịch
“Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng điều 132BLDS để giải quyết.”
8
Câu 3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ
anh/chị biết.
•
Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ.
•
Theo nguyên tắc áp dụng án lệ: Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết
định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu
trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý
trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà
án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong
bản án, quyết định của Toà án 6. Và trong bản án trên tất cả chỉ căn cứ vào luật để
giải quyết chứ không có bất cứ một viện dẫn nào.
Câu 4: Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì sao?
•
Theo Điều 127 BLDS 2015 quy định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do
bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu.”
Điều 127 BLDS 2015: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất
của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”
•
Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 132 BLDS 2015 quy định:
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do
bị nhầm lẫn, bị lừa dối.
Ta thấy anh Vinh đã giấu ông Đô, bà Thu quyết định cưỡng chế nhà và không
cho vợ chồng bà biết nhà và đất bị giải tỏa khi kí “Thỏa thuận hoán nhượng”
ngày 20/5/2004 nên ông bà đã kí. Theo điều khoản trên thì hợp đồng này là vô
hiệu.
Do đó quyết định hủy bỏ bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DS-ST ngày 10
-14/01/2008 và bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày 20/7/2008
6 Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao.
9
của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh
chấp mua bán nhà” là hợp lí.
Câu 5 : Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu
cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô hiệu?
Trong quyết định 210, theo Tòa án, ông Tài được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
có tranh chấp vô hiệu và bà Nhất không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh
chấp vô hiệu.
•
Điều này được thể hiện qua đoạn trích sau: “Về quyền khởi kiện: Do bà Nhất khởi
kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Dưỡng do bà Nhất đứng tên với ông Tài bị vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định
hợp đồng nêu trên bị vô hiệu do lừa dối là không đúng. Bởi lẽ, theo quy định của
BLDS năm 1995 và BLDS 2005 bà Nhất không phải là một bên tham gia giao
dịch với ông Tài, nên bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do lừa dối. Trường hợp này chỉ có
ông Tài mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu do
lừa dối, nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà Nhất khi
tiến hành giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Câu 6 : Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Trong quyết định 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối không còn.
•
Giải thích: Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn bà mới biết ông Dưỡng giả
mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến 10/12/2010 bà
Nhất mới khởi kiện mà theo khoản 1 Điều 142 BLDS 1995 thì thời hiệu khởi kiện
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do lừa dối là một
năm và khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 thời hiệu khởi kiện tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do lừa dối là hai năm từ ngày giao
dịch được xác lập. Còn Điều 159 BLTTDS quy định trong trường hợp pháp luật
không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai
năm, kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị
xâm phạm. Điều này dẫn đến thời hiệu khởi hiệu đã không còn vì đã hơn hai năm
trôi qua.
10
•
Trích bản án số 210/2013/DSGĐT, Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn bà
mới biết ông Dưỡng giả tạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài,
nhưng đến ngày 10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện. Nên nếu xác định bà Nhất có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyện nhượng quyền sử dụng
đất nêu trên bị vô hiệu do lừa dối, thì cũng đã hêt thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp
sơ thẩm vẫm thụ lý giải quyết vụ án là không đúng.
Câu 7: Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối,
Tòa án không công nhận hợp đồng.
Giải thích: Mảnh đất trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được
giải quyết và đến nay Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập
đủ chứng cứ để làm rõ. Nếu diện tích đất đang tranh chấp chưa được giải quyết
trong vụ án ly hôn thì phải xác định đây là tài sản chung của vợ chồng nên bà Nhất
không có quyền khởi kiện đối với ông Dưỡng. Còn nếu diện tích đất đã được giải
quyết trong vụ án ly hôn thì xác định quyền khởi kiện của bà Nhất đối với ông
Dưỡng. Khi chưa làm rõ các tình tiết nêu trên mà Tòa án cấp sơ thẩm lại giao toàn
bộ diện tích đất cho bà Nhất và buộc ông Dưỡng bồi thường cho ông Tài và Tòa
án cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không
đúng.
• Vậy nên: Tòa án nhân dân Tối cao đã hủy bỏ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và
sơ thẩm.
•
Câu 8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác nhau không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào các tình tiết như trong Quyết định số 210?
Câu trả lời cho câu hỏi trên có sự khác biệt nếu áp dụng các quy định tương ứng của
BLDS 2015 vào các tình tiết như trong Quyết định số 210:
• Theo điểm b khoản 1 Điều 132 BLDS 2015:
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị
nhầm lẫn, bị lừa dối.
