Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 102 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH HU

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với
các tội phạm về môi tr-ờng

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHM TH HU

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với
các tội phạm về môi tr-ờng
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Nguyn Thỏi Phỳc

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Huế


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ...................................................... 1
1.2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................... 3
1.3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 6
1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6
1.5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 7
1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................... 8
1.7. Tính mới và những đóng góp của đề tài ................................................ 8
1.8. Cấu trúc của Luận văn ............................................................................ 9

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
PHÁP NHÂN ................................................................................................. 10
1.1. Lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân.................................. 10
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự ....................................................... 10
1.1.2. Cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự ....................... 15
1.2. Khái quát vànhững bất cập của các quy địnhvề các tội phạm môi
trƣờng trong Bộ luật hình sự nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . 24
1.3. Cơ sở lý luận về quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân ........ 27
1.3.1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong khoa học luật hình sự
Việt Nam ...................................................................................................... 27
1.3.2. Quan điểm không ủng hộ quy định trách nhiệm hình sự của
pháp nhân ................................................................................................... 29
1.3.3. Quan điểm ủng hộ quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân.... 32


Chƣơng 2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦAPHÁP NHÂN TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC.................................................. 41
2.1. Tổng quan tình hình quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
của các nƣớc trên thế giới ............................................................................. 41
2.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự một số nƣớc... 41
2.2.1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật Cộng hòa Pháp... 41
2.2.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự Thụy Sĩ .. 46
2.2.3. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự
Vương quốc Anh ......................................................................................... 49
2.2.4. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự Canada .. 52
2.2.5. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự
Trung Quốc ................................................................................................. 54
Chƣơng 3. NHU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỚI VIỆC QUY ĐỊNH
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN ĐỐI VỚI CÁC TỘI

PHẠM VỀ MÔI TRƢỜNG .......................................................................... 58
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam với với việc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trƣờng . 58
3.1.1. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường, thực tiễn điều tra,
truy tố và xét xử các tội phạm về môi trường ............................................ 58
3.1.2. Trách nhiệm của pháp nhân trong pháp luật hành chính ............. 73
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam với việc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trƣờng..... 77
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam với việc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trƣờng..... 82
3.3.1. Các giải pháp cụ thể.......................................................................... 82
3.3.2. Các giải pháp khác ............................................................................ 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS:

Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

PLHS:

Pháp luật hình sự

TNDS:


Trách nhiệm dân sự

TNHC:

Trách nhiệm hành chính

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TPMT:

Tội phạm môi trường

TTHS:

Tố tụng hình sự


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cuộc sống của con người gắn liền với môi trường, môi trường có ảnh
hưởng lớn tới sự sống còn của con người. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, môi trường toàn cầu đang có sự biến đổi tiêu cực, khó lường, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cuộc sống của con người.
Bất kỳ quốc gia nào, việc phát triển kinh tế - xã hội đều gắn liền với
hoạt động khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam là một
nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, điều kiện về môi trường tự
nhiên thuận lợi cho phát triển. Việt Nam, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, với việc thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

một mặt thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, song mặt khác cũng đặt ra những
thử thách, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và toàn dân cùng chung tay thực hiện,
trong đó vấn đề hàng đầu là bảo vệ môi trường.
Nhận thức rõ ý nghĩa vô cùng quan trọng của môi trường đối với sự
sống của con người, Đảng, Nhà nước luôn đề cao vai trò của việc bảo vệ môi
trường thông qua đường lối, chủ trương, chính sách và thể chế hóa thành pháp
luật. Việt Nam đã tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế về bảo vệ môi
trường, đang tiếp tục nghiên cứu, đàm phán ký kết các điều ước quốc tế khác
về môi trường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường của nước
ta cũng tương đối đầy đủ, đã và đang từng bước được hoàn thiện nhằm bảo vệ
môi trường. Điều 29 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:“Cơ quan Nhà nước,
đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện
các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trường.Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và
huỷ hoại môi trường” [38]. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường” [39].

1


Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, cùng
một loạt các văn bản luật khác như: Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật
Khoáng sản, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng…, và các
văn bản hướng dẫn thi hành đã tiếp tục quy định cụ thể về hoạt động bảo vệ
môi trường. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã giành một Chương (Chương XVII) quy định các tội phạm về môi
trường. Có thể nói với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) là chế tài nghiêm khắc nhất hiện nay để xử lý vi phạm về môi
trường, góp phần tích cực trong công cuộc bảo vệ môi trường, bảo đảm quyền

