Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Giải pháp phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.11 KB, 107 trang )

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề là vấn đề hết sức cần
thiết và có ý nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Ngành nghề thủ công truyền

Ế

thống, trong đó thủ công mỹ nghệ là bộ phận quan trọng đã hình thành và tồn tại

U

trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam nói chung và Quảng Trị nói

́H

riêng. Ngành nghề thủ công mỹ nghệ luôn gắn liền với những ngành nghề, phố nghề



sản xuất các sản phẩm thủ công để phục vụ cho các mục đích sử dụng của đời sống
xã hội. Trải qua thăng trầm của thời gian, cho đến nay ngành nghề thủ công mỹ
nghệ vẫn có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội tại tỉnh Quảng

H

Trị. Góp phần phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tạo

IN


ra nhiều việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn,

K

đóng góp chung và việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

̣C

Trong những năm qua, ngành nghề thủ công mỹ nghệ ở Quảng Trị đã giải

O

quyết việc làm cho hơn 600 hộ gia đình, góp phần nâng cao đời sống cho người dân

̣I H

ở vùng nông thôn. Đối với Quảng Trị, quá trình hình thành và phát triển của ngành
nghề thủ công mỹ nghệ ngoài những nét chung như bao miền khác trên đất nước thì

Đ
A

có những nét đặc thù riêng của vùng đất này. Theo thống kê, Quảng Trị có hơn 10
làng nghề thủ công mỹ nghệ. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề đều
có bề dày lịch sử lâu đời với lớp nghệ nhân có tay nghề điêu luyện, đóng góp nhiều
đến quá trình bảo tồn và phát huy những giá trị của nghề thủ công truyền thống.
Một số nghề và làng nghề phát triển mạnh vừa cung cấp sản phẩm cho đời sống xã
hội, vừa thu hút khách du lịch như: nón lá Trà Lộc, thêu ren Văn Qũy, đan lát Lan
Đình, dệt thổ cẩm A Bung…tạo nên những sản phẩm đặc trưng góp phần khẳng
định bản sắc văn hóa của vùng đất Quảng Trị.


1


Bên cạnh những kết quả đạt được, làng nghề vẫn còn nhiều hạn chế như chưa
có quy hoạch, chưa có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu cho sản phẩm,
quy mô nhỏ lẻ, manh mún, cơ sở vật chất kỹ thuật phần lớn còn lạc hậu, đa số sử
dụng công cụ thủ công truyền thống, sản phẩm chủ yếu là tự cung tự cấp, tính cạnh
tranh thấp, nhiều ngành nghề truyền thống sản xuất cầm chừng, có nguy cơ mai một
và mất đi…Trong các ngành nghề thủ công truyền thống, ngành nghề thủ công mỹ
nghệ là một trong những nhóm ngành có thế mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên đối với thị

Ế

trường xuất khẩu trực tiếp chúng ta vẫn chưa khai thác được do sản phẩm chưa đáp

U

ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, thua kém trong tiếp cận thị trường về mẫu

́H

mã sản phẩm, giá thành, kinh nghiệm thương trường, chưa có các thương nhân lớn
hoạt động trên các lĩnh vực kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.



Để thúc đẩy các ngành tiểu thủ công nghiệp, làng nghề phát triển bền vững,
tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, Quảng Trị cần


H

tìm ra các giải pháp cho các cơ sở sản xuất ở các làng nghề về cách tiếp cận thị

IN

trường, xây dựng chiến lược marketing cho sản phẩm. Đây là yêu cầu vừa cấp thiết

K

vừa lâu dài nhằm phát huy tiềm năng của ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị. Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp phát

̣I H

văn của mình.

O

̣C

triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề tỉnh Quảng Trị” làm luận

2. Câu hỏi nghiên cứu

Đ
A

- Thực trạng phát triển đối với hàng thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề tỉnh
Quảng Trị ?


- Định hướng phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ này như thế nào ?
- Để phát triển nó cần đưa ra những giải pháp gì ?

3. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát:
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về sản phẩm thủ công mỹ nghệ và làng nghề,
phân tích đánh giá thực trạng đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề,

2


để đề xuất ra giải pháp nhằm phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng
nghề tỉnh Quảng Trị.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu (lý luận về sản phẩm
thủ công mỹ nghệ, làng nghề,…)
+ Phân tích đánh giá thực trạng phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại
các làng nghề, xác định được các nhân tố cơ bản tác động; xác định nguyên nhân

Ế

rào cản làm hạn chế sự phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề

U

ở Quảng Trị.

mỹ nghệ tại các làng nghề tỉnh Quảng Trị.




4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

́H

+ Đề xuất ra giải pháp, các chính sách nhằm phát triển các sản phẩm thủ công

+ Đối tượng nghiên cứu

H

Đối tượng nghiên cứu là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các hộ gia đình,

K

+ Phạm vi nghiên cứu

IN

cơ sở sản xuất tại các làng nghề tỉnh Quảng Trị.

- Phạm vi nội dung: tập trung nghiên cứu một số làng nghề và làng nghề

O

̣C

truyền thống sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ, từ đó rút ra được các yếu tố tác


̣I H

động chủ yếu và đưa ra giải pháp phát triển các sản phẩm tại các làng nghề này.
- Phạm vi không gian: nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

Đ
A

- Phạm vi thời gian: Các dữ liệu thứ cấp thu thập trong giai đoạn 2010 - 2014,
các dữ liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2014. Thời gian thực hiện từ ngày
20/09/2014 đến 30/05/2015
5. Phương pháp nghiên cứu
 Thu thập số liệu và chọn mẫu điều tra:
- Đối với số liệu thứ cấp: Tôi tiến hành thu thập số liệu từ phòng ban các cơ
quan của sở ban ngành. Sau khi thu thập đầy đủ số liệu, tôi đã tiến hành xử lý và phân
tích các chỉ tiêu ảnh hưởng đến sự phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các
làng nghề.

3


- Đối với số liệu sơ cấp: Những thông tin này được thu thập thông qua khảo
sát điều tra thực tế tại các làng nghề, phỏng vấn trực tiếp các nghệ nhân trong làng
nghề. Quá trình khảo sát được thực hiện bằng nhiều phương pháp: điều tra trực tiếp,
phỏng vấn các cơ sở sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý tại các địa phương có sản
xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề.
 Phương pháp xử lý số liệu:
Trên cơ sở điều tra, khảo sát phỏng vấn sẽ xử lý số liệu bằng phương pháp:

Ế


phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... kết hợp với lý luận thực tế.

