Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo GIẢI QUYẾT VIỆC làm ở NÔNG THÔN từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.41 KB, 100 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Giải quyết việc làm
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa
Xuất khẩu lao động

Chữ viết tắt
CNH,HĐH
CTQG
CNXH
GQVL
KT-XH
Nxb
XHCN
XKLĐ


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT


VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 1996 ĐẾN
NĂM 2006

1.1.

10

Tính tất yếu khách quan giải quyết việc làm ở nông
thôn trong những năm 1996 - 2006

1.2.

Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về giải quyết việc
làm ở nông thôn trong những năm 1996 - 2006

Chương 2

10
25

KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở
NÔNG THÔN TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2006

2.1.
2.2.

Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
Những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh


49
49

đạo giải quyết việc làm ở nông thôn trong những
năm 1996 - 2006
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

70
87
89
95

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là nguồn gốc của sự sống, sự tồn tại và phát triển của con
người và xã hội. Có việc làm mới tạo ra thu nhập để phục vụ nhu cầu


3

của cá nhân, gia đình và thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, khi
người lao động không có việc làm hoặc việc làm không ổn định thì
chẳng những không tạo ra sản phẩm nuôi sống bản thân, gia đình, thúc
đẩy xã hội phát triển mà còn dẫn đến hàng loạt các hiện tượng tiêu cực,
tệ nạn, gây mất ổn định xã hội, đúng như ông cha ta vẫn thường nói
“nhàn cư vi bất thiện”.
Nước ta là một nước nông nghiệp với khoảng 80% dân số sống bằng nghề
nông, đang trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chính vì thế,

quan tâm và tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm ổn định không
chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn
định và phát triển đất của nước. Từ khi Đảng ta khởi xướng sự nghiệp đổi mới,
nhất là từ năm1996 đến nay, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, giải
pháp GQVL cho lao động nông thôn và đã đạt được những thành tựu bước đầu
có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau vấn đề lao động và
việc làm nói chung, ở nông thôn nói riêng vẫn luôn là vấn đề nóng bỏng, bức xúc,
được đề cập liên tục trong các văn kiện Đại hội VIII, IX, X của Đảng. Vậy, phải
chăng chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này? Phải chăng trong nền
kinh tế thị trường, thất nghiệp, thiếu việc làm là tất yếu khách quan, phải chấp
nhận nó, không thể giải quyết được?... Nghiên cứu và làm sáng tỏ quá trình
Đảng lãnh đạo GQVL ở nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006, trên cơ sở đó
đánh giá những thành tựu, hạn chế, làm rõ nguyên nhân, rút ra những kinh
nghiệm lịch sử không chỉ góp phần trả lời các câu hỏi do thực tiễn đặt ra, mà còn
góp phần quan trọng vào việc tổng kết, bổ sung phát triển và hoàn thiện lý luận
GQVL ở nông thôn trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế.


4

Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo GQVL ở nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006” làm Luận văn thạc sĩ
lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Việc làm và GQVL ở nông thôn là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước ta; là nhu cầu cấp thiết của nhân dân lao động cả nước nói chung, ở nông
thôn nói riêng. Do vậy, vấn đề việc làm và GQVL đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu đề cập ở những cấp độ khác nhau. Có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm các tác phẩm của các cá nhân, tập thể đã được xuất bản thành

sách, tiêu biểu như: Bùi Ngọc Lan (chủ biên), Việc làm của nông dân vùng
đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2006. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ những nhân tố
cơ bản đang tác động đến việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng và
thực trạng việc làm của nông dân trong vùng, trên cơ sở đó nêu lên một số giải
pháp và kiến nghị nhằm góp phần GQVL cho nông dân trong vùng đồng bằng
sông Hồng những năm tới; Chu Tiến Quang (chủ biên), Việc làm ở nông thôn thực trạng và giải pháp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Nội dung cuốn sách
đề cập những vấn đề lý luận về lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam;
việc làm phi nông nghiệp trong nông thôn, việc di chuyển lao động và tìm kiếm
việc làm, những định hướng và giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn và
kinh nghiệm giải quyết những vấn đề trên của một số nước trong khu vực; Lê
Thi, Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999. Nội dung cuốn sách đề cập đến phụ nữ Việt Nam,
nhân tố và nguồn lực phát triển của xã hội, các quan điểm tiếp cận vấn đề bình
đẳng giới hiện nay, thực trạng việc làm, đời sống của lao động nữ trong sự phát
triển kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, một
số giải pháp nhằm nâng cao vị thế người phụ nữ, và những chính sách đáp ứng


5

nhu cầu lợi ích giới; Nguyễn Vi Khải, Dân số lao động - việc làm: vấn đề – giải
pháp, Nxb Thông tin lý luận, Hà nội, 1992. Cuốn sách phản ánh những thách
thức và những nghịch lý của dân số, lao động, việc làm ở nước ta đã và đang tác
động đến toàn xã hội cũng như mỗi gia đình, tác giả đã vẽ lên bức tranh chân
thực và đề ra các chính sách, biện pháp và những định hướng chiến lược để giải
quyết vấn đề; Lê Văn Toàn (chủ biên), Lao động việc làm trong xu thế toàn cầu
hóa, Nxb Lao động, Hà nội, 2007. Nội dung cuốn sách trình bày cơ sở lý luận,
thực tiễn, kinh nghiệm, xu thế phát triển và những thách thức đặt ra cho vấn đề
lao động, việc làm của các nước trong khu vực và trên thế giới; quan hệ nghề

