Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Đảng bộ huyện sông lô tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.23 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ HUẤN

ĐẢNG Bộ HUYỆN SÔNG LÔ TỈNH VĨNH PHÚC
LÃNH ĐẠO XÂY DƯNG NÔNG THÔN MỚI
TỪ NÃM 2011 ĐẾN NĂM 2015

KHÓA LUÂN TỐT NGHIẼP ĐAI HOC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học:
ThS. Phạm Văn Giềng

HÀ NỘI, 2016


“Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy” đó là đạo lí mà nghìn đời nay mỗi người
dân Việt Nam khi sinh ra, lớn lên và trưởng thành luôn khắc ghi ưong lòng.
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành trước hết là kết quả sau 4 năm
học tập, rèn luyện và nỗ lực phấn đấu của bản thân tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2. Đồng thời đây cũng là thành quả của quá trình dạy dỗ, chăm sóc của
gia đình. Sự dẫn dắt tận tình của nhà trường, cùng sự giúp đỡ chân thành của
thầy cô giáo, bạn bè.
Trước tiên cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thảnh và sâu sắc nhất
tới thầy Phạm Văn Giềng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và gợi mở cho
em những tri thức quý giá trong suốt thời gian e thực hiện khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn, Ưỷ ban nhân dân huyện Sông Lô, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc huyện Sông Lô, cùng các cá nhân đã tạo điều điện và giúp đỡ em
trong việc sưu tầm và chọn lọc tài liệu.


Thông qua bài khoá luận tốt nghiệp cho phép em gửi lòi cảm ơn chân
thành nhất tới tất cả các thày, cô trong khoa Giáo dục chính trị đã trao cho em
những tri thức quý giá ữong suốt 4 năm qua, đó là hành ừang vững chắc cho
tương lai.
Cuối cùng cảm ơn bạn bè, những người đã luôn bên em động viên và giúp
đỡ em hoàn thành tốt bài khoá luận của mình.
Em xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên thực hiện


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong khoá luận là trung thực, có xuất xứ rõ rang. Những kết luận
ữong khoá luận chưa từng công bố ữong bất cứ công trình nào.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên thưc hiên

Trần Thị Huấn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCĐ

Ban chỉ đạo

CNH, HĐH
HĐND

công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Hội đồng nhân dân

HTX
MTTQ

Hợp tác xã
Mặt trận Tổ Quốc

NTM

Nông thôn mới

UBND

Uỷ ban nhân dân

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thôn


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong
quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) đất nước, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân luôn được Đảng ta
xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất. Chính vì vậy nghị quyết Đại hội đại biểu
lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã xác định: “ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn mới là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, xã hội” [10]. Đặc biệt nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “hiện nay và
trong nhiều năm tới đây vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến
lược quan trọng”, “xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn” [11].
Thực hiện Nghị quyết TW 7 khoá X về “nông nghiệp, nông dân và nông
thôn” thủ tướng chính phủ đã ban hành “bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”
(quyết định số 491/QĐ - TTg ngày 16/4/2009) và “chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới” tại quyết định số 800/QĐ - TTg ngày 06/04/2010
nhằm thống nhất chỉ đạo việc xây dựng nông thôn mới trên cả nước. Cùng với
quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển nông thôn, huyện Sông
Lô đã tiến hành xây dựng mô hình nông thôn mới (NTM) xây dựng làng, xã, có
cuộc sống ấm no, văn minh, môi trường trong sạch.
Sông Lô là một huyện nghèo của tỉnh Vĩnh Phúc, đòi sống nhân dân còn
gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, cơ sở vật chất, hạ tầng còn thấp kém.Trong cơ
cấu kinh tế, nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ lớn, dân cư chủ yếu tập trung ở vùng
nông thôn.Vì vậy việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn lại càng trở

nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

6


Từ năm 2011 huyện Sông Lô đã triển khai, áp dụng mô hình NTM của
chính phủ và đạt được một số thành tựu đáng kể trong phát triển nông nghiệp ở
địa phương, nếp sống, mức thu nhập tăng cao so với những năm trước. Người
dân đã áp dụng khoa học kĩ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi. Nhận thức được
những thuận lợi và khó khăn của địa bàn nông thôn Huyện, Đảng bộ đã tập
trung lãnh đạo và đề ra chủ trương, chính sách để giải quyết vấn đề này, một
trong những nhiệm vụ trọng tâm đó là tập trung xây dựng NTM.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng NTM đã đặt ra rất nhiều
vấn đề cả về lí luận và thực tiễn, đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ vị
trí, vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng
NTM. Vì vậy em chọn đề tài “Đảng bộ Huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo xây dựng NTM từ năm 2011 đến năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Phát triển nông nghiệp, nông thôn là vấn đề không mới. Trong mỗi giai
đoạn khác nhau của cách mạng, vấn đề này lại được đặt ra một cách khác nhau,
mặc dù chúng đều có những mục tiêu chung là làm thay đổi diện mạo nông
thôn, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn
minh cho người nông dân. Tuy nhiên NTM trong giai đoạn hiện nay đã và đang
đặt ra rất nhiều điểm mới. NTM và chương trình xây dựng NTM là vấn đề có
tầm quan trọng chiến lược, mang tính thòi sự trong giai đoạn hiện nay. Đây là
một chương trình tổng thể cần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị ừong đó vai trò lãnh đạo của Đảng là quan trọng nhất, bởi vậy đã có
rất nhiều các công trình đã và đang nghiên cứu.
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đối với việc phát triển

nông nghiệp, nông thôn một cách chung chung cũng có một số tác giả tiến hành
nhưng tiêu biểu nhất là cuốn “lịch sử Đảng bộ Huyện Sông Lô, tỉnh