• Tòa án quy định thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ khi người bị lừa dối biết hoặc
phải biết giao dịch được xác lập do lừa dối. Lúc giao dịch ông Tài không biết ông
Dưỡng giả mạo chữ ký nên từ lúc phát hiện cho đến lúc khởi kiện chưa quá 2 năm
nên vẫn có thể khởi kiện.
11
Câu 9: Quay trở lại vụ việc trong phần nhầm lẫn, vì sao Tòa án tuyên hợp đồng vô
hiệu do nhầm lẫn mà không tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối.
Căn cứ vào Điều 132 BLDS năm 2005:
“Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
• Căn cứ vào Điều 131 BLDS năm 2005: giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn.
“Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch
dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lãn có quyền yêu cầu bên kia thay
đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm
lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu”.
• Căn cứ vào luật định và những tình tiết trong bản án thì nguyên nhân Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn mà không tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối vì
cả bà Anh và bà Mai đều không hề biết rõ con đường hướng Đông là đường thuộc
quyền quản lí của Sư đoàn BB7 hay đường công cộng:
Thứ nhất, trong bản vẽ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Anh
ngày 04/02/2010 thể hiện “mặt tiền nhà là lề đường rộng 0.5m rồi đến đường
nhựa rộng 18m (ghi là “đường vào Sư đoàn BB7 (18m) nhựa”), không thể hiện
đường nhựa là của quân đội (Sư đoàn BB7); bản vẽ không thể hiện nhà, đất có
lối đi nào khác.
Thứ hai, tháng 12/2015 Sư đoàn BB7 có chủ trương xây hàng rào (bít hoàn
toàn mặt tiền nhà có đường nhựa 18m đang tranh chấp đó) và đầu năm 2016 đã
cử cán bộ thông báo nhiều lần cho bà Anh nhưng không gặp.
Thứ ba, tháng 2/2016, Sư đoàn tiếp tục thông báo ngày 15/3/2016 sẽ xây tường
rào, ông Thanh không thông báo lại sự việc này cho bà Anh vì đại diện Sư
đoàn không nhờ ông thông báo lại.
Tình tiết theo bản án đã thể hiện rõ rằng bà Anh thật sự không biết là con đường nhựa
hướng Đông thuộc quyền quản lý của sư đoàn BB7 và sắp được xây dựng hàng rào cho
nên trong vụ việc này, bà không cố ý lừa dối bà Mai để bán đất.
•
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án.
Tòa án đã quá vội vàng trong việc tuyên án và còn thể hiện được nhiều sai sót trong
việc điều tra và xét xử:
•
Thứ nhất, Tòa chưa điều tra và xem xét tình huống thực tế giữa vợ chồng ông
Dưỡng và bà Nhất cũng như là việc ly hôn và phân chia tài sản sau ly hôn của hai
ông bà, căn cứ vào Quyết định số 25/2007/QĐST-HNGĐ của tòa án nhân dân
huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp v/v công nhận cho bà Nhất, ông Dưỡng ly hôn;
12
công nhận sự thỏa thuận nuôi con và cấp dương nuôi con chung; thỏa thuận phân
chia tài sản; tuy nhiên quyết định nêu trên bị VKS nhân dân tỉnh Đồng Tháp kháng
nghị giám đốc thẩm và tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2008/DS-GĐT ngày
23/9/2008 đã hủy phần phân chia tài sản và án phí của Quyết định nêu trên.
• Thứ hai, bà Nhất không được yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng giao dịch
dân sự do lừa dối, vì theo quy định của BLDS năm 1995 và BLDS 2005 bà Nhất
không phải là một bên tham gia giao dịch với ông Tài, nên bà Nhất không có
quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu do lừa dối.. nhưng tòa án sơ thẩm vẫn thụ lí và chấp nhận đơn khởi kiện của
bà Nhất .
• Thứ ba, trường hợp bà Nhất khởi kiện thì Tòa án phải căn cứ quy định tại điều 28
Luật Hôn nhân gia đình về “ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” để xác
định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu theo điểm b
khoản 1 điều 122 và điều 127 BLDS. Khi đó ông Tại mới là bị đơn
Và quyết định hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên
Giang và bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang là
chính xác cũng như cần điều tra và xác thực lại tình tiết của vụ án.
BÀI 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
Câu 1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Theo
khoản 1 Điều 131: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”.
