Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự qua thực tiễn thực hiện tại viện kiểm sát nhân dân huyện thủy nguyên, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI VĂN TUÂN

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI VĂN TUÂN

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN PHƢƠNG THẢO

Hà Nội – 2015


LỜI CẢM ƠN
Một chặng đường học tập và nghiên cứu tại Bộ môn luật dân sự – Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội sắp qua. Trong suốt quãng thời gian ấy, em
không chỉ học được nhiều kiến thức và bài học bổ ích mà còn nhận được sự
dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Phương Thảo, người
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình
em thực hiện luận văn của mình.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô, cán bộ trong bộ
môn cùng các anh chị và các bạn đang học tập tại Bộ môn luật dân sự - Khoa
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè cùng các
đồng nghiệp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo,
Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã
luôn động viên, giúp đỡ và là nguồn động lực cho em trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 26 tháng 09 năm 2015
Học viên

Bùi Văn Tuân


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS Trần Phương Thảo – Giảng viên khoa Pháp luật
Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Những thông tin, số liệu và trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và chính xác.

Tác giả luận văn

Bùi Văn Tuân

4


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ. ......................... 7
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải
quyết vụ án dân sự ....................................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự: .... 7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ
án dân sự.................................................................................................................... 14
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động kiểm sát. ..................................................................... 19
1.2. Cơ sở của việc xây dựng quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKSND trong giải quyết vụ án dân sự. .................................................................... 20
1.2.1. Cơ sở lý luận. .................................................................................................. 20
1.2.2. Cơ sở thực tiễn. ............................................................................................... 21
1.3. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kiểm sát

việc tuân theo pháp luật của VKS trong giải quyết vụ án dân sự. ............................ 23
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959. ........................................................... 23
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989. ........................................................... 24
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến trước ngày 01/01/2005. ...................................... 25
1.3.4. Giai đoạn từ ngày 01/01/2005 đến nay. .......................................................... 26
1.4. Tham khảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự một số nước về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát (Viện công tố) ............................................................ 31
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN............. 35
2.1. Kiểm sát việc thụ lý............................................................................................ 36
2.2. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. ............. 40


2.3. Kiểm sát thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân. ................................................................................................................... 41
2.3.1. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm. ..................................................... 42
2.3.2. Hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm........................................ 45
2.3.3. Kiểm sát một số quyết định của Tòa án nhân dân: ........................................ 51
2.4. Kiểm sát các hoạt động tố tụng theo pháp luật tại tòa án cấp phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. .................................................................................................... 53
2.4.1. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. ............................................................... 54
2.4.2. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. ......................................... 56
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................ 60
3.1.Thực tiễn thực hiện hoạt động kiểm sát các vụ án dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Thủy Nguyên. .......................................................................................... 61
3.1.1. Những kết quả đã đạt được. ............................................................................ 61
3.2. Những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân. ..................................................... 76

3.2.1. Một số tồn tại, vướng mắc trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
đối với vụ án dân sự: ................................................................................................. 76
3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, vướng mắc trên. .............................................. 81
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự, quyền hạn kiểm sát trong tố tụng dân
sự. .............................................................................................................................. 82
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết các vụ án dân sự. ............................................................................. 82
3.3.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết các vụ án dân sự. ............................................................................. 86
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 97


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

2. LTCVKSND

: Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

3. TAND

: Tòa án nhân dân

4. TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

5. TTDS

: Tố tụng dân sự

6. TTLT

: Thông tư liên tịch

7. UBND

: Ủy ban nhân dân

8. VKS

: Viện kiểm sát

9. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

10.VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng


Trang

Bảng 3.1. Thống kê số lượng vụ án dân sự VKSND huyện

60

Thủy Nguyên thụ lý năm 2012, 2013, 2014 và 6 tháng đầu
năm 2015.
Bảng 3.2. Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của

60

VKSND huyện Thủy Nguyên trong các năm 2012, 2013,
2014, 06 tháng đầu năm 2015
Bảng 3.3. Thống kê số lượng bản án, quyết định giải

62

quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên ban hành trong thời gian năm 2012, 2103, 2014
và 06 tháng đầu năm 2015.
Bảng 3.4. Thống kê số lượng bản án, quyết định VKS đã

63

kiểm sát trong năm 2012, 2013, 2014 và 06 tháng đầu
năm 2015.
Bảng 3.5. Thống kê số lượng vụ án do Viện kiểm sát nhân
dân huyện Thủy Nguyên kháng nghị phúc thẩm trong năm

2012, 2013, 2014 và 06 tháng đầu năm 2015.