7


Vĩnh Phúc (2009-2015). Cuốn sách khái quát quá trình Đảng bộ Huyện Sông
Lô, tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo trong giai đoạn trên.
Tuy nhiên vấn đề “Đảng bộ Huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng NTM từ năm 2011 đến năm 2015” là hoàn toàn mới mẻ chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu

làm rõ vị trí, vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối vói chương
trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc nhằm góp
phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội, ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời
sống vãn hoá nông thôn.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài cần tập trung thực hiện những vấn đề

cơ bản như:
- Làm rõ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về vai trò, nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng về chương trình mô hình xây dựng NTM.
- Trình bày sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc

ữong quá trình xây dựng NTM từ năm 2011 đến năm 2015.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét, kinh nghiệm để khắc phục những
hạn chế còn tồn tại trong việc xây dựng NTM của huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh
Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng Bộ huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc đối với việc xây

dựng NTM từ năm 2011 đến năm 2015.

8


4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc từ năm

2011 đến năm 2015.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu khoá luận là dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Để phân tích những nội dung cụ thể của bài khoá luận, em đã sử dụng
nhiều phương pháp như: Phân tích, tổng hợp, so sánh tài liệu có liên quan đến
vấn đề xây dựng NTM của Đảng để xây dựng cơ sở lí luận cho khoá luận.
6. Ý nghĩa của khoá luận
Đề tài làm rõ vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
chương trình xây dựng NTM, phân tích tính cấp thiết của việc tăng cường vai

trò của Đảng Bộ cơ sở, đồng thời đưa ra một số kinh nghiệm để nâng cao vai
trò của Đảng đối với xây dựng NTM trên địa bàn huyện Sông Lô.
7. Kết cấu của khoá luân


Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khoá luận gồm có 2 chương.
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng nông thôn mới
ở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chương 2. Quá trình Đảng bộ huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới từ năm 2011 đến năm 2015.
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THựC TIẾN XÂY DựNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC
1.1. Lý luận chung về xây dựng nông thôn
1.1.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng nông thôn
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình tổ chức,

9


động viên và tập hợp lực lượng đều nhận thức rõ vị trí, vai trò và khả năng cách
mạng to lớn của giai cấp nông dân trong sự nghiệp cách mạng do giai cấp công
nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản lãnh đạo. Chính trong quá trình đó, cả
C.Mác, Ph.Ăngghen và VI.Lênin đều có những nghiên cứu rất có giá trị về
nông nghiệp. Đặc biệt là về chỉ đạo tổ chức và phát triển kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp.
Nông dân, nông thôn là vấn đề rất quan trọng ưong liên minh công
nông.Vì vậy Mác -Ăngghen cho rằng trong cuộc cách mạng nếu giai cấp công

nhân không liên minh được với giai cấp nông dân thì những cuộc cách mạng vô
sản sẽ trở thảnh bài ca ai điếu, về vấn đề nông dân và nhiệm vụ của người cộng
sản trong sự nghiệp cách mạng nông dân, nông thôn vẫn mang tính thời sự.
Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp” viết năm 1894 khi trình bày
những nguyên lý của chính sách nông nghiệp xã hội chủ nghĩa, Ăngghen chỉ ra:
“Nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền sở hữu
cá thể và nền kỉnh doanh cá thể vào con đường kinh doanh hợp tác” [16 ừ 280].
Ăngghen còn cho rằng:
Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông, chúng ta cố tìm đủ mọi
cách làm cho số phận của họ dễ chịu hơn, để cho họ chuyển sang hợp tác xã
được dễ dàng hơn, nếu họ quyết như thế [16.Tr310].
Nhận thức sâu sắc tầm quan ữọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp,
nông thôn, Ăngghen cho rằng: Chúng ta làm như thế là vì chính ngay lợi ích
của Đảng. Vì thế mà sau này, Lênin tiếp tục khẳng định: “Cỏ công nông là có
chính quyền, có tất cả ”[29. Tr 180].
Bàn về con đường cơ bản để cải tạo nông dân, trong “Tuyên ngôn thành
lập Hiệp hội công nhân Quốc tế”. C.Mác đã nhấn mạnh: muốn giải phóng nông
dân, quần chúng lao động, thì càn phải phát triển lao động họp tác trên quy mô
cả nước, bằng con đường kinh tế chứ không phải bằng những biện pháp tội lỗi
với nông dân. Những ngưòi nông dân sau khi thoát khỏi chế độ bóc lột của chủ