U

6. Nội dung nghiên cứu

́H

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm 3 chương.



Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển sản phẩm thủ công mỹ
nghệ tại các làng nghề

Chương 2: Thực trạng phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề

H

tỉnh Quảng Trị

IN

Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển sản phẩm thủ công mỹ

Đ
A

̣I H


O

̣C

K

nghệ tại các làng nghề tỉnh Quảng Trị

4


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TẠI CÁC LÀNG NGHỀ

1.1. Những vấn đề cơ bản về sản phẩm thủ công mỹ nghệ và làng nghề
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến sản phẩm TCMN và làng nghề
1.1.1.1. Làng nghề

Ế

Đã có những công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề của các nhà kinh tế,

U

văn hóa, sử học với những quan niệm khác nhàu về làng nghề.

́H


Ở làng nghề, mặc dù vẫn có các hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt,



chăn nuôi…) nhưng đã nổi trội một nghề cổ truyền tính xảo với một tầng lớp thợ
thủ công có cơ cấu tổ chức, có quy trình công nghệ nhất định, chuyên tâm làm nghề,
sống chủ yếu được bằng nghề đó với những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang tính

H

hàng hóa.

IN

“LN là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu

K

tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định. Trong đó, bao gồm

̣C

nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết

O

chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hoá” [1].

̣I H


Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng
trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan

Đ
A

lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tính xảo với một tầng
lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ
chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tính, nhất thân
vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công,
những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có
quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị
và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”[2].
Như vậy, khái niệm LN được hiểu là những làng ở nông thôn có các ngành

5


nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập.
1.1.1.2. Làng nghề truyền thống
Theo GS. Hoàng Văn Châu và nhiều người khác [3]: LNTT trước hết là LN
được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, gồm một hoặc nhiều nghề thủ công
truyền thống, truyền tải giá trị về văn hóa, kỹ thuật, mỹ thuật độc đáo của địa
phương và mang tính lịch sử. LNTT hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ thủ công
chuyên nghiệp, có phường nghề, có quy trình công nghệ, có mức độ tinh xảo nhất

Ế

định và phần lớn dân làng sống chủ yếu bằng nghề đó. Họ có cùng tổ nghề và đặc


U

biệt các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Ở các LN,

́H

vẫn tồn tại bộ phận sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, nghề thủ công đã tách hẳn ra
khỏi nông nghiệp và thể hiện tính độc lập tương đối của nó.



Ngoài các LNTT, trong thực tế còn có các LN mới du nhập gọi tắt là LN mới.
Đây là những LN có ngành nghề phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu do sự

H

lan toả từ LN truyền thống hoặc do sự du nhập nghề trong quá trình hội nhập giữa

IN

các vùng, các địa phương trong nước và giữa các nước. Ngay các LN truyền thống

K

cũng có sự đan xen giữa các nghề mới và nghề truyền thống.
1.1.1.3. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ

O


̣C

Ngành nghề thủ công mỹ nghệ là một bộ phận quan trọng của ngành nghề thủ

̣I H

công truyền thống. Ngành nghề TCMN có vài trò rất lớn trong quá trình phát triển
ngành nghề TCTT của Việt Nam, sản phẩm tủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ

Đ
A

thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp
thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật.
Theo Trần Văn Kinh, 2002[4], hàng thủ công là loại sản phẩm nghệ thuật, kết

tinh từ những thành tựu kỹ thuật - công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công
tinh xảo, với đầu óc sáng tạo nghệ thuật. Mô hình của ông Trần Văn Kinh được
biểu diễn như sau:
Phương pháp
thủ công tính xảo

+

Sự sáng tạo
nghệ thuật

6

->


Hàng thủ công
mỹ nghệ


Hàng TCMN/sản phẩm TCMN được hiểu là một loại hàng thủ công/sản phẩm
thủ công được dùng cho mục đích thưởng thức nghệ thuật và trang trí nhà cửa, nội
thất của khách hàng. [5]
Ngành nghề TCMN bên cạnh các yếu tố cấu thành nó có những nét đặc thù
riêng, đó là: sản phẩm tiêu biểu và đọc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng
rất cao, vừa là hàng hóa, vừa là sản phẩm văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thậm chí trở
thành các di sản văn hóa của dân tộc, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Chính yếu tố

Ế

nghệ thuật, văn hóa vật thể là một đặc thù hết sức quan trọng của hàng thủ công mỹ

U

nghệ. Sự kết hợp giữa phương pháp thủ công tinh xảo và sự sáng tạo nghệ thuật của

́H

nghệ nhân và thợ thủ công để tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ đã kéo theo những đặc
thù khác trong sự phát triển của ngành nghề TCMN và được xem như những tiêu



chí của ngành nghề này:


- Tính riêng, đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt

H

- Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, giữ bí quyết trong

IN

sáng tạo hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi

K

- Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời

và tư tưởng, trí tuệ)

̣C

- Sử dụng hàng thủ công đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng tức nghệ thuật

̣I H

O

1.1.2. Đặc điểm và vài trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế xã hội
1.1.2.1. Đặc điểm

Đ
A


- Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ
với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó
các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn,
sản xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề
đan xen lẫn nhau, người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân.
- Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng
nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu.
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản
xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ - kỹ thuật hoàn toàn

7


phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí
hóa và điện khí hóa từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều
nghề có khả năng cơ giới hóa được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
- Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chổ, hầu hết các
làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn nguyên
liệu sẵn có tại chổ, trên địa bàn địa phương, cũng có thể có một số nguyên liệu phải
nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm...

Ế

song không nhiều.

U

- Phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kỹ thuật

́H


khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ,
của các nghệ nhân. Trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển thì



hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay,
cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, việc ứng dụng khoa học - công

H

nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt được

IN

lượng lao động thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có một số

K

công đoạn trong quy trình sản xuất vẩn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công tinh
xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong các gia

O

̣C

đình từ đời nay sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng làng. Sau này, nhiều cơ sở

̣I H


quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, làm cho phương
thức truyền nghề và dạy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong

Đ
A

phú hơn.

- Sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ

thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Các sản phẩm làng nghề truyền thống
vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục
vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở nhà nước...
Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng
tạo nghệ thuật.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương,
tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền

8


thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa
phương. Ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dùng làm
nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị
trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh và
một phần cho xuất khẩu.
- Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ gia
đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.

Ế


1.1.2.2. Vai trò

U

- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đa dạng hóa

́H

kinh tế nông thôn

Quá trình phát triển các làng nghề đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng



sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng sản xuất
nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp sang ngành nghề

H

phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy, khi ngành nghề thủ công hình thành

IN

và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà

K

bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại phát
triển.


O

̣C

Nếu xem xét trên góc độ của sự phân công lao động thì các LN đã có tác động

̣I H

tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Khi các ngành nghề chế biến phát triển, yêu cầu
nguyên liệu từ nông nghiệp nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do đó,

Đ
A

trong nông nghiệp hình thành những bộ phận nông nghiệp chuyên canh hóa, tạo ra
năng suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hóa [9]. Đồng thời, người nông dân
trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự tìm thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi
nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã được thực
hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.
- Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp chuyển dịch lao
động nông nghiệp sang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở nông thôn, tạo việc làm nâng
cao đời sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Do

9


diện tích đất bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở
khu vực nông thôn trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt và đồng

bộ của các ngành nghề và lĩnh vực.
- Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế
Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho việc huy
động một cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở khu vực nông thôn như nguồn lực tự
nhiên, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm năng vốn, các nguyên liệu sẵn có ở

Ế

địa phương phục vụ cho sản suất. Do đó, sản xuất được đẩy mạnh và tạo ra nhiều

U

hàng hóa có chất lượng cao, đa dạng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Măt

́H

khác, sản xuất trong các làng nghề thường tương đối năng động và gắn chặt với nhu
cầu thị trường, vì vậy mà sản xuất của làng nghề mang tính chuyên môn hóa và đa



dạng hóa cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ trọng sản phẩm
hàng hóa ở các làng nghề thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông và

H

khối lượng sản xuất hàng hóa sản xuất ra cũng lớn hơn nhiều.

IN


Sản phẩm của làng nghề có giá trị kinh tế và xuất khẩu, nên việc phát triển

K

làng nghề góp phần cùng sản xuất nông nghiệp làm tăng trưởng kinh tế ở nông thôn.

O

nông thôn.

̣C

Cho nên phát triển làng nghề là thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo trong

̣I H

- Tận dụng nguồn lực, phát huy thế mạnh nội lực của địa phương
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển.

Đ
A

Nguồn lực của làng nghề bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công và
những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh, sức sống của không ít
sản phẩm như: dệt thổ cẩm, mộc dân dụng, tơ lụa…đều dựa vào tay nghề của người
lao động.
Mỗi làng nghề có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy, họ giữ vai trò quan trọng
trong việc giữ nghề, truyền nghề. Tuy nhiên, số lượng những người giỏi nghề ngày
một ít đi. Trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp được coi là bí mật, chỉ được
truyền cho con cháu trong gia đình, dòng họ [8]. Điều này làm cản trở không nhỏ

đến chất lượng và khả năng cạnh tranh sản phẩm. Bên cạnh đó, các nghề thủ công

10


cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực của địa phương, cụ thể là nguồn lao
động, tiền vốn.
Một khi làng nghề phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay
nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản suất, làm cho sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh thị trường lớn. Như vậy, các nghề
thủ công phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở

Ế

nông thôn. Hơn nữa, khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính

U

là tạo điều kiện cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng

́H

cao tính tổ chức, tính kỹ luật. Đồng thời, trình độ văn hóa của người lao động nâng
cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào



lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề. Bởi vậy, phát triển làng
nghề trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tùy thuộc vào việc xây dựng đội ngũ


H

nghệ nhân, thợ giỏi và việc truyền nghề cho những lao động trẻ tuổi.

IN

- Khôi phục và phát triển làng nghề góp phần bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc

K

của địa phương

Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế nhờ

O

̣C

quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự nghiệp

̣I H

CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng.
Như vậy, làng nghề không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hóa mà còn chứa đựng

Đ
A

những tiềm ẩn giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống văn hóa của dân tộc được lưu

truyền bao đời nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc phát
triển làng nghề còn là cơ sở để tổ chức du lịch làng nghề thu lợi nhuận cao, có khả
năng thu hút đông đảo du khách tìm hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hóa, những
sản phẩm truyền thống của dân tộc.
1.1.3. Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm TCMN tại các làng nghề
Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp do cơ chế quản lý, các
hộ gia đình, các làng nghề không được tự do kinh doanh, sản xuất mà phải gia nhập
các HTX tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, LN không được phát triển và có phần mai

11


một, hệ thống HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém hiệu quả và bắt đầu đổi
mới nền kinh tế.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do đầu tư và
sản xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm; được bình đẳng
trước pháp luật. Nhiều LN được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, trở thành một xu
hướng phát triển tất yếu do:
- Môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý của nhà nước thay

Ế

đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản xuất kinh doanh, các

U

thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật; Do đó, các DNTN, Công ty

́H


TNHH, CTCP được ra đời và phát triển hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn
thiện đã cởi trói cho cá nhân và doanh nghiệp, mở đường cho sản xuất phát triển



dẫn đến LNTT ở nông thôn cũng được phát triển. Nhà nước đầu tư cơ sỏ hạ tầng
như đường giao thông, cầu cống điện nước, bưu chính viễn thông, trường học, trạm

H

y tế … tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hóa, mở rộng các loại thị

IN

trường hàng hóa, lao động, tài chính …

K

- Phát triển LN gắn với lợi ích, đời sống thiết thực của nông dân. Xuất phát từ
lợi ích cá nhân, hộ gia đình vì mục tiêu lợi nhuận mà bản thân LN tự nó phát triển.