Câu 2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú
Mỹ có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng
công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
Khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho
Công ty Orange phần giá trị tương đương với khối lượng công việc mà Công ty Orange
đã làm. Vì công ty Orange đã hoàn tất và bàn giao cho Công ty Phú Mỹ bản vẽ và CD
của Dự án theo đúng cam kết trong hợp đồng. Dựa vào Khoản 2 Điều 131: “Khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để
hoàn trả”. Theo đó, Công ty Orange cũng đã chi trả các chi phí để hoàn thành sản phẩm
cho Công ty Phú Mỹ, và công ty Phú Mỹ cũng đã nhận bản vẽ và CD từ Công ty Orange,
nên Công ty Phú Mỹ phải chi trả cho Công ty Orange phần giá trị đúng với cam kết.
13
Câu 3: Hướng giải quyết của Hồi đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Hội đồng Thẩm phán công nhận khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực
hiện và yêu cầu công ty Phú Mỹ thanh toán số tiền tương ứng với lượng công việc công
ty Orange đã làm.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên
quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp
đồng vô hiệu.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu là hoàn toàn hợp tình hợp lý.
Thứ nhất, BLDS không nêu rõ khi nào “không hoàn trả được bằng hiện vật” và
“hoàn trả bằng tiền”, “trị giá thành tiền để hoàn trả” được hiểu là bao nhiêu
(quy đổi thành tiền như thế nào) nên có thể lý giải hướng giải quyết của Tòa án
trên cơ sở các quy định này: những gì đã xảy ra trong các trường hợp trên trước
khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu được coi là không hoàn trả được bằng hiện vật,
phải hoàn trả bằng tiền và khoản tiền phải trả bằng chính khoản tiền đã được các
bên thỏa thuận.
• Thứ hai, có thể dựa vào tinh thần của điều luật trên về khôi phục tình trạng ban
đầu. Cụ thể, mục đích của việc khôi phục lại tình trạng ban đầu là để tránh
trường hợp một bên bị tồn tại và một bên có lợi từ hợp đồng nếu không có việc
khôi phục tình trạng ban đầu.Việc hoàn trả lẫn nhau những gì đã làm là một hệ
quả tự nhiên của hợp đồng vô hiệu: Sẽ là không công bằng khi việc vô hiệu là căn
cứ trục lợi của một bên bất lợi cho bên còn lại.7
•
Công ty Phú Mỹ đã hưởng lợi từ hợp đồng với Công ty Orange qua việc sử dụng
(một phần) bộ bản vẽ chi tiết của Công ty Orange để xin Giấy phép xây dựng và tiến
hành xây dựng trên thực tế nên việc khôi phục lại tình trạng ban đầu bằng hoàn trả hiện
vật là không thể.
Câu 5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu?
Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế
nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
7 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 124 – 126; trang 38 – 39.
14
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với lượng công việc mà Công ty Orange
đã thực hiện nếu xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu là: nếu Hợp đồng dịch
vụ là hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange
phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện
theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do thanh toán chậm thanh toán theo
quy định của pháp luật.
• Ở đây, lãi trả chậm chỉ được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận trong trường hợp hợp
đồng hợp pháp và không có lãi trả chậm trong trường hợp vô hiệu hợp đồng, tức
cũng không chấp nhận lãi chậm trả trong trường hợp vô hiệu.8
• Việc xem hợp đồng là hợp pháp thì việc chi trả lãi trả chậm là nhằm thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết tại hợp đồng và chịu chế tài áp dụng cho việc không thực hiện
nghĩa vụ đưa ra đúng với thời gian đã cam kết. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên thì
nếu giao dịch dân sự vô hiệu thì không phát sinh lãi chậm trả do đây được xem là
việc các bên đang khôi phục lại tình trạng ban đầu.
•
Từ những hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán ta thấy được các Toà án cấp sơ thẩm
và Toà án cấp phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề về tính
hợp pháp của hợp đồng mà đã xác định hợp đồng dịch vụ ngày 15/06/2007 là hợp đồng
hợp pháp là chưa thỏa mãn. Từ bản án có thể cho thấy khi giải quyết vụ án liên quan đến
giao dịch dân sự, để có đủ cơ sở giải quyết chính xác, đúng pháp luật thì Tòa án xác định
hợp đồng dịch vụ vô hiệu hay hợp pháp đều phải yêu cầu các bên đương sự cung cấp đủ
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác
để làm rõ các vấn đề nêu trên.