1
0


nghĩa tư bản trở thành những người nông dân tự do và được chia ruộng đất
thuộc nhà nước. Nhưng sự thâm nhập của sản xuất hàng hóa vào nông nghiệp,
sự cạnh tranh giữa nông dân, những cuộc đấu tranh giành đất đai, đã dẫn đến
tình trạng phân hóa trong nông dân: giai cấp tư sản nông dân lấn át trung nông
và nông dân nghèo. Đó là vấn đề có tính quy luật. Vì vậy, chừng nào người

nông dân chưa ừở thành những người lao động tập thể trong các họp tác xã thì
chừng đó vẫn còn nguy cơ đói nghèo và bị bóc lột. Do đó, con đường cơ bản để
cải tạo những người nông dân là tập họp họ vào các họp tác xã.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội ừong điều kiện một nước kém phát triển,
trong những năm 1921-1923, V.I. Lênin đưa ra quan điểm là: Phải bắt đầu từ
nông dân; phải chấn hưng nông nghiệp và xem đó là giải pháp quan trọng để
thực hiện Chính sách kinh tế mới và chế độ họp tác xã.
Quan điểm cơ bản về vấn đề nông dân ừong chính sách kinh tế mới là:
Lấy nông nghiệp làm nền tảng phát triển kinh tế, trao quyền tự chủ cho nông
dân, xây dựng mối quan hệ công - nông. Lênin khẳng định: Cải thiện đòi sống
của nông dân, bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ, phải bắt đầu từ
nông dân. Như vậy chính sách kinh tế mới đã xác định đúng vai ừò quyết định
của nông dân trong công cuộc khôi phục, xây dựng đất nước. Quan điểm chính
tri “bắt đầu từ nông dân” của NEP trong chính sách kinh tế mới của
Lênin là một trong “những biện pháp cấp tốc, cưomg quyết nhất, cấp thiết để
cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao năng lực sản xuất của họ”.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nông thôn ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và đề cao vai trò của nông dân, nông
nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp cách mạng:
Phát triển nông nghiệp là việc cực kì quan trọng. Muốn phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc,
làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để tiêu thụ

1
1


hàng hóa công nghiệp làm ra [17,tr 180].
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn
giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan trọng nhất,

cơ bản nhất, cấp thiết nhất của con người là nhu càu ăn, mặc, ở. Trong đó, ăn là
nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn các nhu cầu ăn (và mặc, ở) trên một
mức độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến các nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh
viết: sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất lương thực, là việc cần thiết
nhất cho đòi sống nhân dân, là bộ phận quan ưọng ữong kế hoạch kinh tế của
Nhà nước.
Sau ngày đất nước giành được độc lập, trong thư gửi điền chủ nông gia
Việt Nam ngày 11/4/1946, Hồ Chí Minh đã viết:
Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp.Nền kinh tế của ta lấy canh
nông làm gốc.Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào
nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.Nông dân ta giàu thì nước ta
giàu.Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh [17. Tr 80].
Người đã gắn sự giàu có, thịnh vượng của nông dân, nông nghiệp với sự
giàu có, thịnh vượng của đất nước. Người đã coi nông nghiệp và nông dân là
lực lượng quan ữọng góp phần tạo nên sự giàu có cho đất nước ta.
Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân pháp thắng lợi, miền Bắc
bước vào thòi kỳ khôi phục kinh tế, trong lời kêu gọi nông dân thi đua sản xuất
và tiết kiệm năm 1956, Người vẫn nhắc: “khôi phục sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu”. Sau khi công cuộc khôi phục kinh tế kết thúc thành công, sản xuất trở
lại bình thường, đời sống nhân dân bước đầu ổn định. Đất nước ta bắt đầu bước
vào giai đoạn thực hiện các kế hoạch dài hạn, tiến hành công nghiệp xã hội chủ
nghĩa nhằm đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh lại
nhắc nhở: Nước ta là một nước nông nghiệp giống như Trung Quốc, Triều
Tiên. Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc
phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính.