nghiệp trong thế giới toàn cầu hóa; mối liên kết giữa phát triển nguồn nhân lực
và tính sáng tạo lao động, thị trường vốn, con người, về vấn đề bình đẳng giới
trong việc làm, các vấn đề quản lý, đào tạo, sử dụng, khai thác nguồn nhân lực ở
một số quốc gia châu Á; Trung tâm Thông tin- Thống kê lao động và xã hội, Bộ
Lao động Thương binh và xã hội, Thực trạng lao động- việc làm ở Việt Nam
năm 2000; từ kết quả điều tra lao động - việc làm năm 2000, Nxb, Lao động, Hà
Nội, 2001. Nội dung khái quát một số vấn đề cuộc điều tra lao động - việc làm năm 2000;
đánh giá thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam năm 2000 trên các mặt chủ yếu, đồng
thời đưa ra số liệu tổng hợp về lao động - việc làm ở Việt Nam năm 2000; Phạm Xuân
Nam (chủ biên), Đổi mới chính sách xã hội, Luận cứ và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội,
năm 1997. Cuốn sách đề cập đến một số vấn đề lý luận, nội dung, nhiệm vụ và các mối
quan hệ của chính sách xã hội, sự chuyển biến cơ cấu xã hội và các giai tầng xã hội trong
điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; một số kinh nghiệm và những giải pháp
về chính sách xã hội đối với các vấn đề quan trọng như dân số, lao động và việc làm…,
chính sách đối với các tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam; Phạm Ngọc Côn, Đổi
mới chính sách kinh tế, Nxb Nông nghiệp, Hà nội, 1996. Nội dung đề cập đến những vấn
đề chung làm cơ sở lý luận cho các chính sách kinh tế; tổng quan về chính sách kinh tế;
mục tiêu quan điểm của chính sách cơ cấu kinh tế; vai trò, mục tiêu, nguyên tắc và nội dung


6

của chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ; mục tiêu phương hướng của chính sách GQVL
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Hệ thống văn bản pháp quy về lao động và
xã hội - tập 1- chính sách lao động - việc làm, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001. Nội dung
cuốn sách gồm các văn bản: Việc làm và các chương trình quốc gia hỗ trợ việc làm; hệ
thống trung tâm dịch vụ việc làm; chính sách cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm;
dạy nghề và học nghề; chính sách đưa lao động đi làm việc có kỳ hạn ở nước ngoài; người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam và chính sách đối với người lao động ở Việt Nam .
Nhóm các luận văn, luận án, đề tài khoa học, tiêu biểu như: Hoàng Văn

Chức, Vấn đề thiếu việc làm cho người lao động ở Hưng Yên và tác động của nó đến
củng cố quốc phòng trên địa bàn, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quân
sự, Hà Nội, 2001. Luận văn đề cập những vấn đề lý luận, thực tiễn của việc làm, nhu
cầu việc làm, tác động của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên,
trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm GQVL kết hợp với củng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong tình hình hiện nay; Uỷ ban nhân thị xã
Bắc Ninh, Đề án đánh giá thực trạng lao động và việc làm, những giải pháp kiến
nghị GQVL cho người lao động trên địa bàn thị xã Bắc Ninh, Đề tài khoa học cấp
tỉnh, tháng 9 năm 2004. Nội dung phản ánh thực trạng lao động và việc làm ở địa
bàn thị xã Bắc Ninh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; trên cơ sở đó kiến nghị một
số giải pháp GQVL cho người lao động trên địa bàn thị xã Bắc Ninh.
Nhóm các bài báo đăng tải trên các tạp chí khoa học, tiêu biểu như:
Nguyễn Pháo “Phương hướng GQVL ở Đà Nẵng”, Tạp chí Lao động và xã hội,
số 6, năm 1997 và Phạm Đức Hựu, “Hải hậu phát triển kinh tế biển, GQVL”,
Tạp chí Lao động và xã hội, số 4, năm 1998. Nội dung phản ánh những đặc
điểm, thực trạng, tiềm năng sẵn có của tỉnh, huyện; trên cơ sở đó, đề ra một số
giải pháp GQVL cho cho người lao động ở Đà Nẵng và phát triển kinh tế biển
nhằm GQVL tại chỗ cho ngư dân vùng biển Hải Hậu; Lê Bá Thăng, “Giải pháp
sử dụng lao động nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Lý luận chính


7

trị, số 5, năm 2001. Nội dung khái quát những đặc điểm, dân số vùng đồng bằng
sông Hồng, lao động và việc làm, chất lượng lao động, phân bố nguồn lao động
ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng; trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp
nhằm phân bố hợp lý nguồn lao động, nâng cao tỷ suất lao động cho các hộ nông
dân ở vùng đồng bằng sông Hồng; Võ Hồng Phúc, “Lao động và GQVL ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản – chuyên đề cơ sở, số 12, năm 2007. Khẳng định vị
trí, vai trò của việc làm và sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, của mọi cấp, mọi ngành,

mọi thành phần kinh tế trong GQVL và tạo việc làm đã đạt được những thành tựu to
lớn trong giai đoạn 2001- 2005; chỉ rõ cơ hội và những thách thức đang đặt ra gay gắt
trong thời kỳ nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); trên cơ sở đó đề ra những biện
pháp quan trọng nhằm tận dụng cơ hội, khắc phục tình trạng thiếu việc làm ở nước ta
trong tình hình hiện nay; Đàm Hữu Đắc, “Còn nhiều thách thức trong GQVL ở nước
ta”, Tạp chí Cộng sản – chuyên đề cơ sở, số 12, năm 2007. Nội dung phản ánh trong
hơn 20 năm đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì chủ trương tăng trưởng kinh tế
gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, nhờ đó, bên cạnh những thành tựu to lớn về KT
- XH, vấn đề GQVL, xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những thành tựu to lớn, đồng
thời cũng chỉ ra hiện tại vẫn còn những khó khăn, thách thức không nhỏ, đặc biệt là
vấn đề việc làm và GQVL cho người lao động; trên cơ sở đó đề ra mục tiêu và những
giải pháp đồng bộ để đạt được các mục tiêu đã đề ra; Nguyễn Thị Thơm, “Vấn đề đặt
ra trong GQVL ở Hải Dương”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, năm 2008. Nội dung
phản ánh sự quan tâm của Hải Dương đến công tác GQVL, tạo việc làm mới thông
qua các trương trình phát triển KT - XH và đã thu được kết quả đáng ghi nhận, đồng
thời chỉ ra trong công tác GQVL vẫn còn đứng trước những bất cập như: chất lượng
chỗ việc làm mới chưa cao, cơ cấu lao động lạc hậu, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm còn cao, nhất là ở những khu lao động bị thu hồi đất cho khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu đô thị; thực hiện chính sách GQVL còn nhiều bất cập, hệ thống GQVL
còn nhiều yếu kém; sức ép GQVL lớn, trong khi chất lượng lao động thấp; từ những