65


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước
ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Sự lựa
chọn đó là xuất phát từ những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem
lại cho nước ta. Sự phát triển theo mô hình này đã giúp làm cho nền kinh tế
nước ta phát triển năng động. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật
giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và
động lực để phát triển sản xuất. Sử dụng kinh tế thị trường là sử dụng quy luật
giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về
hàng hóa do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động. Mỗi
người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị
trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ
mới có được thu nhập. Không những vậy, kèm theo sự tác động của hội nhập
quốc tế trên mọi lĩnh vực ở nước ta đã thúc đẩy giao lưu buôn bán, thúc đẩy
giao dịch giữa cả người dân trong nước với các đối tác nước ngoài. Sự giao
lưu kinh tế dân sự phát triền, các mối quan hệ dân sự ngày càng phổ biến và
thể hiện trên nhiều khía cạnh. Tuy nhiên các mối quan hệ đó ngoài những mặt
tích cực đi kèm theo là những mâu thuẫn khó khăn, đời sống con người được
nâng cao dẫn đến các quan hệ dân sự ngày càng phức tạp, phát sinh nhiều
mâu thuẫn cần được điều chỉnh một cách khoa học và hợp lí hơn. Việc giải
quyết các mâu thuẫn phát sinh trong các mối quan hệ dân sự đó cần phải được
giải quyết một cách đúng đắn, khách quan, đúng theo quy định của pháp luật.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cho thấy, mặc dù về cơ bản, các quy
định của Bộ luật đã đi sâu vào đời sống xã hội nước ta, nhưng các quy định về
1


việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong tố tụng dân sự vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù pháp luật vẫn quy định VKSND có đầy đủ
các quyền kiến nghị, kháng nghị nhưng thiếu cơ chế, phương thức, cơ sở pháp
lý để thực hiện quyền của mình. Sau 5 năm thực hiện BLTTDS năm 2004
thấy rằng, chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của
VKSND vẫn còn nhiều hạn chế. Việc phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng
nghị còn ít, chất lượng chưa đảm bảo, trong khi đó vi phạm trong việc giải
quyết án dân sự vẫn chiếm tỷ lệ cao, tình trạng khiếu kiện của người dân về
việc giải quyết án dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp. Án dân sự ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa, huỷ án còn
nhiều, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân
không được đảm bảo. Nguyên nhân nêu trên là do hệ thống pháp luật về dân
sự và tố tụng dân sự hiện hành còn chưa đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện, chất
lượng giải quyết án dân sự của Tòa án còn hạn chế, nhưng một phần quan
trọng cũng là do các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò cũng như chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều
bất cập. Mặt khác, nền kinh tế thị trường vốn dĩ luôn vận động và không
ngừng phát triển, sự tham gia vào quá trình liên kết, hợp tác khu vực và quốc
tế như: tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ… đã đặt
ra những yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam. Đó là yêu cầu sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, để bảo
đảm phù hợp với các cam kết quốc tế. Đứng trước những thử thách và yêu cầu
mới của thế kỷ XXI, vị trí, vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự vẫn cần

được tiếp tục nghiên cứu để có quy định phù hợp với tình hình mới, bối cảnh
mới. Trước thực trạng nêu trên, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XII, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
2