1
2



Trong mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận quan trọng nhất của nền kinh
tế quốc dân, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của nông
nghiệp đối với công nghiệp và thương nghiệp.
Hồ Chí Minh luôn coi nông nghiệp và công nghiệp là hai ngành kinh tế
quan trọng nhất và có tác động với nhau rất mật thiết. Người đã rất nhiều lần
nêu 9 lên hình ảnh: “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế”.
Người dùng từ “què”, “khập khễnh” để phê phán sự phát triển không đồng bộ
giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý đến toàn Đảng, toàn dân phải chú ý
đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Là “hai chân của nền kinh tế” phải phát
triển vững chắc cả hai công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và
cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe, đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và
nhanh chóng đi đến đích.
Năm 1956, ừong lòi kêu gọi đồng bào nông dân thi đua sản xuất và tiết
kiệm, Người đã viết “sản xuất nông nghiệp...giải phóng vấn đề lương thực,
cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu nông nghiệp, thủ công nghiệp,
công nghiệp và cung cấp thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán vói nước
ngoài”.
Với Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện phải là
nền nông nghiệp phát triển toàn diện, nền nông nghiệp phát triển đó càng không
phải trong một nền kinh tế thuần nông mà là trong một nền kinh tế hiện đại, với
sự phong phú về ngành nghề, đa dạng về sản phẩm....Theo Ngưòi: Sản xuất
phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thòi coi trọng hoa màu, cây ăn quả,
cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ.
Như vậy, qua các quan điểm trên đây có thể thấy C.Mác, V.Lênin, Hồ Chí
Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Và trên
cơ sở những quan điểm đó, Đảng ta đã tiếp thu, vận dụng một cách có sáng tạo
trong quá trình đề ra đường lối, chủ trương cho việc xây dựng và phát triển

1
3



nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong giai đoạn mới.
1.1.3.

Một số vấn đề cơ bản về chương trình xây dựng nông thôn mới

1.1.3.1.

Tiêu chí nông thôn mới

Quán triệt nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá X)
ra nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 đã nêu một cách toàn diện quan
điểm của Đảng ta về xây dựng NTM. Nghị quyết khẳng định nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vai trò lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng và
cần khai thác một cách có hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, phù họp với điều kiện của từng vùng, từng lmh
vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Xây dựng NTM là
xây dựng kết cấu hạ tầng- xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất họp lý, gắn nông nghiệp vói phát triển nhanh
công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.
Ngày 16/4/2009, Thủ tướng chính phủ đã kí Quyết định số 491/QĐ-TTg,
ban hành bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí và được chia thành
5 nhóm cụ thể: Nhóm tiêu chí về quy hoạch, nhóm tiêu chí về hệ thống kinh tế xã hội, nhóm tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản xuất, nhóm tiêu chí về văn hoáxã hội- môi trường và nhóm tiêu chí về hệ thống chính trị. Theo đó, bộ tiêu chí
đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo từng vùng: Trung du
miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam

Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long phù hợp
với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng.
Các tiêu chí trong bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm:

1
4


-

Tiêu chí 1. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch.

-

Tiêu chí 2. Giao thông.

-

Tiêu chí 3. Thuỷ lợi.

-

Tiêu chí 4. Điện.

-

Tiêu chí 5. Trường học.

-


Tiêu chí 6. Cơ sở vật chất văn hoá.

-

Tiêu chí 7. Chợ nông thôn.

-

Tiêu chí 8. Bưu điện.

-

Tiêu chí 9. Nhà ở dân cư.

-

Tiêu chí 10. Thu nhập.

-

Tiêu chí 11. Hộ nghèo.

-

Tiêu chí 12. Cơ cấu lao động.

-

Tiêu chí 13. Hình thức tổ chức sản xuất.


-

Tiêu chí 14. Giáo dục.

-

Tiêu chí 15. Y tế.

-

Tiêu chí 16. Văn hoá.

-

Tiêu chí 17. Môi trường.

-

Tiêu chí 18. Hệ thống tổ chức chính trị- xã hội vững mạnh.

-

Tiêu chí 19. An ninh, trật tự xã hội được bền vững.
Ngày 20/2/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 342/QĐ-

TTg sửa đổi 5 tiêu chí của bộ tiêu chí quốc gia về NTM ban hành tại Quyết
định số 491/QĐ-TTg. Theo đó, 5 tiêu chí trong bộ tiêu chí quốc gia và NTM
bao gồm: tiêu chí số 7 về chợ nông thôn, tiêu chí 10 về thu nhập, tiêu chí 12 về
cơ cấu lao động, tiêu chí 14 về giáo dục, và tiêu chí 15 về y tế. Cụ thể:
- Tiêu chí số 12 về “cơ cẩu lao động”â\iợc đổi thành tiêu chí “tỷ lệ lao

động có việc làm thường xuyên
Theo đó, thay vì tính theo tỷ lệ lao động ừong độ tuổi làm việc trong lĩnh

1
5


vực nông, lâm, ngư nghiệpthì quy định mới tính theotỷ lệ người làm việc trên
dân số trong độ tuổi lao động.
Đối với chỉ tiêu này, quyết định nêu rõ chỉ tiêu chung và từng vùng là đạt
từ 90% trở lên.
về tiêu chí chợ nông thôn, nội dung "chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng"
được thay thế bằng nội dung "chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn theo quy định
- Quyết định cũng sửa đổi nội dung "phổ cập giáo dục trung học" trong
tiêu chí về giáo dục thảnh "phổ cập giáo dục THCS".
- Nội dung tỷ lệ người dân tham gia các hình thức Bảo hiểm y tế trong
tiêu chí số 15 về y tế được sửa đổi thành "Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y
tế" vởi chỉ tiêu chung cho cả nước đạt từ 70% trở lên, chỉ tiêu cho các vùng là
đạt.
1.13.2.