8

vấn đề này đặt ra đòi hỏi tỉnh phải có những giải pháp thích hợp mới giải quyết có
hiệu quả vấn đề này; Nguyễn Tiệp, “Việc làm và đời sống của người lao động trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 348, năm
2007. Nội dung khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đối với GQVL cho người lao động; đánh giá thực trạng việc làm, đời sống và

những vấn đề đặt ra đối với lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
trên cơ sở đó, đưa ra một số khuyến nghị đối với các cơ quan chức năng; Nguyễn Thị
Thơm, “Cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư, GQVL ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 356, năm 2008. Nội dung khẳng định vai trò của môi
trường kinh doanh đối với thu hút vốn đầu tư và GQVL; những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta đã thực hiện nhiều cải cách, đổi mới để cải thiện môi trường kinh doanh
và tác động của nó đến thu hút đầu tư, GQVL, đồng thời chỉ ra một số hạn chế của
môi trường kinh doanh ở Việt Nam so với một số nước trong khu vực, gây cản trở
thu hút đầu tư và GQVL ở nước ta; trên cơ sở đó, đưa ra một số nhóm giải pháp tiếp
tục cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và GQVL ở Việt Nam trong
tình hình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Các công trình, bài viết trên đã đề cập những vấn đề lý luận và thực tiễn GQVL ở
Việt Nam nói chung, ở nông thôn và các vùng, miền nói riêng. Tuy nhiên, dưới góc độ
khoa học Lịch sử Đảng, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có
tính hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo GQVL ở nông thôn Việt Nam từ năm 1996
đến năm 2006. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn là vấn đề mới, không trùng lặp và có
thể kế thừa nguồn tài liệu, tư liệu các công trình nêu trên.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Làm rõ tính tích cực, chủ động của Đảng trong lãnh đạo GQVL ở
nông thôn Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2006, trên cơ sở đó rút ra những kinh
nghiệm, góp phần vào việc tổng kết, bổ sung phát triển và hoàn thiện lý luận về


9

GQVL ở nông thôn trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhiệm vụ: Làm rõ tính tất yếu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về
GQVL ở nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006.
Đánh giá những thành tựu, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và rút ra một số

kinh nghiệm lịch sử.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng về GQVL ở nông thôn Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2006.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực GQVL cho nông dân ở nông
thôn trong công cuộc đổi mới từ năm 1996 đến năm 2006. Tuy nhiên, để bảo
đảm tính hệ thống và đạt mục đích nghiên cứu, luận văn có đề cập khoảng
thời gian trước và sau 10 năm nói trên.
5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn tuân thủ việc kết hợp phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp khác như: so sánh, đồng đại, lịch đại, thống kê..., để làm sáng tỏ
những nội dung của luận văn.
6- Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần vào việc tổng kết, bổ sung phát triển và hoàn thiện lý
luận về GQVL nói chung, ở nông thôn Việt Nam nói riêng.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7- Kết cấu của luận văn


10

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4tiết.



11

Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
1.1. Tính tất yếu khách quan giải quyết việc làm ở nông thôn trong
những năm 1996 - 2006
1.1.1. Lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
Quan niệm về việc làm
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) : “Người có việc làm: Là
những người đang làm một việc gì đó được trả tiền công, hoặc những người tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự thỏa mãn lợi ích hay thay thế thu nhập của gia đình” [60,
tr. 65].
Khái niệm trên được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng được cụ thể
hóa bằng những tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào điều kiện mỗi nước đặt ra.
Theo điều 13, chương 2, Bộ luật Lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm được thừa nhận là việc làm”[43, tr.14].
Vấn đề việc làm và GQVL phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; tính chất của các chế độ xã hội; tâm lý, tập quán của
dân cư; khả năng mang lại thu nhập nhiều hay ít của việc làm tương lai; năng lực,
quan niệm và các điều kiện khác của chính quyền các cấp khi giải quyết vấn đề việc
làm.
Dưới chế độ XHCN, GQVL, xoá bỏ nạn thất nghiệp là một trong những vấn
đề thuộc về bản chất của chế độ, là mục tiêu của CNXH. Một trong những thành
tựu quan trọng của hệ thống các nước XHCN trước đây chính là đã giải quyết cơ
bản tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Mặc dù đời sống còn thấp nhưng người
lao động luôn cảm thấy an toàn, không lo sợ bị thất nghiệp bởi nhà nước XHCN



12

hầu như đã bố trí việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, mặt trái của cách
GQVL theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp cũng dần bộc lộ
những căn bệnh ỷ lại, thụ động, thiếu năng động, sáng tạo, năng suất lao động thấp
v.v... Đây chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự trì trệ của nền kinh tế các
nước XHCN trong những năm 80 của thế kỷ XX. Quan niệm về việc làm và GQVL
trong các nền kinh tế (có cả Việt Nam) thời kỳ này gắn liền với mô hình nền kinh tế
thuần nhất với một thành phần kinh tế XHCN (dưới hai hình thức: kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể) và kiểu tái sản xuất theo chiều rộng, thiên về mở rộng quy mô các xí
nghiệp, thu hút thêm lao động, tài nguyên và tiền vốn chứ chưa phải chủ yếu là tái sản
xuất theo chiều sâu. Trong cơ chế này, người lao động được coi là có việc làm và được
xã hội thừa nhận là người làm việc trong thành phần kinh tế XHCN (quốc doanh và
tập thể), trong khu vực nhà nước. Ở nước ta trong thời kỳ này cũng vậy, quan niệm về
người có việc làm chỉ gắn liền với ai vào được biên chế Nhà nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với những thay đổi có tính bước ngoặt trong
tư duy lý luận về CNXH, quan niệm về việc làm và GQVL của Đảng và Nhà
nước ta cũng có nhiều điểm mới. Điều đó được thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, thị trường việc làm được mở rộng bao gồm tất cả các thành phần kinh
tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Tất cả những người làm việc trong các
thành phần kinh tế, trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, trường học hoặc
tại gia đình (kể cả nội trợ) ở trong và ngoài nước đều được coi là có việc làm.
Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề, liên doanh liên kết, tự do
thuê mướn lao động theo luật pháp và sự hướng dẫn của Nhà nước để tự tạo việc
làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội, tạo việc làm cho người khác.
Quan niệm này chứng tỏ nhận thức về việc làm của Đảng ta đã khác hẳn
trước những năm đổi mới. Theo đó, việc làm gắn liền với những hoạt động lao
động hợp pháp, đem lại thu nhập chính đáng, không phi pháp dù làm việc trong
bất cứ tổ chức KT - XH hợp pháp nào. Quan niệm đó đã tạo ra môi trường, hành
lang pháp lý rộng rãi, cho phép người lao động tự tìm kiếm việc làm và tạo việc