được sống trong môi trường trong lành của con người.
Mặc dù, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về bảo vệ môi trường luôn được khẳng định, song, trong những năm gần đây,
ý thức coi thường pháp luật của một bộ phận không nhỏ các tổ chức, cá nhân
vì lợi ích kinh tế dẫn đến tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ngày
càng diễn ra với tần suất tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, diễn biến
phức tạp, khó lường, với thủ đoạn tinh vi nhằm che dấu và đối phó với các cơ
quan chức năng, gây bất bình trong dư luận và xã hội, trong đó nổi bật là vi
phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Vedan xả nước thải trực tiếp xuống
sông Thị Vải (Đồng Nai), Công ty sửa chữa tàu biển Huyndai-Vinashin xả
chất thải rắn (hạt nic) độc hại không qua xử lý ra môi trường ở Khánh Hòa,
nhà máy Miwon (Việt Trì - Phú Thọ) xả nước thải chưa qua xử lý ra sông
Hồng, hành vi xả nước thải độc hại ra sông Đông Điền (huyện Nhà Bè Thành phố Hồ Chí Minh) của công ty cổ phần thuộc da Hào Dương; các công
ty nhập chất thải phế liệu về cảng Hải Phòng, Sài Gòn và Đà Nẵng,…
Riêng trong 06 tháng đầu năm 2013, lực lượng Cảnh sát phòng chống
tội phạm về môi trường đã phát hiện 6.347 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê tình hình xét xử tội phạm về môi

2


trường trên toàn quốc trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2012 (số liệu do
Vụ Thống kế tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao cung cấp) thì trong 12 năm từ
năm 2000 đến năm 2012, Tòa án đã xét xử 1686 vụ với 2958 bị cáo, số lượng
vụ án và số lượng bị cáo được đưa ra xét xử quá nhỏ so với số vụ vi phạm
thực tế xảy ra.
Hậu quả của việc vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường là vô cùng to lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của con người
cả trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những chế tài xử lý về vi
phạm hành chính chưa đủ sức răn đe, trừng trị, Bộ luật Hình sự hiện hành

cũng mới chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội,
không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, do đó, việc núp bóng
dưới danh nghĩa pháp nhân để phạm tội chưa được xử lý thích đáng. Để bảo
vệ môi trường, để phát triển bền vững, bảo vệ sự sống của con người thì việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và
pháp luật về hình sự nói riêng cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, trong đó,
đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự đối với cả pháp nhân.
Với ý nghĩa trên, học viên chọn đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về
môi trường” để nghiên cứu.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã và đang được các nhà nghiên
cứu khoa học pháp lý, các nhà lập pháp của các quốc, gia trên thế giới nghiên
cứu, pháp luật hình sự một số nước như Canada, Anh, Pháp, Trung Quốc,…
đã quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Mặc dù, pháp luật hình sự hiện hành của Việt Nam chưa quy định trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, song lịch sử phát triển pháp luật hình sự Việt
Nam cho thấy trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề trách nhiệm
hình sự của pháp nhân, tổ chức cũng đã được đề cập trong pháp luật hình sự.

3


Sau năm 1956 cho đến nay, pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử ở
nước ta vẫn chưa thừa nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân, tổ chức, đơn
vị. Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân được các thành viên Ban Dự
thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 1985 nghiên cứu và chế
định này đã được đưa vào Điều 2 của Bản Dự thảo lần thứ X (tháng 3 năm
1998), tuy nhiên đến Dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi lần thứ XI (tháng
10/1998), vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân được tạm gác lại vì Quốc

hội cho rằng hiện nay, vấn đề này đối với nước ta vẫn còn mới, còn có nhiều
ý kiến khác nhau, cần được nghiên cứu kỹ và chỉ đặt ra khi có đủ điều kiện.
Trong khoảng thời gian sau 1986 đến nay, nhất là hai thập niên gần
đây, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, nhiều tổ chức, doanh nghiệp (pháp
nhân) vì chạy theo lợi nhuận đã bất chấp sự an toàn, tính mạng, sức khỏe của
cộng đồng thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng đặc biệt là
trong các lĩnh vực môi trường, ngân hàng, chứng khoán,… mà chưa có cơ sở
để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, các nhà lập pháp đã có nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết, bình luận về vấn đề trách nhiệm hình sự của
pháp nhân, trong đó phải kể đến là các công trình, nghiên cứu của các nhà
khoa học luật hình sự hàng đầu của nước ta như: GS. TSKH Lê Cảm “Trách
nhiệm hình sự của pháp nhân - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS. TS
Trịnh Quốc Toản “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình
sự”, PGS.TS. Trần Văn Độ - Tòa án Quân sự Trung ương: “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các tổ chức, pháp
nhân trong Luật hình sự Việt Nam”, PGS. TS. Phạm Hồng Hải: “Pháp nhân
có thể là chủ thể của tội phạm hay không”,… Các công trình nghiên cứu nêu
trên cung cấp cho người đọc một cách nhìn tổng quan về trách nhiệm hình sự
của pháp nhân.