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới

Trong chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày
28/10/2008 của Chính phủ) đã khẳng định: Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng NTM với nội dung chính là: Xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư
nông thôn theo hướng vãn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc vãn hoá và môi
trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn. Phát triển đồng bộ hệ thống

hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp không gian xây dựng làng (ấp, thôn
bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương.
Ngày 4/6/2010, thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 800/QĐ-TTg phê
duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020
với 11 nội dung, cùng đó là 14 chương trình mục tiêu quốc gia, 16 chương trình
hỗ trợ có mục tiêu triển khai trên địa bàn nông thôn cả nước. Mục tiêu chung
của chương trình được Đảng ta xác định là: Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng

1
6


kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất họp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn
phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh
trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của ngưòi dân ngày càng
được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương trình đề ra hai mục
tiêu cụ thể: đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn NTM (theo Bộ tiêu chí
quốc gia về NTM) và đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là một chương trình
tổng thể bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, chính ưị, an ninhquốc phòng gồm 11 nội dung (theo quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Một là: Quy hoạch xây dựng NTM.
Hai là: Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
Ba là: Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập.
Bắn là: Giảm nghèo và an sinh xã hội.
Năm là: Đổi mói và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả
ở nông thôn.
Sáu là: Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn.

Bảy là: Phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ cư dân nông thôn.
Tám là: Xây dựng đòi sống văn hoá, thông tn và truyền thông nông thôn.
Chín là: cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Mười là:Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính
trị - xã hội trên địa bàn.
Mười một là: Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.
Chương trình cũng đưa ra vốn và nguồn vốn thực hiện. Một là: vốn ngân
sách nhà nước (trung ương và địa phương), bao gồm vốn từ các chương trình

1
7


mục tiêu quốc gia và chương trình dự án hỗ trợ các mục tiêu đang triển khai và
sẽ tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo. Hai là: vốn tín dụng bao gồm
tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng thương mại là khoảng 30%. Ba là: vốn
huy động đóng góp của cộng đồng dân cư là 10%.
Chủ thể thực hiện chương trình là người nông dân và cộng đồng dân cư.
Họ được biết, được bàn, được quyết định, được làm, được giám sát và thụ
hưởng, cấp uỷ, chính quyền xã, chi uỷ, trưởng thôn là người trực tiếp chỉ đạo,
tổ chức. Trung ương, tỉnh, huyện giữ vai trò lãnh đạo, hỗ trợ, tập huấn, hỗ trợ
nguồn lực, chỉ đạo, kiểm tra, rút kinh nghiệm, tổ chức thi đua gắn với khen
thưởng.
1.2. Thực tiễn xây dựng nông thôn của huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
trước năm 2011
1.2.1.

Khái quát chung về huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc

1.2.1.1.


Điều kiện tự nhiên

Sông Lô là huyện miền núi nằm ở phía Tây bắc tỉnh VTnh Phúc, có tổng
diện tích tự nhiên 150,32 km2 , có 17 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn. Đó
là: Thị trấn Tam Sơn, và các xã: Đông Thịnh, Lãng Công, Nhạo Sơn, Đồng
Quế, Tân Lập, Cao Phong, Hải Lựu, Yên Thạch, Nhân Đạo, Đức Bác,
Phương Khoan, Như Thuỵ, Đôn Nhân, Bạch Lưu, Quang Yên, Tứ Yên. Trung
tâm huyện Sông Lô cách trung tâm tỉnh lỵ khoảng 30 km về phía Đông Nam.
Phạm vi ranh giới như sau: đông và đông nam giáp huyện Lập thạch; tây
giáp huyện Phù Ninh và thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; bắc giáp huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Địa hình của huyện Sông Lô chia thành ba vùng chính:
Vùng 1: gồm các xã miền núi phía bắc (Hải Lựu, Bạc Lưu, Đồng Quế,
Nhân Đạo, Lãng Công, Quang Yên). Đây là vùng đồi núi cao xen lẫn các thung
lũng nhỏ hẹp, tầng đất dày, ít bị rửa trôi. Trong vùng còn có các đồi thấp, tầng

1
8


đất dày, thích nghi với cây màu lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Vùng 2: gồm các xã Yên Thạch, Đồng Thịnh, Nhạo Sơn, Tân Lập. Tiểu
vùng này có đặc trưng là đất ruộng và đồi gò xen kẽ nhau, địa hình nhấp nhô,
lượn sóng, dốc thoải, bao gồm ruộng bậc thang và những cánh đồng nhỏ hẹp.
Đất nông nghiệp hầu hết là đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng.
Vùng 3: gồm các xã ven Sông Lô (Phương khoan, Đôn Nhân, Thị trấn
Tam Sơn, Như Thụy, Tứ Yên, Đức Bác, Cao Phong) các xã này có dải đất phù
xa nhỏ hẹp, phân bố không đều phía ngoài đê, hằng năm thường bị xói mòn.
Phía trong đê, phù sa bồi đắp ăn sâu vào các vạt ruộng ven đồi, lẫn sản phẩm