13

làm cho người khác, nó đã từng bước xoá dần những định kiến, những quan
niệm lỗi thời trước đây về việc làm, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà
nước, người lao động phát huy được năng lực sản xuất của mình, không gây lãng
phí lớn nguồn nhân lực của xã hội.
Từ sự thay đổi nhận thức về việc làm trong nền kinh tế thị trường, định
hướng XHCN, tư tưởng về GQVL cũng phải thay đổi cho phù hợp với điều
kiện của nền kinh tế. Từ chỗ GQVL là trách nhiệm của Nhà nước và chỉ khi
làm việc trong cơ quan Nhà nước mới được coi là có việc làm, đã chuyển sang
nhận thức mới. Đó là: Mọi hoạt động lao động - xã hội, tạo ra thu nhập mà
không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm. GQVL làm là
quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người có khả năng
lao động đều có cơ hội việc làm. Tham gia vào quá trình GQVL bao gồm nhiều
thành phần, lực lượng, đó là Nhà nước, các thành phần kinh tế, các đoàn thể và
cá nhân từng người lao động trong toàn xã hội. Người lao động không thụ
động, chờ đợi Nhà nước bố chí việc làm mà chủ động tự tạo việc làm cho
mình, cho người khác trong môi trường KT - XH. Trách nhiệm của Đảng và
Nhà nước ta từ vị trí độc tôn sắp xếp GQVL trước đây, nay chuyển sang
GQVL bằng cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý, môi trường
bảo đảm cho người lao động tự do mở mang ngành nghề, các đơn vị sản xuất
kinh doanh được quyền tự do thuê mướn lao động theo sự thoả thuận giữa
người lao động với chủ sản xuất kinh doanh phù hợp với pháp luật hiện hành.
Như vậy, cho đến nay việc làm được nhận thức khá thống nhất: “Việc làm là
những hoạt động lao động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi
ích cho bản thân, gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng nào đó”[49, tr.15].
Với quan niệm trên thì việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn
giải phóng sức lao động, GQVL cho nhiều người. Người lao động được tự do

hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để tạo việc làm và tự do thuê mướn lao


14

động theo pháp luật Nhà nước. Đồng thời quan niệm trên nó thích ứng với nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta. Một mặt nó mở rộng
quan niệm của người lao động về việc làm, mặt khác nó giới hạn hoạt động lao
động theo những chế định của pháp luật, ngăn ngừa những hoạt động tiêu cực
cho cộng đồng và xã hội.
Quan niệm về thiếu việc làm và thất nghiệp
Thiếu việc làm: Là bao gồm tất cả những người có việc làm nhưng có nhu
cầu, khả năng làm thêm và sẵn sàng làm thêm.
Thực chất của thiếu việc làm là tình trạng người lao động có việc làm
nhưng không sử dụng hết khả năng sức lao động của mình, làm việc không hết
thời gian lao động hoặc những người có thu nhập thấp, mong muốn được làm
thêm, hiện trạng này diễn ra phổ biến trong nền kinh tế ở nước ta.
Thất nghiệp theo quan niệm của ILO: là tình trạng tồn tại khi một số người
trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở
mức tiền công đang thịnh hành trong xã hội.
Ở Việt Nam thất nghiệp có những hình thức biểu hiện rất khác nhau, chúng
tồn tại trong một nền kinh tế nông nghiệp chưa thoát hẳn tình trạng tự cung, tự
cấp, đất chật, người đông, năng suất lao động thấp. Trạng thái thất nghiệp chính
ở nước ta là: Thất nghiệp hữu hình tích cực; thất nghiệp hữu hình thụ động; thiếu
việc làm hữu hình; thiếu việc làm vô hình; thừa lao động và thất nghiệp trá hình.
Vị trí, vai trò của việc làm và GQVL
Việc làm là nguồn gốc của sự sống, sự tồn tại và phát triển của con người
và xã hội.Việc làm tạo ra thu nhập cơ bản để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân,
gia đình và xã hội, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Đồng
thời, GQVL là một giải pháp hữu hiệu khắc phục triệt để các tệ nạn xã hội, góp

phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đại hội IX của Đảng
khẳng định: “GQVL là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định