BLTTDS năm 2004, theo hướng mở rộng thẩm quyền của VKSND trong tố
tụng dân sự.
Tuy nhiên, những quy định trong BLTTDS năm 2004 (sửa đổi) về vai
trò của Viện kiểm sát, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn vẫn bộc lộ
những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu và tạo điều kiện để
VKSND thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự. Việc hạn chế sự tham gia của VKSND tại phiên toà sơ thẩm
dẫn đến các thẩm quyền tố tụng liên quan cũng bị loại bỏ hoặc hạn chế nên
VKSND không có đủ các quyền hạn tố tụng cần thiết khi thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tại Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 2/6/2005
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và kết luận số 79/KL - TƯ ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về đề án đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án,
Viện kiểm sát, cơ quan điều tra đã xác định VKSND là cơ quan thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do vậy, vấn đề chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò và mô hình hoạt động của VKSND trong
tố tụng dân sự vẫn phải cần được làm rõ và tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho VKSND
thực hiện tốt nhiệm vụ đã được Đảng, Quốc hội và nhân dân giao phó, đáp
ứng với yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp, góp phần vào việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật chung.
Với những lí do trên, tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài: “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự qua thực tiễn thực hiện tại
Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng” làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình. Với đề tài này có thể thấy rõ hơn được chức

năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án dân sự của
VKSND, một số mặt tích cực, hạn chê, từ đó nhận biết lên phát huy mặt nào,
khắc phục ở những điểm nào. Đồng thời qua quá trình nghiên cứu, cá nhân tôi

3


sẽ có điều kiện nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm công
tác của bản thân.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: phân tích cơ sở lý luận về vấn đề
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự và thực tiễn
thực hiện tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, Thành phố Hải
Phòng. Trên cơ sở đó nêu ra những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn về vai trò của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải
quyết vụ án dân sự.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nêu ra những lí luận về vai trò của VKSND kiểm sát việc tuân theo
pháp luật ở Việt Nam trong giải quyết vụ án dân sự hiện nay. Vai trò của
VKSND trong giải quyết vụ án dân sự được quy định trong pháp luật.
- Làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong trong tố
tụng dân sự qua thực tiễn kiểm sát giải quyết vụ án dân sự của VKSND huyện
Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
của VKS trong kiểm sát vụ án dân trong thời gian tới, bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài:
- Đề tài đưa ra các cơ sở lí luận về vai trò của VKSND khi tham gia

giải quyết vụ án dân sự, phân tích, đánh giá các cơ sở lí luận đó.
- Đưa ra thực tiễn tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải
quyết vụ án dân sự của VKSND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng
hiện nay, từ đó đánh giá được thực trạng, nhìn ra những điểm hạn chế trong

4


quy định về việc tham gia của VKSND trong kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong vụ án dân sự tại Bộ luật dân sự 2004 (Sửa đổi bổ sung năm 2011).
- Đề xuất một số giải pháp, phương hướng mới nhằm hoàn thiện hơn
trách nhiệm của VKSND trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giải quyết vụ án dân sự.
- Luận văn giúp cho mọi người có góc nhìn sâu sắc về cơ quan kiểm sát
hoạt động tư pháp, từ đó nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, đúng đắn
hơn. Giúp người đọc nắm bắt, so sánh giữa lí luận và thực trạng để nhìn ra
được những mặt tích cực cũng như thiếu sót, có thể làm cơ sở để cải cách tư
pháp một cách hoàn thiện và hiệu quả hơn trong pháp luật tố tụng dân sự hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng:
Các quy định của pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giải quyết vụ án dân sự của Viện kiểm sát, những vấn đề lí luận và thực tiễn
áp dụng tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải
Phòng.
Phạm vi nghiên cứu:
Các hoạt động của VKSND khi tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong giải quyết vụ án dân sự quy định tại BLTTDS 2004 (Sửa đổi bổ
sung năm 2011) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác, thực tiễn áp
dụng các quy định của VKSND tham gia tố tụng dân sự tại địa bàn huyện

Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng (số liệu lấy từ năm 2012 đến nay).
5. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong giải
quyết vụ án dân sự được quy định trong bộ luật tố tụng 2004 (Sửa đổi bổ sung
2011), thực tiễn thực hiện của VKSND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải
5


Phòng. Từ đó đưa ra các nhận định, đánh giá và các giải pháp giúp hoàn thiện
hơn các quy định trong pháp luật sao cho phù hợp.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành
khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng
đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và
thực tiễn.
5.3. Địa điểm nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi huyện Thủy Nguyên, Thành phố hải
Phòng.
6. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khái, luận văn
được kết cấu thành ba chương bao gồm:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự của Viện
kiểm sát nhân dân.
Chương 3. Thực tiễn thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải
quyết vụ án dân sự qua nghiên cứu tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy

Nguyên và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát các
vụ án dân sự.

6


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ.
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết
vụ án dân sự:
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
tại chương II đã khẳng định: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”. Trong các quyền con người đã được Hiến pháp ghi nhận, quyền dân sự
của công dân có ý nghĩa rất quan trọng và được nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ. Bộ luật dân sự 2005 cũng ghi nhận quyền này và
cho phép các chủ thể được chủ động thực hiện biện pháp pháp lý để tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh các biện pháp mà nhà nước
cho phép thực hiện như tự thỏa thuận, hòa giải, yêu cầu trọng tài giải quyết thì
biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo trình tự tố tụng dân sự tại Tòa án nhân
dân được coi là một biện pháp tương đối hữu hiệu. Thực hiện biện pháp này,
cá nhân, cơ quan, tổ chức khi cho rằng quyền, lợi ích dân sự của mình bị xâm
phạm, tranh chấp, họ có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt
hành vi trái pháp luật, phải bồi thường thiệt hại… Tại Điều 161 chương VII
BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã khẳng định quyền khởi kiện của

cá nhân, cơ quan, tổ chức như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đâu gọi

7


chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình”.
Để đảm bảo hơn nữa quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
BLTTDS còn quy định một số cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện trong một
số lĩnh vực nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể. Điều này đã
được cụ thể hóa trong Điều 162 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Theo
quy định tại điều này thì cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ
nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện về vụ án
hôn nhân và gia đình trong trường hợp do luật Hôn nhân và gia đình quy định.
Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động
trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền
hạn được nhà nước phân công có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách.
Như vậy, khi có yêu cầu khởi kiện của chủ thể có quyền khởi kiện, tòa
án với tư cách là một cơ quan nhà nước, được nhà nước phân công nhiệm vụ
giải quyết các yêu cầu trong các vụ việc dân sự sẽ có trách nhiệm xem xét,
giải quyết. Sau khi nhận đơn, nếu nhận thấy đơn đó thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án mình thì tòa án thụ lý giải quyết và khi đó sẽ phát sinh vụ án
dân sự tại tòa án nhân dân. Việc phát sinh các vụ án dân sự tại tòa án nhân
dân là một hiện tượng tất yếu bởi cho dù quyền, nghĩa vụ của các chủ thể đã
được quy định trong luật nội dung nhưng do mỗi chủ thể có trình độ, có ý
thức pháp luật khác nhau nên khi thực hiện quyền, nghĩa vụ vẫn xảy ra hiện

tượng thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ dẫn đến mâu
thuẫn, tranh chấp về quyền, lợi ích giữa các chủ thể. Nếu các bên lựa chọn tòa
án giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn và tòa án chấp nhận giải quyết tranh
8