dốc sụ, thành phần đất ven sông phần lớn là cát pha, liên kết dạng viên xốp,
vùng thấp thích hợp trồng lúa, vùng cao thích hợp trồng màu và cây công
nghiệp ngắn ngày.
Diện tích đất nông nghiệp là 6291,96 ha chiếm 42% diện tích đất tự nhiên;
trong đó đất đất trồng cây hàng năm là 4202,78 ha chiếm 67%, đất trồng cây
lâu năm 1946,97 ha chiếm 31%, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản 147,92 ha
chiếm 2%, diện tích đất nông nghiệp.
Diện tích đất lâm nghiệp là 3921,86 ha chiếm 26% diện tích đất tự nhiên;
trong đó đất rừng trồng là 2795,57 ha, đất rừng phòng hộ 1126,29.
Đất chuyên dụng là 3326,72 chiếm 22% diện tích đất tự nhiên; trong đó
đất xây dựng cơ quan 16,04 ha, đất thủy lọi và mặt nước chuyên dùng 1319,92,
đất di tích lịch sử vãn hóa 14,52 ha, đất quốc phòng an ninh 7,15 ha, đất làm
nguyên liệu vật liệu xây dựng 78,2 ha, đất nghĩa trang, nghĩa địa 97,71 ha, đất
chuyên dùng khác 1760,78 ha.
Đất ở 478,86 ha chiếm 3% diện tích đất tự nhiên.Đất chưa sử dụng 976,55
ha chiếm 6% trên tổng diện tích đất tự nhiên.
Đến thời điểm ngày 31/12/2012, diện tích đất nông nghiệp giảm 83,55 ha
trong đó giảm sang nhóm đất phi nông nghiệp là 83,55 ha.

1
9


Nhìn chung, sự biến động giữa các loại đất trên địa bàn huyện trong
những năm qua là không lớn, diện tích đất nông nghiệp giảm chủ yếu do sử
dụng cho các mục đích phát triển kinh tế của các tổ chức xã hội và các tổ chức
kinh tế trên địa bàn huyện và các dự án phục vụ cho càu về đất ở tại địa
phương.
Khí hậu Sông Lô là vùng tiếp giáp giữa đồng bắc và tây bắc Việt Nam, có
đặc trưng đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều vào mùa hè và

hanh khô vào mùa đông. Khí hậu được chia làm bốn mùa rõ rệt: xuân - hạ - thu
- đông.
Nhiệt độ trung bình năm từ 22 -23°c (cao nhất vào tháng 6,7, 8 và lạnh
vào tháng 12, 1, 2). Nhiệt độ cao nhất là 40°c, thấp nhất là 4 - 7°c. số giờ nắng
trung bình 6 - 7h/ngày vào mùa hè, 3 - 4h vào mùa đông. Tổng số giờ nắng là
1.450 - 1.550 giờ. Lượng mưa trung bình năm từ 1.500 - 1.700mm, tập trung
chủ yếu từ tháng 6 đến tháng 8, tháng cao nhất lên đến 355mm (tháng 8), thấp
nhất chỉ có 8,3mm (tháng 12). Mưa lũ tập trung gây ngập ứng vùng trũng, sạt lở
vùng gò đồi, mùa khô gây hạn hán cho vùng đất cao. Độ ẩm không khí trung
bình là 92%, cao nhất vào tháng 4 (87%), thấp nhất vào tháng 2 (78%).
Có hai hướng gió chính thổi trên địa bàn huyện là gió đông nam từ tháng
4 đến tháng 9, và gió đông bắc từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau,
thường kéo theo không khí lạnh làm ảnh hưởng đến sản xuất nông, lâm nghiệp
và đòi sống sinh hoạt của nhân dân.
Nhìn chung Sông Lô là một huyện miền núi thấp. Toàn huyện có một con
sông lớn là sông Lô cùng với nhiều con suối nhỏ đã góp phần tạo cho huyện
một nguồn nước dồi dào và ổn định quanh năm phục vụ cho hoạt động sản xuất
của người dân. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng
vật nuôi có nguồn gốc khác nhau, tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp, du
lịch và đó cũng là tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi góp phần vào