15

và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và là
yêu cầu bức xúc của nhân dân”[21, tr.201]. Bởi vì, khi người lao động có việc
làm, không những góp phần phát triển kinh tế, mà còn giảm bớt các hiện tượng
tiêu cực do thiếu việc làm. Khi người lao động không có việc làm, không những
không tạo ra sản phẩm, mà còn “ăn bám” gia đình và xã hội, dẫn đến đói nghèo
và kìm hãm sự phát triển nền kinh tế đất nước. Thực tế những năm qua cho thấy,
sự suy giảm kinh tế và các hiện tượng tiêu cực xã hội xảy ra, như thất nghiệp,
nghiện hút, mại dâm, ma túy, trộm cắp, trấn lột, bạo lực… của một bộ phận
thanh niên chủ yếu là do không có việc làm. Châm ngôn có câu “nhàn cư vi bất
thiện” đã phản ánh phần nào nỗi bức xúc của việc làm và vị trí vai trò của việc
làm. Do vậy, vấn đề việc làm và GQVL là nhu cầu không thể thiếu của đời sống
KT - XH. Đảng và Nhà nước ta không thể không quan tâm giải quyết nó.
Trong tình hình hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ và trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, GQVL vừa là
mục tiêu chiến lược, vừa là vấn đề xã hội bức xúc của mỗi quốc gia. Sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ một mặt thúc đẩy kinh tế phát triển
mạnh mẽ, mặt khác đang có xu hướng làm tăng tình trạng lao động thừa, việc
làm thiếu. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn chặt với giải quyết các vấn đề về
chính sách xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến GQVL cho người lao động.
Giải quyết việc làm là một nhiệm vụ cơ bản của chính sách xã hội, là cơ
sở tiền đề thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội khác. Chính sách việc làm
thực chất có quan hệ với các chính sách xã hội khác và tác động đến việc mở
rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã hội, như các
chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, những ngành nghề có khả

năng thu hút được nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho các đối tượng đặc
biệt khó khăn (cho người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương …)


16

Giải quyết việc làm còn thuộc về bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội, góp
phần xây dựng xã hội theo mục tiêu công bằng, dân chủ, giàu mạnh, văn minh.
Bản chất của CNXH là vì con người, do con người. Sự nghiệp cách mạng
là của quần chúng, nhưng quần chúng phải được tập hợp, được giáo dục, được
lao động để khẳng định vai trò của chính bản thân mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chỉ rõ, trên ý nghĩa nhất định lao động sản xuất sản sinh ra con người. Trong
tác phẩm Chống Đuy Rinh, Ăngghen viết: Con người sống tồn tại trước hết phải
có ăn, ở, mặc, đi lại…Muốn vậy phải có lao động sản xuất. Nếu không có lao
động sản xuất thì không thể tồn tại được một năm, thậm trí là một vài tuần…
Như vậy, con người và xã hội loài người muốn tồn tại được trước hết là do lao
động, gắn với lao động, lao động làm cho con người và xã hội loài người ngày
càng hoàn thiện và phát triển. Bản chất tốt đẹp của CNXH, trước hết được thể
hiện ở chỗ giải phóng tiềm năng lao động, tạo điều kiện để cho con người phát
triển toàn diện cá nhân. Mục đích của CNXH là vì con người, phát huy nhân tố
con người. Sự nghiệp cách mạng đó chỉ có thể được thực hiện khi con người có
lao động, có việc làm, có thu nhập và thu nhập ngày càng cao, đáp ứng được mọi
yêu cầu của cuộc sống và sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Tình hình nông thôn, thực trạng việc làm và GQVL ở nông thôn
Việt Nam sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996)
Tình hình nông thôn Việt Nam sau 10 năm đổi mới
Tình hình kinh tế - xã hội
Nông thôn Việt Nam với gần 80% dân số và 84% lao động xã hội làm việc
chủ yếu trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi. Ở khu vực nông thôn có nhiệm
vụ bảo đảm lương thực thực phẩm cho toàn xã hội; cung cấp nguyên, vật liệu

cho công nghiệp; đẩy mạnh xuất khẩu; xây dựng cơ sở vật chất; tạo thêm việc
làm và GQVL, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân; mở rộng thị
trường; ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện


17

CNH, HĐH đất nước. Giải quyết tốt vấn đề việc làm ở nông thôn sẽ là điều kiện
để phát triển kinh tế xã hội nông thôn, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho
nông dân, đồng thời là nền tảng để ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế đất
nước.
Trên thực tế, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, bộ mặt KT - XH nông thôn đã
thay đổi rõ rệt. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung
bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo từng bước giảm đáng kể. Một bộ phận dân
cư có vốn, có kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, có kỹ thuật, biết áp dụng vào sản
xuất, phát triển kinh tế đã giàu lên nhanh chóng. Vấn đề thất nghiệp, thiếu việc làm
từng bước được giải quyết.
Cơ sở hạ tầng như: đường xá, cầu cống, hệ thống thuỷ lợi cho phát triển nông nghiệp
nông thôn được nâng cấp và xây dựng mới cả ở nông thôn và thành thị. Đây cũng là điều
kiện thuận lợi cho GQVL ở nông thôn. Vấn đề lương thực đã được bảo đảm và tương
đối vững chắc, từ năm 1989 trở đi nước ta đã bắt đầu xuất khẩu được mỗi năm từ 1 đến
1,5 triệu tấn gạo, riêng giai đoạn 1991- 1995 mỗi năm xuất khẩu được 2 triệu tấn gạo.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nông dân được nâng lên;
sự nghiệp giáo dục đào tạo, chính sách xã hội nông thôn được phát triển phần
nào đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nông dân.
Người lao động từng bước được giải phóng khỏi ràng buộc của cơ chế
cũ, phát huy được quyền làm chủ, tự do sản xuất kinh doanh, chủ động trong
tìm kiếm việc làm tăng thu nhập.
Quan hệ sản xuất xã hội nông thôn cũng được thay đổi, bước đầu đã
thích nghi với quá trình phát triển kinh tế hàng hoá.

Lòng tin của nhân dân vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước ngày càng nâng lên. Người nông dân an tâm làm ăn phát triển kinh tế.
Bên cạnh những thay đổi đáng kể nêu trên, KT – XH ở nông thôn nước
ta vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức.