O

̣C

Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước đã

̣I H

quan tâm nhiều đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có LN nhằm mục

đích nhanh chóng nâng cao đời sống của nông dân, giảm nhành khoảng cách giàu

Đ
A

nghèo giữa nông thôn và thành thị. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó là
động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, đa dạng
hóa sản phẩm của LN. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, tiến bộ
KHCN, máy móc hiện đại được được đưa vào sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
sản xuất ngành nghề, góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao trình độ sản xuất
và năng suất lao động. Từ đó, tạo ra một bộ phận lao động, một bộ phận thời gian
dư thừa trong nông nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết công ăn việc làm cho bộ phận dư
thừa đó. Phát triển sản xuất kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp , là cơ
sở để phát triển công nghiệp nông thôn, hình thành các khu đô thị góp phần thay đỏi

12


cơ cấu kinh tế nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế chủ yếu là công nghiệp.
- Gắn liền với việc giữ gìn thương hiệu sản phẩm, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bởi vì: Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử của nền văn hóa Việt Nam
luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề, mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn
hóa nó phản ánh nét văn hóa độc đáo của từng địa phương, từng vùng. LN thể hiện
những nét văn hóa độc đáo qua từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập

Ế

quán. Bởi làng nghề có những sản phẩm bằng tay, chất liệu, kiểu dáng và từng chi


U

tiết khéo léo tinh xảo trên các sản phẩm thủ công chính là nơi chuyển tải các sắc

́H

thái văn hóa địa phương góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2. Các yếu tố tác động đến sự phát triển đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ



tại các làng nghề

Những yếu tố ảnh hướng đến sự phát triển của làng nghề truyền thống

H

quatrình phát triển làng nghề truyền thống chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác

IN

nhau. Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau

K

về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa nên sự tác động của các yếu tố không
giống nhau. Tuy nhiên hiểu một cách tổng quát chúng gồm các yếu tố sau:

O


̣C

* Yếu tố chủ trương, chính sách của nhà nước

̣I H

Các làng nghề thủ công, trên thực tế bao giờ cũng hoạt động trong một môi
trường thể chế. Nói cách khác môi trường thể chế luôn tác động trực tiếp đến hoạt

Đ
A

động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề. Môi trường thể chế bảo đảm cho làng
nghề phát triển bền vững, phát huy được các giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội các giá
trị đạo đức, tín nhiệm và lương tâm người thợ thông qua chất lương sản phẩm được
làm ra. Môi trường thể chế gồm quy chế của làng và chính sách pháp luật của nhà
nước.
Trong hầu hết các làng nghề thủ công truyền thống, nổi tiếng ở nước ta, đều có
quy chế về nghề thủ công, hoặc thành văn bản riêng hoặc trong một số điều của
Hương ước. Thậm chí mỗi phường nghề trong cùng một nghề ở cùng một làng cũng
có quy chế riêng, dưới dạng “lời thề”, “lời nguyền”. Những quy chế này truyền từ

13


đời này sang đời khác, bắt buộc các thành viên trong gia tộc, trong phường hội phải
tuân theo, thực hiện một cách khá nghiêm ngặt.
Những quy định nghiêm ngặt trong các làng nghề là biện pháp giữ bí mật và bí
quyết nghề nghiệp của những người thợ trong các làng nghề. Điều đó có tác dụng
tích cực đối với việc duy trì lâu dài hoạt động sản xuất của mỗi làng nghề. Tuy

nhiên, sự độc quyền của các thế hệ thợ thủ công trong mỗi làng nghề như thế đã
kìm hãm sự phát triển của nghề trong phạm vi cả nước. Sau này, khi các trường dạy

Ế

nghề mở ra, cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những hạn chế trên đây

U

thay đổi theo hướng tích cực hơn.

́H

Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ trước đổi mới, trong chính sách



đối với các thành phần kinh tế, chúng ta chỉ tập trung phát triền kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể, không chấp nhận kinh tế tư nhân, cá thể, nên các làng nghề theo

H

nghĩa là đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành hợp tác xã, hoặc các tổ, đội ngành

IN

nghề phụ trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, làm cho các nghề phụ không

K


phát triển được. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi hộ gia đình được
công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ cho nông thôn, các doanh nghiệp tư

̣I H

triển mạnh.

O

̣C

nhân được phép phát triển chính thức, thì các làng đã có điều kiện phục hồi và phát

Trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp

Đ
A

nông thôn đã được quan tâm đặc biệt. Đây chính là nội dung cơ bản của quá trình
công nghiệp hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020. Chính vì vậy, các chính sách về doanh nghiệp, vốn,
thuế, đào tạo nguồn nhân lực, quản lý thị trường… Là động lực thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế nông thôn nói chung và làng nghề nước ta nói riêng. Nếu không
có các chính sách phát triển hợp lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu
thủ công nghiệp thì các làng nghề cũng khó có điều kiện phát triển.

14



* Yếu tố kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng trước hết là giao thông, điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn
thông… có sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp rất lớn tới sự hình thành tồn tại và
phát triển của làng nghề, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất. Nhờ
có giao thông phát triển mà nguyên liệu và sản phẩm được giao lưu dễ dàng hơn
phục vụ tốt hơn việc đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Làng nghề phát triển tốt là
đều có giao thông thuận tiện, đây là điều kiện quan trọng vì nếu không tiện đường

Ế

giao thông thì làng nghề khó tồn tại lâu dài.

U

Điện có nhiều tác dụng trong đó đặc biệt là đáp ứng nhu cầu cơ khí hóa trước

́H

hết là cơ giờ hóa ở một số khâu, công đoạn trong quá trình sản xuất áp dụng công
nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩn trên thị



trường.

Thông tin là cầu nối để người sản xuất nắm bắt được nhu cầu sở thích của

H

khách hàng từ đó ra quyết định về mẫu mã sản phẩm, giá bán đồng thời thông tin


IN

còn giúp cho chủ doanh nghiệp quảng bá sản phẩm tiêu thụ sản phẩm.

K

* Yếu tố thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống phục thuộc rất lớn vào thị

O

̣C

trường và sự biến động của nó. Sản xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự chi phối

̣I H

của quan hệ cung – cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng nghề có khả năng thích
ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường thường có tốc độ phát triển nhanh. Đó là

Đ
A

những làng nghề mà sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn
đổi mới cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Điều này được
chứng minh ở sự phát triển mạnh của một số làng nghề truyền thống gồm sứ mỹ
nghệ, chạm, khắc gỗ. Ngược lại một số làng nghề không phát triển được, ngày càng
bị mai một có nguy cơ bị mất đi vì những lý do: Không đáp ứng được những đòi hỏi
khắt khe của thị trường, hoặc nhu cầu của thị trường, hoặc nhu cầu của thị trường

không cần đến loại sản phẩm đó nữa.