2
0


công cuộc xây dựng NTM trong thời kì CNH, HĐH.
Tuy nhiên bên cạnh những điều kiện thuận lợi, điều kiện tự nhiên huyện
Sông Lô có những khó khăn nhất định: Hạn chế nổi bật của khí hậu huyện Sông
Lô là vùng bị hạn của khí hậu đông xuân và đầu vụ mùa trở đi. Với điều kiện
thuỷ văn như vậy càn phải có những biện pháp hữu hiệu về chuyển đổi cơ cấu

sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn gắn liền với nhau, tác
dụng bổ xung cho nhau cùng phát triển.
1.2.1.2. Điều kiện kinh tể - xã hội huyện Sông Lô
Dân số: Dân số huyện Sông Lô 95.000 người ừong đó dân số trung bình
thành thị 3.277 người, dân số trung bình nông thôn 89.789 người. Mật độ dân
cư trung bình toàn huyện là 567,3 người/km 2. Có nhiều dân tộc cùng chung
sống lâu đời bên nhau như: dân tộc Kinh, Dao, Cao Lan [20].
Lao động: Tính đến năm 2012 tổng số lao động làm việc trong các ngành
kinh tế của huyện là hơn 52.778 người tăng 2.245 người so với năm 2009. Phần
lớn lao động tập trung trong khu vực nông lâm - ngư nghiệp.
Huyện Sông Lô có dân số 93.065 người, trong đó dân số trung bình nông
thôn là 89.789 ngưòi, dân số trung bình thành thị 3.277 người, bằng 3,52% dân
số nông thôn, điều đó cho thấy lao động trong khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ
lệ lớn.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ và hài hòa với tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Sự nghiệp giáo dục - đạo tạo tiếp tục phát triển, có 100% trẻ 5
tuổi ra lớp, giáo dục phổ thông đã có 37/37 trường đạt chuẩn, 100% trường học
đã được kiên cố hóa, tỷ lệ tốt nghiệp đạt trên 95%, giáo viên đứng lớp đạt
chuẩn và trên chuẩn chiếm 99,7%.
Sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân có nhiều tiến
bộ, đã có 17/17 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 15/17 xã có bác sỹ, trẻ em trong
độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vacxin đạt 97,9%. Công tác khám điều

2
1


tri cho người nghèo, đối tượng chính sách được chú trọng, các dịch vụ y tế
ngoài công lập phát triển nhanh và được quản lý chặt chẽ đảm bảo phục vụ cho
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

Đòi sống văn hóa, thể thao ở cơ sở phát triển mạnh, công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân tham gia xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa
được triển khai thường xuyên và sâu rộng bằng nhiều hình thức khác nhau, tỷ lệ
hội gia đình văn hóa đạt 76,1%, thôn, làng văn hóa đạt 54,9%. Các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, lễ hội truyền thống được bảo tồn và ngày
càng phát triển. Công tác xã hội hóa việc bảo tồn các di tích và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống được trú trọng thường xuyên.
Công tác xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, khuyến khích làm giàu
được tập trung chỉ đạo và đạt kết quả tốt. Nhiều chương trình, chính sách được
thực hiện cho người nghèo như: dạy nghề cho người nghèo, vay vốn tạo việc
làm, hỗ trợ xóa nhà dột nát, hướng dẫn khoa học kỹ thuật, miễn giảm học phí
cho trẻ em nghèo, bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Công tác chính sách xã hội được quan tâm thực hiện tốt, các phong trào
“đền ơn đáp nghĩa”, các hoạt động nhân đạo, từ thiện phát triển mạnh, hiệu quả
và thiết thực. Chính trị xã hội, an ninh quốc phòng ổn định và giữ vững tạo điều
kiện và môi trường thuận lọi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, ttong bối cảnh một huyện có xuất phát điểm kinh tế thấp,
thuần nông, cơ sở còn lạc hậu, sự tác động bất lọi của tình hình kinh tế đang
ừong giai đoạn khủng hoảng, những thành tựu đạt được trong những năm qua
về phát triển kinh tế - xã hội của huyện Sông Lô đã chứng minh sự nỗ lực vượt
khó của Đảng bộ và nhân dân Sông Lô, song để phát triển cần nhìn nhận đầy đủ
những mặt hạn chế và bất cập, để có biện pháp, chính sách tháo gỡ.
Kinh tế có tăng trưởng nhưng chưa thật sự vững chắc, hiện huyện đang
đối mặt với nhiều thách thức: Chất lượng hàng hoá, dịch vụ nhìn chung còn

2
2


thấp, tỉ lệ sản phẩm chế biến gia công và thô còn lớn, khả năng mở rộng thị

trường tiêu thụ nông sản còn hạn chế, vùng nguyên liệu, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm, năng suất thấp.
Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề, giáo dục phổ thông,
dịch vụ y tế chưa đáp ứng yêu càu phát triển của huyện. Nhiều vấn đề trong
quản lí ngành nước, bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên khoáng sản, lâm
sản...Thực hiện chưa hiệu quả. Hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống dân cư ở khu
vực nông thôn còn khó khăn.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về chương trình xây dựng
NTM, huyện Sông Lô đang cố gắng nỗ lực để trở thành huyện đi đầu của tỉnh
về thực hiện xây dựng NTM nhằm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội...
1.2.2. Tình hình xây dựng nông thôn của huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
Nhận thức được tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đồng thòi thấm nhuần tư tưởng
chỉ đạo của Đảng uỷ, Ban thường vụ huyện uỷ đã chỉ đạo các cấp, các ngành
bắt tay vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Với những quyết sách họp lí để xây dựng
và phát triển nông thôn đã đưa nông nghiệp, nông thôn huyện đã có những
bước khỏi sắc, đời sống thay đổi lớn so với những giai đoạn trước đó.
Sông Lô là huyện miền núi nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Vĩnh Phúc, có
tổng diện tích đất tự nhiên là 150,32 km 2. Dân số thời điểm 31/12/2010 là
89.771 người.
Từ khi thành lập huyện đến nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các
dân tộc trong huyện đã đoàn kết, tập trung trí tuệ và các nguồn lực cho phát
triển kinh tế xã hội; nền kinh tế của huyện phát triển nhanh và ổn định, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở hạ tầng từng bước được củng
cố, kiện toàn.