18

Nhìn tổng thể, “Trong 5 năm từ 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hằng
năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%”[17, tr.58-59]. Song ở khu
vực nông thôn mặc dù chiếm tỷ lệ dân số cao nhưng vẫn còn nhiều khó khăn,
đặc biệt là khu vực miền núi (vùng xâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người, vùng căn cứ cách mạng kháng chiến cũ), vùng có nhiều thiên tai, mất
mùa…phần lớn đồng bào, nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn, nghèo nàn, lạc
hậu, tụt hậu xa hơn so với các vùng đô thị, các khu công nghiệp tập trung.
Cơ sở hạ tầng tuy được xây dựng, nhưng chỉ mới đạt mức tiến bộ ở
một số vùng có hàng hoá tương đối tập trung, nhiều vùng vẫn còn quá
thấp kém, lạc hậu, chưa thực hiện được chiến lược xây dựng cơ sở hạ tầng
đi trước một bước. Thuỷ lợi cũng có nhiều tiến triển, nhưng hiệu quả còn
thấp và mới chỉ tập trung cho vùng “độc canh cây lúa”. Giao thông, vận
tải, thông tin, năng lượng, nước sạch, cơ sở sản xuất máy móc công cụ…
còn ở mức thấp và lạc hậu; vấn đề dạy nghề cho nông dân và đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ thích hợp cho nông dân nông
thôn còn rất hạn chế; thị trường tiêu thụ sản phẩm làm ra của nông dân
chưa chắc chắn và ổn định, giá cả bấp bênh, giá bán có xu hướng thấp hơn
giá trị. Nhiều hộ nông dân làm ăn thua nỗ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình tạo việc làm và GQVL.
Dân số những năm qua tăng nhanh dẫn đến lao động xã hội cũng tăng nhanh
gây nên gánh nặng cho nền kinh tế và sức ép lớn cho vấn đề lao động và việc làm.
Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp

dân cư tăng nhanh. Đời sống của một bộ phận nhân dân nhất là vùng xa, vùng sâu,
vùng đồng bào dân tộc còn quá nhiều khó khăn. Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế
ở nhiều nơi còn thấp, nhiều nơi sa sút. Do vậy, ở một số nơi đã nảy sinh nhiều
hiện tượng tiêu cực, phạm pháp, trái đạo lý dân tộc, tha hoá cộng đồng.


19

Chất lượng dân số chưa cao, người lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ
lệ lớn. Điều đó làm hạn chế lớn đến cơ hội tìm việc làm cho người lao động.
Nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác có thể huy động
được cho yêu cầu phúc lợi xã hội, trong đó có hỗ trợ cho lao động việc làm
còn rất hạn chế và chưa được sử dụng thực sự có hiệu quả.
Mô hình hợp tác xã kiểu cũ ở nhiều nơi đã tan rã và trở thành hình thức,
hiệu quả rất thấp. Chưa giải quyết tốt một số chính sách khuyến khích kinh tế
tư nhân phát huy hết tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế
này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Điều
đó không chỉ cản trở sự phát triển của KT - XH, làm ảnh hưởng đến năng suất
chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, mà còn làm cho công tác giải
quyết vấn đề lao động việc làm trong xã hội càng khó khăn, người lao động
có việc làm thì bấp bênh, chưa được pháp luật bảo vệ.
Nhiều lề thói tư duy cũ của người nông dân chưa được đổi mới triệt để
làm cho kinh tế chậm phát triển, ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động.
Môi trường sống ở nhiều vùng bị huỷ hoại nặng về nhiều mặt (khí
quyển, biển, rừng, đất đai, nguồn nước..)
Tóm lại, tuy còn có những hạn chế nhất định nhưng sau 10 năm đổi mới, tình
hình KT - XH nông thôn đã có nhiều thay đổi, kinh tế ngày càng tăng trưởng, xã
hội ổn định, đời sống được cải thiện. Nông dân có lòng tin đối với Đảng, ý thức
được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Trong nông thôn đã và đang xuất hiện

nhiều nhân tố, mô hình tiên tiến, năng động, tự chủ biết làm giàu, biết giữ gìn
thuần phong mỹ tục, có tinh thần đùm bọc tương trợ để cùng nhau vươn tới mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn nước ta


20

Dân số nước ta tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến nguồn lao động
hàng năm tăng nhanh. Nhưng, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế luôn
thấp hơn nhu cầu việc làm của lao động nông thôn. Do vậy, thường gây ra sức
ép lao động và việc làm ở nông thôn.
Lao động nông thôn chủ yếu làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, nhưng lại bị giới hạn bởi diện tích đất canh tác vốn đã hạn hẹp và
lại có xu hướng giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá đang phát triển.
Điều đó hạn chế đến khả năng GQVL và tạo việc làm ở nông thôn.
Việc làm ở nông thôn nước ta mang tính thời vụ là chủ yếu, thu hút lao
động không đồng đều, việc làm chỉ tập trung vào thời điểm gieo trồng và thu
hoạch, thời gian còn lại là nhàn rỗi, đó là lao động “nông nhàn” trong nông
thôn. Trong thời kỳ nông nhàn này, một bộ phận lao động nông thôn thường
chuyển sang các công việc phi nông nghiệp hoặc di chuyển sang các địa
phương khác để tìm kiếm việc làm, tăng thêm thu nhập, có thể là tạm thời
hoặc lâu dài khi mà thu nhập cao hơn việc làm trong sản xuất nông nghiệp.
Trong nông thôn, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Đất
đai, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các hoạt động dịch vụ sản xuất. Các hoạt
động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp (công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ), thường bắt nguồn từ lao động kinh tế hộ gia đình. Các thành viên trong gia
đình có thể chuyển đổi thay thế thực hiện công việc của nhau. Đây cũng là một trong
những biện pháp tạo việc làm có hiệu quả ở nông thôn.
Việc làm trong nông nghiệp, nông thôn thường là những công việc giản

đơn, thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao, tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và công
cụ cầm tay, dễ học hỏi chia sẻ. Vì vậy, khả năng thu hút lao động không cao, sản
phẩm làm ra chất lượng và năng suất lao động thấp nên đời sống của người lao
động nông thôn nhìn chung là thấp, nhất là vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa.