Câu 6: Trong quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định
hợp đồng vô hiệu?
Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu do xét thấy:
Trong trường hợp khi ông Sanh khởi kiện, để giải quyết tranh chấp hợp đồng, Tòa
án nhân dân huyện Yên Lạc đã cho thời gian gia hạn để anh Dư và chị Chúc thực
hiện quy định về hình thức của hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư – chị Chúc vẫn
không thực hiện. Trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tuyên bố
hợp đồng vô hiệu, trong khi đó Tòa án lại công nhận hợp đồng và giao cho anh
Sanh quyền sử dụng đất, bác đơn của anh Dư và chị Chúc.
• Ở cấp xét xử phúc thẩm, Tòa án Tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định hợp đồng vô hiệu do
vi phạm về cả nội dung lẫn hình thức.
•
8 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 124 – 126; trang 43.
15
Do đó mà Tòa án nhân dân tối cao quyết định xác định hợp đồng vô hiệu và giao lại
hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử lại.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định
hợp đồng trên là vô hiệu?
Quyết định Giám đốc thẩm số 75/2012/DS-GĐT xác định hợp đồng chuyển
nhượng trên chỉ vi phạm về hình thức nên bị vô hiệu có phần chưa hợp lý.
• Xét thấy, theo Luật đất đai 2013, tại điểm a và d khoản 3 Điều 167 thì hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, việc
chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Văn bản ghi nhận việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Sanh và vợ chồng anh Dư, chị Chúc thực tế
đã được ký kết xác nhận từ phía Ủy ban nhân dân xã Trung Nguyên.
• Tuy nhiên, vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã không hợp tác với ông Sanh trong việc
hoàn thành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất khiến cho văn bản vi phạm
những điều kiện có hiệu lực về hình thức. Căn cứ theo khoản 1 Điều 129 BLDS
2015 thì trong trường hợp này, nếu một bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa
vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án ra quyết định
công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Cụ thể, ông Sanh đã thực hiện 82,051% giá
trị hợp đồng nên Tòa án hoàn toàn có thể công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự
này theo yêu cầu của ông Sanh.
•
Câu 8: Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ
được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Căn cứ theo Điều 131 BLDS 2015 thì:
Tại khoản 2 thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Thực tế, ông Sanh đã đưa cho vợ chồng anh Dư, chị Chúc số
tiền chuyển nhượng là 160.000.000 đồng nên ông sẽ được nhận lại khoản tiền này.
• Hơn nữa, tại khoản 4 quy định bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường, cụ thể ở
đây là anh Dư, chị Chúc. Do không tuân thủ các quy định điều kiện có hiệu lực về
hình thức nên vợ chồng anh phải bồi thường cho ông Sanh thiệt hại do lỗi gây ra là
330.255.000 đồng và thanh toán giá trị công trình xây dựng trên đất là 81.500.000
đồng.
• Tổng cộng, ông Sanh nhận được số tiền là 571.755.000 đồng.
•
Câu 9: Trong bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh
Đậu và ghi nhận ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được
cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu
không? Vì sao?
16
Trong bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và
ghi nhận ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Thực tế, ban đầu thì giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất diện
tích 350 giáp quốc lộ 47 mang tên vợ chồng ông Bùi Tiến Văn và bà Nguyễn Thị
Tằm.
• Sau khi lấy được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh Bùi Tiến Dậu đã thành
lập 3 hợp đồng tặng cho và tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên
thành 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên 3 anh em.
•
Việc giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên vô hiệu đã làm vô hiệu hợp đồng tặng cho
giữa ông Văn, bà Tằm và anh Dậu, qua đó cũng làm vô hiệu hợp đồng tặng cho giữa anh
Dậu và anh Bình, anh Sinh. Vì vậy, Tòa án đã hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và
cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đúng như ban đầu theo trình bày trong bản án.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb.
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, 2016, tr. 143 đến 146.
2. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6), Bản án số 56-58.
3. Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb.
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, 2016, tr. 153 đến 154.
4. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam –Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6), trang 488, 489.
5. Bản án số 08/DSST ngày 9/2/1999 của Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố
Hà Nội.
6. Điều 8 của Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
7. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6), Bản án số 124 – 126; trang 38 – 39.
8. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6), Bản án số 124 – 126; trang 43.
18
19