2
3



về phát triển nông nghiệp
Phát triển kinh tế nông nghiệp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, ban
thường vụ huyện uỷ đã tập trung cao độ trí tuệ, kinh nghiệm chỉ đạo quyết liệt
để duy trì tốc độ phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định an ninh lương thực và
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Ban chấp hành, ban thường vụ huyện uỷ đặc biệt quan tâm chỉ đạo toàn
diện phát triển nông nghiệp, nông thôn, triển khai sâu rộng Nghị quyết số 03NQ/TU của Tỉnh uỷ về nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đòi sống nông dân
giai đoạn 2006- 2010, định hướng đến năm 2020; Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả
các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và nông
dân. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi. Quy hoạch 6 khu
chăn nuôi tập trung và vùng sản xuất hàng hoá. Chú trọng tuyên truyền, phổ
biến áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Quan tâm đặc biệt đến
công tác thuỷ lợi, coi đây là biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp ổn
định, bền vững. Kết quả:
Sản xuất nông nghiệp của huyện đang từng bước chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa và đa dạng hóa sản phẩm, song tỷ trọng hàng hóa trong sản
phẩm nông nghiệp chưa cao (chỉ chiếm gần 23%). Đây là ngành có đóng góp
lớn đến tăng trưởng kinh tế, giải quyết lao động và đảm bảo an toàn lương thực
cho huyện.
Tổng giá ttị sản xuất năm 2010 đạt: 1.147,03 tỷ đồng, tăng 678,79 tỷ đồng
so với năm 2006 (năm 2006: 468,24 tỷ đồng); tốc độ phát triển bình quân 5
năm đạt 15,2%/năm. Thu nhập bình quân đầu năm 2010 đạt 13,58 triệu
đồng/người/năm, tăng 8,09 triệu đồng so với năm 2006. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ; giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp. Năm 2006, cơ cấu nông - lâm nghiệp
có tỷ trọng: 60,05%, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng: 19,96%, dịch vụ thương
mại: 19,99%; năm 2010 cơ cấu tỷ trọng tương ứng đạt: nông - lâm nghiệp:

2

4


48,39%; Công nghiệp và xây dựng: 25,34%, dịch vụ: 26,27%. Cơ sở hạ tầng
từng bước được củng cố, đòi sống của nhân dân ngày càng được cải thiện [27.
Tr 5].
Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm 2010 ước đạt 5.420 ha, tăng 156,2 ha
so với năm 2005; năng suất lúa bình quân hàng năm tăng: Năm 2010 ước đạt
48,6 tạ/ha, tăng 5,76 tạ/ha so với năm 2005; diện tích lạc 732,19 ha; năng suất
đạt 17,3 tạ/ha. Các cây trồng nơi đây thời gian qua cả diện tích và năng suất đều
tăng cho thấy huyện đã biết ứng dụng khoa học công nghệ về cây trồng, phân
bón, thuốc trừ sâu... để nâng cao năng suất cây trồng [27. Tr 6].
Bên cạnh cây lúa, loại cây công nghiệp dài ngày có diện tích và sản lượng
lớn của huyện là cây mía, cây nhãn, vải thiều đem lại giá trị kinh tế cao cho
huyện. Ngoài ra, ở huyện cũng trồng một số cây công nghiệp dài ngày như cam,
chanh nhưng sản lượng không đáng kể, chủ yếu phục vụ nhu cầu cho nhân dân
trong huyện.
Chăn nuôi là thế mạnh của huyện luôn được quan tâm. Các cấp uỷ đảng từ
huyện đến cơ sở chỉ đạo tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc,
gia cầm; so với năm 2006: đàn trâu tăng 2,2%; đàn bò tăng 7,8%; đàn lợn tăng
26,1%; đàn gia cầm tăng 15,5%. Trong những năm gần đây, phong trào chăn
nuôi các loại động vật có giá trị kinh tế cao như nhím, rắn...trên địa bàn huyện
phát triển mạnh, mở ra một hướng đi mới trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành chăn nuôi [27 tr 6],
Đời sổng cư dân nông thôn
Trong thòi gian qua, Huyện đã tập trung phát triển kinh tế đồng thời nâng
cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Bộ mặt xã hội nông thôn ngày càng khởi
sắc, điều kiện sinh hoạt của dân cư tăng cao. Sự phát triển của bưu điện, viễn
thông đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh quốc phòng của huyện và nhu cầu sử dụng của nhân dân.


2
5


×