15


* Yếu tố nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất
Trong bất kỳ một cơ sở sản xuất nào số lượng nguyên liệu dự trữ trong kho bãi
hay đang trên đường về nhà đóng một vai trò quan trọng quyết định trong chiến
luôn đầu tư sản xuất kinh doanh, quy mô sản xuất cả cơ sở. Chủng loại nguyên liệu,
chất lượng, giá cả các nguyên liệu còn ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả sản
phẩm, hàng hóa sản xuất ra. Chất lượng sản phẩm tốt được đảm bảo, càng thu hút
được người tiêu dùng và nâng cao được thị phần sản phẩm của các làng nghề trên

Ế

thị trường.

U

Trong thời kỳ phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật chưa phát triển,

́H

thì gần các vùng nguyên liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình
thành và phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay, các nguyên liệu khai thác



phục vụ cho các làng nghề chủ yếu từ môi trường tự nhiên nên vùng nghuyên liệu
ngày càng suy giảm (như gỗ…), gây khó khăn cho sản xuất vì nguyên liệu đang bị


H

cạn kiệt. Do vậy khối lượng, chất lượng, chủng loại, khoảng cách của các nguồn

IN

nguyên liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm.

K

* Yếu tố môi trường trong làng nghề

Môi trường lao động ảnh hưởng đến hoạt động sinh lí, sức khỏe bệnh tật của

O

̣C

người lao động. Với điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của nước ta, lại

̣I H

cộng thêm tác động của các yếu tố độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất như
hơi khí độc, cường độ ồn, bụi…sẽ có ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe của người

Đ
A

lao động. Trong những điều kiện như thế, người lao động sẽ bị ảnh hưởng về thần

kinh, tâm lí và dẫn đến rối loạn sinh lí, suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao
động, tăng ốm đau, bệnh tật, bệnh nghề nghiệp. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, ô nhiễm môi trường lao
động cũng sẽ lan tỏa gây ô nhiễm các khu vực lân cận, ảnh hưởng đến đời sống của
người dân.
Việc phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở vùng nông
thôn nước ta lại sử dụng công nghệ lạc hậu, trang thiết bị cũ kỹ cũng làm cho vấn đề
ô nhiễm môi trường sống ở làng nghề nông thôn ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ô

16


nhiễm môi trường do công nghiệp nông thôn tạo ra rất đa dạng, đó là chất thải rắn,
khí thải, bụi, tiếng ồn…
Làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ô nhiễm cũng ngày càng gia tăng do các
tác động từ nhiệt độ cao, bụi, tiếng ồn hoặc mặt bằng nhà xưởng. Nếu làm việc
trong môi trường độc hại, nhiều nguy hiểm, người lao động sẽ chịu hậu quả là làm
giảm năng suất lao động, suy giảm về sức khỏe, tăng nguy cơ mắc bệnh tật, điều
này tăng chí phí khám chữa bệnh, giảm thu nhập của người lao động, càng gây khó

Ế

khăn hơn cho cuộc sống sinh hoạt của mỗi gia đình, đồng thời lan tỏa ảnh hưởng

U

đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy môi trường cũng là một yếu

* Yếu tố nguồn vốn đầu tư và phát triển


́H

tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề.



Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất – kinh
doanh nào. Sự phát triển thịnh vượng của các làng nghề cũng không nằm ngoài sự

H

ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất – kinh

IN

doanh trong các làng nghề rất nhỏ, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay

K

mượn bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày
nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn

O

̣C

rất lớn, đòi hỏi các hộ sản xuất – kinh doanh trong các làng nghề phải có đủ lượng

̣I H


vốn để đầu tư cải tiến công nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu,
công đoạn, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu

Đ
A

cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Yếu tố nguồn lao động
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là lao động sáng tạo. Các sản phẩm của

làng nghề là nơi gửi gắm tâm hồn, sự sáng tạo của nghệ nhân. Các sản phẩm thủ
công vừa phải đảm bảo có giá trị sử dụng nhưng cũng phải có tính nghệ thuật cao,
chứa đựng phong cách riêng. Thực tế để tạo ra được những sản phẩm tinh xảo thì
ngoài năng khiếu bẩm sinh, người lao động cần trải qua một thời gian đào tạo lâu
dài mà nhiều khi họ không đủ kiên nhẫn để theo đuổi đến cùng. Bên cạnh đó, với
phương thức đào tạo theo kiểu nghề truyền thống như hiện nay, những kỹ năng bí

17


quyết nghề nghiệp nhiều khi chỉ truyền lại cho gia đình. Chính điều này đã làm cho
số lượng thợ cả, nghệ nhân mới ngày càng hạn chế trong khi đó những nghệ nhân
cũ ngày càng mất đi, như vậy những tinh hoa của làng nghề ngày càng bị mai một.
Ngày nay, khi làng nghề tồn tại trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì ngoài
kỹ năng, bí quyết riêng của người thợ, sự phát triển của làng nghề đòi hỏi người sản
xuất, nhất là các chủ hộ phải có kiến thức kinh doanh như quản lý sản xuất, tổ chức
tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật

Ế


còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ chuyên môn và

́H

càng cao của thị trường trong nước cũng như quốc tế.

U

văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu ngày

* Yếu tố khoa học công nghệ và thiết bị sản xuất



Công nghệ là một nhân tố quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất. Trong
các làng nghề bao giờ cũng có nghệ nhân có tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất,

H

tâm huyết với nghề, là những hạt nhân duy trì nét độc đáo của làng nghề, đó là sự

IN

khác biệt của các sản phẩm làng nghề.