chấp, mâu thẫn đó thì khi tòa án thụ lý giải quyết, mâu thuẫn, tranh chấp đó là
vụ án dân sự .
Trong BLTTDS hiện hành không có điều luật nào quy định cụ thể khái
niệm vụ án dân sự hay việc dân sự. Tại Điều 1 BLTTDS chỉ quy định:
“BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự,
thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án
dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi
chung là việc dân sự); trình tự , thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự
(sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án…”. Như vậy, Bộ luật chỉ
khái quát chung về khái niệm cũng như đặc điểm của vụ án và việc dân sự
chứ không quy định thành từng điều luật cụ thể. Tuy nhiên qua quy định trên
có thể nhận thấy vụ án dân sự phát sinh từ việc các bên mâu thuẫn, tranh chấp
với nhau về quyền, lợi ích dân sự, một trong các bên có đơn yêu cầu tòa án
giải quyết và tòa án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu đó. Quyền, lợi ích dân sự
mà các bên có mâu thuân, tranh chấp với nhau được quy định trong BLTTDS
theo nghĩa rộng, bao gồm các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi
chung là tranh chấp dân sự). Khi các mâu thuẫn, tranh chấp trở thành vụ án
dân sự thì vụ án dân sự là đối tượng của thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại tòa
án nhân dân.
Trong tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung hay các vụ án dân sự nói riêng.

Với tư cách là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, Tòa án được nhà nước
giao thẩm quyền đặc biệt là thẩm quyền xét xử, được sử dụng quyền lực nhà
nước để giải quyết các vụ việc dân sự dân sự. Do có thẩm quyền đặc biệt,
9


được quyền sử dụng quyền lực nhà nước nên khả năng tòa án có thể lạm dụng
việc sử dụng quyền lực nhà nước rất có thể sẽ xảy ra. Mặt khác, do các tranh
chấp dân sự ngày càng đa dạng, phức tạp nên khả năng việc giải quyết vụ án
dân sự có thể sai lầm nên trong luật tố tụng dân sự của bất cứ một quốc gia
nào cũng cần thiết lập một cơ chế kiểm tra, giám sát hợp lý đối với hoạt động
giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án nhân dân. BLTTDS của Việt Nam
cũng không là một ngoại lệ. Nhận thức được sự cần thiết của cơ chế kiểm tra,
giám sát, BLTTDS hiện hành cũng đã có nhiều quy định về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án nhân dân.
Theo giải thích trong Đại từ điển Tiếng Việt: “Kiểm sát là việc kiểm tra
và giám sát, là công tác điều tra tố tụng các vụ án theo pháp luật”[46]. Tại từ
điển Tiếng Việt cũng có cách giải thích tương tự: “Kiểm sát là kiểm tra và
giám sát việc chấp hành pháp luật của nhà nước”[47]. Kiểm sát còn được hiểu
“là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của cơ quan tiến
hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân
nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chính và thống
nhất.”[48] Như vậy, hiểu theo cách chung nhất kiểm sát là một hoạt động
thiết yếu của Nhà nước, là chức năng tất yếu của một cơ quan được nhà nước
phân công kiểm sát hoạt động giải quyết các vụ án dân sự do tòa án tiến hành.
Cơ quan được nhà nước phân công này chính là Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng cơ bản đó là chức năng thực
hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công

dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Có thể
nhận thấy khái niệm “kiểm sát” được nghiên cứu trong đề tài này gắn liền mật

10


thiết với chức năng thứ hai của VKSND các cấp và là một trong hai chức
năng đặc thù của VKSND.
Ở Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực Nhà nước là thống nhất, tập trung
vào Quốc hội, có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án
và Viện kiểm sát, để mỗi cơ quan thi hành có riêng chức năng, nhiệm vụ của
mình, nhưng vẫn phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp
của quyền lực nhà nước. Tòa án nhân dân và VKSND trong bộ máy nhà nước
Việt Nam là cơ quan tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét
xử, VKSND thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư xét xử. Từ
thời Pháp thuộc, VKSND đã được thành lập. Mô hình này tiếp tục tồn tại sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến
VKSND nhưng trong cơ cấu của Toà án có các Kiểm sát viên làm nhiệm vụ
buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày
hoà bình lập lại ở miền Bắc, từ năm 1958, VKSND được tách ra khỏi Toà án
nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc
lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương. Hoạt động chủ yếu của VKSND
vẫn là hoạt động công tố trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, nên theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình
cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước được hình thành. Ngày
26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, đánh dấu sự ra đời của ngành Kiểm sát nhân dân Việt Nam. Hệ thống