21

Ở nông thôn, một số lượng khá lớn công việc tại nhà không được định thời
gian như: Trông nhà, trông cháu, nội trợ và các công việc làm vườn có tác dụng
hỗ trợ tích cực tăng thêm thu nhập gia đình. Thực chất đây cũng là việc làm có
khả năng tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho người lao động nông dân.
Ở nông thôn nước ta, thị trường sức lao động thực tế đã có từ lâu nhưng kém
phát triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền
thống trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất và không được pháp
chế hoá. Vì vậy, giá trị công lao động thường được đánh giá theo thoả thuận dân sự,
trực tiếp, việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật. Quan hệ thuê mướn dựa trên
mối quan hệ thân quen là chủ yếu, vừa kết hợp làm thuê chuyên nghiệp, vừa theo
thời vụ. Lao động thủ công, cơ bắp là chủ yếu. Một số nơi chưa phát triển được
ngành nghề, dẫn tới dư thừa lao động, nhất là vào thời vụ nông nhàn, người lao
động phải đi làm thuê ở khắp mọi nơi để tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập.
Thực trạng việc làm và GQVL ở nông thôn sau 10 năm đổi mới
Cùng với những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996),
vấn đề việc làm và GQVL ở nông thôn cũng có những chuyển biến tích cực.
Bước đầu đã giải phóng được tiềm năng lao động, không bị ràng buộc bởi cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp như trước đây, người lao động trở thành
người chủ thực sự trong tổ chức kinh doanh, trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn
vị kinh tế tự chủ. Theo đó đã xuất hiện nhiều hình thức hợp tác xã tự nguyện,
kinh doanh theo hướng tổng hợp, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp.

Đây là kết quả từ những chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta, phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước, đáp ứng được yêu cầu
nguyện vọng của người lao động, khơi dậy tính độc lập, tự chủ, tư duy năng
động sáng tạo của người lao động, chủ sản xuất kinh doanh, tự hạch toán, tự
góp vốn tổ chức sản xuất, kinh doanh, mở mang ngành nghề theo đúng sở
trường và yêu cầu của thị trường, tạo việc làm mới và bảo đảm chịu trách


22

nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình làm ra. Chính vì vậy, phân công lao
động ở nông thôn có những tiền đề đi vào chuyên môn hoá; cơ cấu kinh tế
nông thôn từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH gắn với GQVL
tăng trưởng kinh tế, ngày càng giảm tỷ lệ việc làm nặng nhọc, chân tay, thủ
công, sang tăng dần tỷ trọng việc làm trong công nghiệp, thủ công nghiệp,
dịch vụ, với hàm lượng trí tuệ ngày càng cao. Sự chuyển dịch cơ cấu việc
làm diễn ra theo xu hướng thu hút nhiều lao động nông nghiệp truyền thống
vào những ngành sản xuất phi nông nghiệp, các hoạt động công nghiệp và
dịch vụ gắn liền với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, xây dựng cơ
sở hạ tầng nông thôn, các ngành nghề truyền thống và dịch vụ tương lai.
Nhiều mô hình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn xuất hiện góp phần giải
quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở nông thôn. Đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, ổn định cuộc sống, tăng gia
sản xuất phát triển KT - XH.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc làm ở nông thôn nước ta vẫn
đang là vấn đề xã hội bức xúc.
Mặc dù sau 10 năm đổi mới tỷ lệ tăng dân số hàng năm có giảm, nhưng tốc
độ tăng dân số vẫn cao gây nên sức ép nhiều mặt cho xã hội, trong đó bức xúc
nhất là cơ hội việc làm và GQVL cho người lao động. Chỉ tính trong giai đoạn
1989 - 1995, trung bình mỗi năm tăng thêm trên 1,4 triệu lao động, dẫn đến tổng

lực lượng lao động cả nước là 28,744 triệu năm 1989 và 34,599 triệu năm 1995.
Việc làm ở nông thôn nước ta phân bố không đồng đều giữa các ngành,
các vùng, sự chuyển dịch cơ cấu diễn ra một cách chậm chạp, không chỉ thể
hiện ở các ngành kinh tế mà còn thể hiện ở các vùng. Tập trung lớn nhất ở 2
vùng: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
Do dân cư và lao động phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế cho nên ở
nông thôn nước ta mức ruộng đất bình quân trên đầu người có sự khác biệt rất lớn theo các
vùng, thấp nhất là đồng bằng Bắc Bộ: 670m2/người; cao nhất là các vùng: đồng bằng sông


23

Cửu Long: 2142m2/người, Tây Nguyên: 2034m2, và Đông Nam Bộ: 1950m2, sau đó đến
các vùng miền núi và trung du Bắc Bộ: 1510m2, duyên hải Nam Trung Bộ: 822m2. Tình
trạng trên dẫn đến vấn đề việc làm và GQVL cho nông dân các tỉnh thuộc đồng bằng sông
Hồng và duyên hải Nam Trung bộ gặp rất nhiều khó khăn(xem phụ lục 2).
Ở nông thôn nước ta, tỉ lệ lao động không đi học khá cao, chiếm 39,74%, số
người có trình độ học vấn cấp I chiếm 31,23%, cấp II: 19,37%, cấp III: 4,46%; số
người được đào tạo công nhân kỹ thuật sơ cấp chiếm 1,89%, được đào tạo chuyên
nghiệp chiếm 2,15%, được đào tạo cao đẳng, đại học và cao hơn chiếm 0,65%.
Nếu tính cả người có trình độ học vấn cấp III vào số người được đào tạo, thì số lao
động không được đào tạo ở nông thôn chiếm 90,85%, số lao động được đào tạo
chỉ chiếm 9,15%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất ở đồng bằng Bắc Bộ
là15,02%, thấp nhất là ở Tây Nguyên 3,51%. Như vậy, lao động có trình độ học
vấn nhất định ở nước ta nói chung, ở nông thôn nói riêng chiếm tỷ lệ khá cao,
nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo ở mức quá thấp, dưới 10%. Với thực trạng này,
quá trình tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, GQVL cho người lao động ở nông thôn, sẽ gặp rất rất nhiều khó khăn.
Về thời gian sử dụng lao động ở nông thôn.Theo khảo sát của Trung tâm
Dân số và Nguồn Lao động năm 1994, tình hình sử dụng thời gian lao động của các hộ

gia đình nông dân rất thấp. Phần lớn lao động nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng
72- 73% thời gian lao động trong năm. Tính trung bình một lao động nông nghiệp ở
vùng đồng bằng sông Hồng chỉ sử dụng hết 26 ngày công để thực hiện toàn bộ công
việc trên diện tích đất nông nghiệp được giao trong một vụ. Ở một số vùng, tỷ lệ thời
gian chưa sử dụng hết còn khá cao như ở Tây Nguyên (32%), ven biển Trung Nam
Bộ (30%). Cá biệt có vùng Châu Giang Hưng Yên tỷ lệ thời gian nông nhàn
lên tới 40% thời gian làm việc trong năm. Tình trạng trên dẫn đến sức ép về
việc làm ở nước ta nói chung, ở nông thôn nói riêng là rất lớn. Theo số liệu
của Tổng cục Thống kê, số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc
dân, năm 1991: 31 triệu; năm 1992: 31,8 triệu; năm 1993: 32,7 triệu; năm