K

Tuy nhiên, chỉ có kinh nghiệm cổ truyền thôi chưa đủ mà phải có khoa học
công nghệ hiện đại, đó là mặt tiêu cực của yếu tố truyền thống. Đồng thời những


O

̣C

quy tắc khắt khe, hạn chế trong luật nghề, lệ làng đã cản trở không nhỏ đến việc mở

̣I H

rộng sản xuất - kinh doanh của làng nghề.
Trong cơ chế thị trường phát triển của làng nghề đã thể hiện cuộc cạnh tranh

Đ
A

gay gắt về năng suất, chất lượng, giá cả, sản phẩm sản xuất ra chịu sự cạnh tranh
của những sản phẩm cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu. Đặc biệt trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, giao lưu thương mại mang tính toàn
cầu thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ càng có tác động to lớn
đến khả năng cạnh tranh, tăng năng suất lao động và chất lượng của sản phẩm.

18


1.3. Kinh nghiệm quốc tế, trong nước về việc phát triển sản phẩm thủ công
mỹ nghệ tại các làng nghề
1.3.1. Trên thế giới
- Nhật bản
Tuy CNH diễn ra và phát triển mạnh, song làng nghề vẫn tồn tại, các nghề thủ
công vẫn được mở mang. Họ không những duy trì và phát triển các ngành nghề cổ
truyền mà còn mở mang một số ngành nghề mới. Đồng thời, Nhật Bản cũng rất chú


Ế

trọng đến việc hình thành xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị trấn, thị tứ ở nông thôn để làm

U

vệ tinh cho những xí nghiệp lớn ở đô thị .

́H

Ngành nghề TTCN Nhật Bản bao gồm: chế biến lương thực, thực phẩm, nghề
đan lát, nghề dệt chiếu, nghề dệt lụa, nghề rèn công cụ…Đầu thế kỷ thứ XX , Nhật



bản hiện còn 867 nghề thủ công cổ truyền hoạt động. Năm 1992 đã có 2.640 lượt
người qua 62 nước trong đó có Trung Quốc, Malaysia, Anh, Pháp tới thăm TCNN

H

của Nhật.

IN

Trong các ngành nghề nổi lên có nghề rèn là nghề thủ công cổ truyền phát

K

triền ở nhiều làng nghề và thị trấn của Nhật. Thị trấn Takeo tỉnh Gi Fu là một trong

những địa phương có nhiều nghề cổ truyền từ 700 năm đến 800 năm, đến nay vẫn

O

̣C

tiếp tục hoạt động, hiện nay cả thị trấn có khoảng 200 hộ gia đình với 1000 lao động

̣I H

là thợ thủ công chuyên nghiệp, hằng năm sản xuất ra 9 – 10 triệu nông cụ các loại,
với chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Điều đáng chú ý là công nghệ chế tạo nông cụ ở

Đ
A

Nhật Bản từ thủ công dần được HĐH với các máy gia công tiến bộ và kỹ thuật tiên
tiến. Thị trấn Takeo có trung tâm nghiên cứu mẫu mã và chất lượng công cụ với đầy
đủ thiết bị đo lường hiện đại theo tiêu chuẩn quốc gia. Mặc dù, hiện nay Nhật Bản
đã trang bị đầy đủ máy móc nông nghiệp và đạt trình độ cơ giới hóa các khâu canh
tác dưới 95% nhưng nghề sản xuất công cụ vẫn không giảm sút nhiều. Nông cụ
Nhật Bản với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà xản
xuất ra nước ngoài.
Năm 1979, Chính phủ Nhật Bản đã phát động phong trào “Mỗi làng một sản
phẩm”, với ý tưởng làm sống lại các ngành nghề thủ công truyền thống. Phong trào

19


này bắt đầu từ tỉnh Oita với khẩu hiệu nổi tiếng là: “Nghĩ về tổng thể, hành động ở

địa phương” và “ Độc lập và sáng tạo”. Nhờ phong trào này, một số sản phẩm
truyền thống của Oita trở nên nổi tiếng không chỉ ở Nhật Bản, mà còn cả trên thị
trường nhiều nước.
Từ thành công của tỉnh Oita, sau 5 năm phát động, cả nước Nhật Bản đã có 20
tỉnh hưởng ứng với các dự án tương tự như: “ Sản phẩm của làng”, “chương trình
phát triển thành phố quê hương”…Tinh thần của phong trào này còn hấp dẫn nhiều

Ế

nước trong khu vực và trên thế giới.

U

Ngoài ra, Chính phủ cũng có các chính sách hỗ trợ phát triển cụ thể như:

́H

Chính sách đào tạo lực lượng kế tục, chính sách marketing, xây dựng nhà triển lãm
nghề thủ công ở các địa phương có nghề, các chính sách về nghiên cứu nguyên vật



liệu thay thế và sử dụng lao động tại địa phương. Hiệp hội nghề thủ công truyền
thống được thành lập đóng vai trò khuyến khích phát triển nghề, bảo vệ quyền lợi

H

cho nghệ nhân và những người theo nghề. Hiệp hội cũng là chiếc cầu nối giữa

IN


người sản xuất và người tiêu dùng. Ngoài ra, hiệp hội còn thực hiện nhiều dự án

K

khai thác nhu cầu, giáo dục thế hệ trẻ, mở các cuộc thi và khen thưởng công khai,
xây dựng phim truyền hình giới thiệu công nghệ truyền thống.

O

̣C

Bên cạnh đó, Nhật Bản còn xúc tiến thành lập các LN nghệ thuật và LN TCTT

̣I H

và dành cho các mô hình không gian văn hóa này những điều kiện tốt nhất để có thể
bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển các di sản công nghệ cổ truyền Nhật Bản; phát

Đ
A

triển các nghề thủ công truyền thống kết hợp với việc khai thác dịch vụ du lịch sinh
thái và bán các sản phẩm LN TCTT, góp phần tạo công ăn việc làm tại chỗ, phát
triển bằng nội lực địa phương, bảo tồn nghề truyền thống, bảo vệ môi trường.
Nhật Bản đã xây dựng các mô hình: “Các cơ sở dừng chân dọc đường” từ
những năm 1993 là những mô hình hữu ích và được phổ biến rộng rãi. Với 845 cơ
sở trên 9 vùng toàn quốc, hầu hết được bố trí ở các vùng nông thôn, đóng vai trò
quan trọng trong phát triển du lịch. Ở mỗi cơ sở đều có: bãi đỗ xe, các tiện nghi về
văn hóa, giáo dục, những nhà hàng do chính những người nông dân đứng ra làm

chủ…để quảng bá cho địa phương, tùy từng nơi mà thiết kế cho phù hợp. Những

20


Logo là những biểu tượng đơn giản mà hiệu quả không thể thiếu được, giới thiệu
các cơ sở. Mỗi cơ sở là những điểm dừng chân thu hút du khách [10].
- Thái Lan
Ở Thái Lan có nhiều ngành nghề TTCN và làng nghề. Các ngành nghề thủ
công truyền thống như chế tác vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức được duy trì và phát
triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu đứng vào hàng thứ hai trên thế giới. Do kết
hợp tay nghề của người nghệ nhân tài hoa với công nghệ kỹ thuật tiên tiến, do đó

Ế

sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường[11].