VKSND ra đời có vai trò, vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND là một hệ thống cơ quan có vị trí
độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức thành một hệ thống từ trung ương
11


đến địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện), có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
Trước yêu cầu thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, góp phần hoàn thiện hệ
thống lý luận, cơ sở pháp lý cho hoạt động của VKSND, tháo gỡ nhiều khó
khăn, vướng mắc của thực tiễn, ngày 24 tháng 11 năm 2014, tại Kỳ họp lần
thứ 8 - Quốc hội khóa XIII, đã thông qua Luật tổ chức VKSND sửa đổi năm
2014 và Nghị quyết thi hành Luật tổ chức VKSND sửa đổi 2014 có hiệu lực
vào ngày 01/06/2015, đây là bước phát triển quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Khoản 1 Điều 2 - Luật Tổ chức VKSND đã ghi nhận chức
năng của Viện kiểm sát: "Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam". Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, VKSND là một hệ thống cơ
quan nhà nước độc lập trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan Nhà
nước. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2002), Hiến pháp năm 2013 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát, nhưng chức năng công tố vẫn giao cho VKS đảm
nhiệm. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể VKSND “thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Tại Khoản 1 Điều 107
Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ : "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp". Khoản 3 Điều 107 quy định: "Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất". Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
12


02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 vẫn
khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Như vậy, ở Việt
Nam chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
đến nay vẫn luôn được giao cho VKSND thực hiện. Xuất phát từ chức năng
chung của ngành, VKSND tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự của
Tòa án nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, bảo
đảm tính pháp chế trong các phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự được quy định
trong các quy phạm pháp luật luôn chứa đựng những nội dung đảm bảo cho
cơ chế hoạt động của ngành kiểm sát và xác định vị trí quan trọng của một cơ
quan công quyền trong hệ thống bộ máy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Nội dung sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự được hiểu là
quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giải quyết vụ,
việc dân sự của Tòa án.
Từ những phân tích trên có thể khái quát khái niệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong vụ án dân sự như sau: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giải quyết vụ án dân sự là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc thực hiện thẩm quyền do nhà nước giao là kiểm tra, giám sát các
hoạt động tuân theo pháp luật của Tòa án, đương sự và các chủ thể tham gia tố

tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại tòa án nhân dân nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của tập thể hay của nhà nước, qua đó

13


đảm bảo các hoạt động tố tụng của các chủ thế trong tố tụng dân sự được đúng
đắn theo quy định của pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giải quyết vụ án dân sự.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân
sự là hoạt động tố tụng dân sự được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự
xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước,
xuất phát từ nhu cầu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, của
nhà nước.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 và
các điều 2, 4, 6, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đều khẳng định VKSND là
cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Cụ thể tại khoản 3 Điều 1, Điều 21
BLTTDS khẳng định "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”
là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, theo đó "Viện kiểm sát nhân dân
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”. Sở dĩ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong vụ án dân sự là một hoạt động tố tụng dân sự
bởi hoạt động kiểm sát này gắn liền với quy trình giải quyết vụ án dân sự của
tòa án nhân dân. Hoạt động kiểm sát này cũng giống như hoạt động giải quyết
vụ án dân sự của tòa án là cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ các quyền, lợi ích

dân sự hợp pháp của đương sự hoặc của nhà nước. Hoạt động kiểm sát này
cũng được thực hiện dựa trên việc sử dụng quyền lực nhà nước để nhằm làm
14