24

1994 là 33,6 triệu. Mỗi năm đã tăng thêm 90 vạn chỗ việc làm. Nếu loại trừ số
học sinh trong độ tuổi ở các trường, số người thuộc diện điều tra riêng, số mất
sức lao động, số người làm việc nội trợ thì số người chưa có việc làm hàng
năm gần 2 triệu người. Theo ước tính, số người bước vào độ tuổi lao động
hàng năm tăng khoảng 1,6 - 1,7 triệu người, số bước ra khỏi tuổi lao động
khoảng từ 45 - 50 vạn người. Như vậy, lực lượng lao động hàng năm tăng
thêm từ 1,1 đến 1,2 triệu người. Nếu với đà mỗi năm tăng thêm 90 vạn chỗ
việc làm như những năm qua, thì mỗi năm lại có thêm 20 đến 30 vạn người
thiếu việc làm, cộng với 2 triệu chưa có việc làm trên. Ngoài ra, để bảo đảm
đủ việc làm cho người lao động trong nông thôn, tận dụng quỹ thời gian lao
động cần phải có 7 triệu chỗ làm việc. Rõ ràng sức ép lao động về việc làm ở
Việt Nam nói chung, ở nông thôn nói riêng rất lớn [32, tr.112-114]. Như vậy,
sức ép về việc làm trong những năm này lại càng tăng lên, do quá trình cơ cấu
lại các khu kinh tế Nhà nước và cải cách các doanh nghiệp Nhà nước. Quá
trình đó đã tác động mạnh đến gia tăng số lao động dôi dư trong nền kinh tế.
Đồng thời, việc sắp xếp lại lao động, tinh giảm bộ máy hành chính Nhà nước

cũng làm dôi dư số lao động khá lớn. Bộ phận lao động này phần lớn chuyển
về nông thôn để tìm kiếm việc làm từ sản xuất nông nghiệp, làm cho vấn đề
việc làm và GQVL ở khu vực nông thôn càng trở nên bức xúc.
Như vậy, lao động thiếu việc làm ở nước ta nói chung, ở nông thôn nói
riêng là rất phổ biến trên tất cả các vùng trong cả nước. Ngay trong lực lượng lao
động có việc làm thường xuyên ở nông thôn cũng vẫn có những lao động mong
muốn được làm thêm tăng thu nhập. Bởi vì, giá trị ngày công lao động ở nông
thôn rất thấp. Hơn nữa số giờ làm việc trong ngày và số ngày làm việc trong năm
của lao động nông thôn chưa cao (72 đến 73%). Đến năm 1996, quỹ thời gian
lao động trong năm của lao động có việc làm ở nông thôn vẫn chỉ đạt 72, 11%
và có tới 27,9% thời gian bị bỏ phí. Điều đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần


25

phải có những chủ trương, chính sách, và những giải pháp đồng bộ phù hợp để
từng bước khắc phục tình trạng thiếu việc làm như đã phản ánh ở trên.
Tác động của thất nghiệp, thiếu việc làm đến các mặt đời sống xã hội ở nông
thôn
Một là, do thấp nghiệp, thiếu việc làm, một số bộ phận dân cư không có
thu nhập hoặc thu nhập thấp, bấp bênh sẽ trở thành đói nghèo. Tình trạng này
thường rơi vào những đối tượng chính sách xã hội, những người có ít vốn,
thiếu kinh nghiệm làm ăn hoặc không có vốn đầu tư sản xuất, mở mang ngành
nghề, vì thế đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Cũng chính vì thế mà, khoảng
cách giàu nghèo có xu hướng giãn ra, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu
Long, Đông Nam Bộ sự phân hoá khá sâu sắc; vùng núi phía Bắc, đồng bằng
và trung du Bắc Bộ, duyên hải Bắc Trung Bộ có sự phân hoá nhưng không
đáng kể. Qua khảo sát trên diện rộng ở nông thôn, các nhà khoa học đối chiếu
với tiêu chuẩn nghèo cho thấy: ở những năm 1989 – 1991 nghèo tuyệt đối chiếm
khoảng 29,6% đến 35%. Trong đó 16,3% đến 20,5% thiếu đói và 5,7% đến7,9%

đói gay gắt. Nghèo tương đối khoảng 55% đến 60%. Trong những năm sau đó tỷ
lệ nghèo đói toàn quốc có giảm mạnh (tỷ lệ đói nghèo trên tổng số hộ trong cả
nước đã giảm từ 30,1% vào đầu năm 1992 giảm xuống còn 20% vào năm 1995)
nhưng chưa vững chắc, nếu gặp thiên tai, mất mùa thì nhiều hộ vẫn có thể rơi
vào tình trạng nghèo đói trở lại. Đó là mộ thách thức lớn đòi hỏi Đảng và Nhà
nước ta cần phải quan tâm giải quyết.
Hai là, thất nghiệp, thiếu việc làm ở nông thôn đã dẫn tới dòng di
dân tự do ngày càng gia tăng. Họ thường di chuyển tới các thành phố lớn,
các khu công nghiệp, vùng biên giới và các miền có tiềm năng canh tác
nhưng kinh tế chậm phát triển để tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập bảo đảm
cuộc sống và tạo công ăn việc làm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ… chính điều đó đã làm nảy


×