U

Thái Lan là nước có ngành du lịch phát triển mạnh ở châu Á. Nên đẩy ý thức

́H

được thế mạnh của truyền thống quốc gia, thể hiện qua các làng nghề,chính phủ đã
đặt ra mục tiêu và xác định việc khai thác nguồn tài nguyên LN là một nhân tố tích



cực thu hút khách du lịch. Vì vậy họ đã xây dựng nhiều chiến lược để kết nối các
hoạt động thương mại, du lịch và sản xuất các LN theo chiến lược tổng thể của đất


H

nước.

IN

Về phía nhà nước, Chính phủ Thái Lan đã phát động phong trào có tên gọi

K

“Mỗi làng là một làng nghề sản xuất”. Chương trình này được xây dựng trên ba
nguyên tắc cơ bản: mang tính địa phương nhưng phải tiến ra toàn cầu; phát huy tính

O

̣C

tự lực và sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực.

̣I H

Dự án có mục tiêu

- Tạo ra sản phẩm riêng biệt cho từng địa phương để tăng doanh số bán ra.

Đ
A

Ngoài ra, để hàng hóa có thể thâm nhập thị trường thế giới cần đáp ứng các tiêu

chuẩn vệ sinh và chất lượng quốc tế.
- Làm sống lại, phục hồi và phát huy các chức năng truyền thống của địa

phương nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Phát huy tri thức địa phương để sáng tạo ra những sản phẩm và hàng hóa có
tính đặc thù.
- Song song phát triển du lịch sinh thái và du lịch tham quan các LN thủ công
mỹ nghệ để tăng thu nhập cho địa phương.
- Xây dựng lòng tự hào dân tộc và xã hội đối với các sản phẩm của Thái Lan.

21


- Hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế thông qua việc hỗ trợ thiết kế và phát triển sản phẩm để theo kịp sự thay đổi
thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng.
Để thực hiện dự án có hiệu quả, Chính phủ Thái Lan đã xây dựng cơ chế thực
hiện dự án, có sự phân rõ trách nhiệm, nhấn mạnh đến vai trò điều phối chính sách
của Chính phủ và vai trò tự quản và thực thi của cấp địa phương đặc biệt là sự tham
gia của mọi tầng lớp nhân dân. Hầu hết các bộ, ngành chủ chốt trong nước tham gia

Ế

vào dự án: Văn phòng thủ tướng, Cục phát triển kinh tế - xã hội và kinh tế quốc gia,

U

Bộ Tài chính, Bộ Thương Mại, Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp, Bộ Y Tế, Tổng

́H


cục du lịch Thái Lan… Việc thực thi cụ thể dự án có sự phối hợp đồng thuận của cả
chính quyền và các tổ chức kinh doanh ở từng địa phương.



Trong thực tế để thực hiện dự án trên, nhiều trung tâm thương mại, dịch vụ,
sản xuất đã hình thành ở địa phương. Chính phủ Thái Lan quy định các công ty tổ

H

chức đưa đón các đoàn khách du lịch nước ngoài đều phải dừng lại tham quan các

IN

trung tâm thương mại, dịch vụ, các trung tâm sản xuất của mỗi địa phương nằm dọc

K

tuyến đường giao thông. Đây là hình thức để Thái Lan có thể quảng bá và bán các
loại sản phẩm của các địa phương, các làng. Các vấn đề này đều được các công ty

lịch nước ngoài.

O

̣C

nước ngoài chấp hành nghiêm chỉnh mà vẫn tạo ra tâm lý thoải mái với khách du


̣I H

- Trung Quốc

Đ
A

Nghề thủ công ở Trung Quốc có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải,
dệt tơ lụa, luyện kim, nghề làm giấy…Sang đầu thế kỷ XX Trung Quốc có khoảng
10 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp, không chyên nghiệp làm việc trong các hộ gia
gia đình, trong phường nghề và làng nghề. Sau năm 1954, thủ công nghiệp ở Trung
Quốc được tổ chức thành các hợp tác xã. Từ khi thực hiện cải cách năm 1978 nhiều
hợp tác xã thủ công đã biến thành xí nghiệp. Những năm 80 các xí nghiệp cá thể và
làng nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra 68% giá trị sản
lượng công nghiệp nông thôn và trong số 32% sản lượng công nghiệp nông thôn do
các xí nghiệp cá thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể từ làng nghề. Trong các hàng

22


thủ công xuất khẩu, hàng thảm có vị trí đáng kể (chiếm 75% số lượng thảm ở thị
trường Nhật)[6].
- Malaisia
Nói đến Malaisia là nói đến quốc gia với nhiều sắc tộc khác nhau từ người
Trung Quốc, Ấn Độ... cho đến người Trung Đông đã xuất hiện từ hàng ngàn năm. Ở
đó, các sắc tộc và văn hóa châu Á hòa lẫn và tạo nên Malaisia. Từ xa xưa, các nghề
thủ công truyền thống Malaisia đã rất phát triển như nghề dệt, nghề làm gốm, đúc

Ế


đồng... Những nghề rất đặc trưng của các quốc gia châu Á. Chính vì thế “ Truly

U

Asia in Malaisia” tức là châu Á đích thực ở Malaisia là khẩu hiệu quảng bá mà bất

́H

kỳ khách du lịch nào đến Malaisia thậm chí những người chưa đến cũng khó có thể
quên vì ý nghĩa sâu sắc cuả nó.