cho hoạt động giải quyết vụ án của tòa án được đúng pháp luật. Để giám sát,
VKSND theo sát từng bước của quá trình giải quyết vụ án từ khi bắt đầu là
thủ tục nhận đơn thụ lý vụ án đến khi tuyên bố xong bản án, quyết định nhằm
kịp thời phát hiện ra sai lầm, vi phạm pháp luật.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự là một
hoạt động tố tụng dân sự và hoạt động này được quy định trong pháp luật tố
tụng dân sự. Việc quy định hoạt động này trong pháp luật tố tụng dân sự
nhằm tạo cơ sở pháp lý hợp pháp cho việc thực hiện các hoạt động kiểm sát
trong thực tiễn tố tụng dân sự. Không chỉ đến khi Việt Nam có BLTTDS mới
quy định về hoạt động kiểm sát này mà ngay từ khi chúng ta xây dựng những
văn bản pháp luật tố tụng dân sự đầu tiên chúng ta đã có những quy định ban
đầu về hoạt động kiểm sát của VKSND trong tố tụng dân sự. Để thực hiện
được hoạt động kiểm sát, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền tham gia
phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của VKS, VKSND tham gia
phiên tòa đối với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương
sự có khiếu nại; tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án; tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự
mà VKSND kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời tham gia
các phiên toà giám đốc thẩm và tái thẩm do Toà án kháng nghị theo thẩm
quyền.
Để tạo điều kiện cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tồ chức VKSND,
trên cơ sở điều kiện thực tế về biên chế và đội ngũ kiểm sát viên của ngành
Kiểm sát và căn cứ vào tính chất, đối tượng của các vụ việc dân sự, Điều 21
BLTTDS hiện hành còn được sửa đổi theo hướng quy định: VKSND tham gia

các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập
chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền
15


sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất, tâm thần. VKSND tham gia tất cả các phiên họp
sơ thẩm đối với các việc dân sự, phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung đã giao nhiệm vụ cho
VKSND tối cao chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ
thể thi hành điều luật này.
Như vậy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân
sự tại tòa án nhân dân được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự xuất phát
từ vị trí, vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự. Ngoài việc quy định cho
VKSND có các quyền năng giám sát thì thực chất là việc VKSND kiểm sát
thực hiện quyền năng đó thông qua việc VKSND tham gia phiên tòa, phiên
họp giải quyết vụ việc dân sự của VKSND và chính việc VKSND kiểm sát
hoạt động tố tụng của cơ quan tòa án từ giai đoạn thông báo thụ lý vụ án đến
việc VKSND tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự đó đã
tạo điều kiện tốt nhất để các quyền của đương sự trong đó có quyền tự định
đoạt được bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động thể hiện quyền
lực nhà nước, là thẩm quyền đặc biệt của Viện kiểm sát được pháp luật Việt
Nam quy định thống nhất từ trước đến nay.
Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức
năng và nhiệm vụ của mình, VKSND sử dụng quyền lực nhà nước, trực tiếp
tham gia kiểm sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa,bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
trật tự xã hội.


16


Trong tố tụng dân sự, VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự thực
hiện chức năng giám sát hoạt động của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự. Sở dĩ là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự vì VKSND là cơ quan
nhà nước không thể thiếu, được bố trí nằm trong bộ máy nhà nước, chủ động
sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết các vụ kiện tụng về dân sự. Mặc dù
không được nhà nước trao quyền đặc biệt là quyền xét xử như tòa án nhưng
VKSND lại được nhà nước giao quyền kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án.
Chức năng giám sát này được ghi nhận tại Điều 107 Hiến pháp 2013, Điều 2
và Điều 27 Luật tổ chức VKSND 2014 và được cụ thể hóa tại Điều 21
BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn
kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án; Kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản
trên của Tòa án có đúng quy định của BLTTDS hay không…Tất cả những
hoạt động kiểm sát này được VKSND thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Thứ ba, nội dung của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại tòa án nhân dân là kiểm sát quy
trình các các hoạt động giải quyết vụ án dân sự
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự là
thẩm quyền đặc biệt của Viện kiểm sát, được thực hiện bằng các biện pháp và
hình thức nhất định nhằm kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự. Các biện pháp, các hình thức kiểm sát này
tạo nên nội dung của hoạt động kiểm sát. Thực hiện song song với quy trình
tố tụng dân sự tại tòa, hoạt động kiểm sát bao gồm các nội dung cụ thể sau
đây:

17


×