Trước nguy cơ mai một của làng nghề truyền thống, Chính phủ Malaisia cũng
xác định rõ: “Nghề thủ công ở Malaisia đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế

H

đất nước, kết hợp được các yếu tố truyền thống và hiện đại, phát triển kinh tế với

IN

bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Chính sự đa dạng về sắc tộc của

K

Malaisia đã tạo nên sự đa dạng về văn hóa, phản ánh qua các sản phẩm thủ công
truyền thống. Chính phủ Malaisia thông qua tập đoàn phát triển nghề thủ công, trực

O


̣C

thuộc Bộ Văn hóa, Nghệ thuật và Di sản đã thực hiện hàng loạt biện pháp, áp dụng

̣I H

các sáng kiến, giải pháp để phát triển các nghề thủ công. Đó là cách thức hữu hiệu
để bảo tồn và gìn giữ các làng nghề thủ công truyền thống”.

Đ
A

Ngoài ra chính phủ Malaisia đang còn tái thiết lại 15 làng cổ truyền. Các làng
văn hóa gần đây khá phát triển ở Malaisia, nơi mà các viện bảo tàng từ thời thực
dân vào thế kỷ XIX. Ngôi làng văn hóa đầu tiên có vào năm 1986 mang tên là
“Malaisia nhỏ bé” nằm ở bang Malacca. Năm nay được đánh dấu bằng sự kiện
Chính phủ đã coi du lịch là công cụ để phát triển kinh tế. Bản thân “Malaisia nhỏ
bé” quảng bá cho hình ảnh làng quê văn hóa của Malacca. Nhà ở trong Malaisia nhỏ
bé” là ví dụ tiêu biểu của áp dụng văn hóa và kiến trúc trong nước[3]

23


1.3.2. Ở Việt Nam
- Tình hình phát triển chung
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử và truyền thống phát triển lâu đời. Trên
mảnh đất này đã hình thành, bảo tồn và phát triển hàng ngàn LN. Sự hình thành và
phát triển của LN Việt Nam luôn gắn liền với sự phát triển của nền văn hoá và văn
minh vùng châu thổ Bắc Bộ. Sự xuất hiện của nghề thủ công gắn liền với sự phát

triển của ngành nông nghiệp. Đây là hình thức lao động của người nông dân trong

Ế

thời gian nông nhàn, tận dụng các đồ vật sẵn có để tạo nên các sản phẩm thủ công

U

phục vụ cho đời sống như là những công cụ, những sản phẩm hữu dụng khác. Trải

́H

qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài theo sự biến động, thăng trầm của lịch sử đất
nước; hiện nay, Việt Nam có khoảng 2.017 LN, trong đó có khoảng 1.450 LN có



thu nhập chính bằng nghề cổ truyền với hàng nghìn nhân công; có khoảng 140 LN
đã được công nhận là LN TCTT. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ có mật độ LN TCTT khá

H

cao trong đó có nhiều LN nổi tiếng vẫn giữ được nét truyền thống và ngày càng

IN

phát triển như: gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, tranh Đông Hồ…LN Việt Nam mang

K


bản sắc văn hoá làng Việt và có một số LN TCTT đã tách ra khỏi nông nghiệp để
sản xuất kinh doanh.

O

̣C

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và cuộc sống hiện đại ngày nay, một số

̣I H

mặt hàng thủ công truyền thống đã không còn phù hợp đủ sức cạnh tranh với các
mặt hàng công nghiệp dẫn đến nhiều LN dần bị mai một hoặc thất truyền. Tuy

Đ
A

nhiên, trong nhiều năm trở lại đây, Chính phủ và các địa phương đã có nhiều chính
sách khuyến khích bảo tồn và phát triển các LN như một sự giữ gìn những nét văn
hóa truyền thống của dân tộc và tìm lối ra cho các sản phẩm của LN phù hợp với
với cơ chế thị trường.
- Làng gốm Bát Tràng
Làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, nằm bên bờ tả ngạn song Hồng,
cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10 km về phái Đông Nam. Trải qua nhiều thăng
trầm của lịch sử, gốm Bát Tràng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị
trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí. Hiện

24



nay, sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt
hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước như các loại ấm, chén, bát đĩa, lọ hoa…kiểu mới, các
loại vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện…và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn
đặt hàng của nước ngoài. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác
mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành
công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và men sứ

Ế

đặc sắc thời Lý, Trần, Lê,...Từ năm 2002, các nghệ nhân Bát Tràng bắt đầu liên kết

U

để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thông qua hiệp hội gốm sứ Bát Tràng. Thông qua

́H

hiệp hội, người Bát Tràng có cơ hội tìm hiểu, nắm bắt thông tin về thị trường, các
kiến thức mới trong công nghệ sản xuất gốm sứ, phương thức buôn bán thời thương



mại điện tử và cách nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất gốm sứ Bát Tràng đang áp dụng mô hình kinh doanh theo kiểu cộng tác, kiên

H

kết, thường khoảng 5-7 nhà với nhau để phổ biến kinh nghiệm, tay nghề, bí quyết.


IN

- Tỉnh Hà Tây

K

Hà Tây đã được mệnh danh là “Đất trăm nghề”. Theo điều tra của Tổ chức
hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), đến nay, trong 1.460 thông làng của Hà Tây thì

O

̣C

đã có gần 80% số làng có nghề, với 411 làng nghề (nhiều nhất toàn quốc, chiếm 1/5

̣I H

trong 2.017 làng nghề trong cả nước). Hàng thủ công mỹ nghệ và sản phẩm làng
nghề của tỉnh Hà Tây thực sự có lợi thế để phát triểu xuất khẩu. Những lợi thế so

Đ
A

sánh của hàng thủ công mỹ nghệ và sản phẩm làng nghề của Việt Nam đều hiện
diện ở Hà Tây. Hiện nay, ngoài số 57 hợp tác xã ngành nghề TTCN còn có trên
154.000 hộ tham gia sản xuất TTCN tại các làng nghề, có 305 công ty trách nhiệm
hữu hạn (TNHH, công ty cổ phần sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
(CN)-(TNCN). Tổng vốn đầu tư vào khu vực sản xuất của các làng nghề TTCN
đang ngày càng tăng, trong đó nguồn vốn vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng lên
tới 1.080 tỷ đồng. Giá trị sản xuất (GTSX) từ các khu vực làng nghề trong tỉnh đạt

khoảng 3.000 tỷ đồng/năm, chiếm gần 40% tổng giá trị sản xuất CN -TTCN toàn
tỉnh. Sản phẩm làng nghề Hà Tây đã thâm nhập một số thị trường trọng điểm của

25


×