4


Thực hiện Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật Hình sự được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1236/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm
2012, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng 16 Bộ, ngành khác và 63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã tiến hành tổng kết thực tiễn 11 năm thi hành Bộ luật
Hình sự, thể hiện tại Báo cáo tổng hợp kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ

luật Hình sự số 167/BC-PLHSHC ngày 18 tháng 3 năm 2013 của Bộ Tư
pháp, trong đó Báo cáo đã nêu những vướng mắc , bất cập trong quá trình thi
hành Bộ luật Hình sự hiện hành như: Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội, không truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân,… và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất, hoàn
thiện các quy định của Bộ luật Hình sự, góp phần khắc phục những bất cập,
hạn chế của Bộ luật Hình sự hiện hành, đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới cũng như đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế mà một trong những kiến nghị đó là sửa đổi, bổ sung Điều 8 Bộ
luật Hình sự, theo đó bổ sung quy định pháp nhân cũng là chủ thể của tội
phạm làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ một Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật Hình sự hiện hành,
Báo cáo mới chỉ nêu ra kiến nghị mà chưa đi sâu phân tích cơ sở lý luận cũng
như chưa nêu và đánh giá cụ thể tình hình, diễn biến thực tiễn vi phạm pháp
luật hình sự nói chung nhất là trong lĩnh vực môi trường; chưa nêu và đánh
giá thực trạng xử lý các tội phạm về môi trường của các cơ quan chức năng
như thế nào và đặc biệt là chưa đưa ra những phân tích, đánh giá cụ thể sâu
sắc về những bất cập trong việc xử lý các vi phạm pháp luật hình sự này.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nội dung các công trình nghiên
cứu, sách chuyên khảo, các bài báo khoa học,... đã được công bố ở Việt Nam
trong thời gian qua, đặc biệt là kể từ khi Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các

5


Bộ, ngành khác, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước
thực hiện tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự hiện hành cho thấy sự
cần thiết phải có sự nhìn nhận một cách thấu đáo vấn đề trách nhiệm hình sự
của pháp nhân.
Tuy nhiên, những năm gần đây chưa có luận văn, luận án nào đi sâu

nghiên cứu chi tiết, cụ thể toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy
định vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi
trường. Hơn nữa, trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm nói
chung và tội phạm về môi trường nói riêng thì những kết quả nghiên cứu đã
đạt được vẫn cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện. Do vậy, để góp phần
khẳng định sự cần thiết của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân,
học viên lựa chọn “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường” để làm luận
văn thạc sĩ luật học là phù hợp với thực tế yêu cầu về xây dựng và hoàn
thiện pháp luật hình sự hiện nay.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam dưới góc nhìn so sánh với
pháp luật hình sự một số nước; những hạn chế, bất cập trong việc xử lý vi
phạm pháp luật hình sự đối với các tội phạm về môi trường ở Việt Nam, từ đó
đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả
xử lý hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu cụ thể nêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận trách nhiệm hình sự của pháp nhân;
nghiên cứu quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Luật hình sự
của một số nước trên thế giới.

6


- Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội
phạm về môi trường và thực tiễn áp dụng, rút ra những bất cập, vướng mắc và
nguyên nhân của nó.

- Phân tích nhu cầu, quan điểm hoàn thiện pháp luật hình sự với việc
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân.Đưa ra những kiến nghị, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và mô hình lý
luận về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về
môi trường.
1.5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam, tập trung Chương III, Tội phạm và Chương XVII. Các tội phạm
về môi trường của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Các công trình nghiên cứu, chuyên khảo về khoa học pháp lý liên quan
đến các tội phạm về môi trường, thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường;
về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự của một số
nước trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: phạm vi nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi
trường; thực tiễn điều tra , truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường của các
cơ quan bảo vệ pháp luật . Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu , so
sánh, đối chiếu trong đề tài đươ ̣c viện dẫn từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Bộ Tư pháp; báo cáo công tác của Cục Cảnh sát
phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo của Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và một số báo cáo
chuyên đề về môi trường.

7


Phạm vi về thời gian: trong khoảng thời gian 15 năm (từ năm 2000 đến
năm 2015).

1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, học viên dựa trên cơ sở
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
mác - xít, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu
tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác, học viên sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là: phương pháp tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp kế thừa…
Trong các phương pháp nêu trên, học viên lựa chọn phương pháp phân
tích, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh là những phương pháp chủ
đạo nhằm làm rõ lý luận và thực tiễn của việc quy định vấn đề trách nhiệm
hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường.
1.7. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Những điểm mới của luận văn có thể được khái quát như sau:
- Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường.
- Thứ hai, đánh giá tổng quan thực tiễn thi hành Chương XVII. Các tội
phạm về môi trường của Bộ luật Hình sự hiện hành, những tồn tại, bất cập
trong quá trình xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường để thấy được sự
cần thiết phái truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
- Thứ ba, nêu đề xuất mô hình lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam trong tương lai.
Những đóng góp của đề tài:
- Về lý luận:
Những đề xuất của đề tài có thể được nghiên cứu, sử dụng trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự nói chung và pháp luật hình sự về

8



môi trường nói riêng; là cơ sở để các nhà lập pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành góp phần đảm bảo tính
phòng ngừa, răn đe, trừng trị của pháp luật hình sự đối với các tội phạm nói
chung và tội phạm về môi trường nói riêng, góp phần bảo vệ sự nghiêm minh
của pháp luật, sự công bằng, hướng tới bảo vệ con người và đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu về khoa học pháp lý nói chung, khoa học Luật
hình sự nói riêng và áp dụng thực tiễn công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Về thực tiễn:
Nội dung của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
quá trình giảng dạy chuyên ngành luật.
“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường”
1.8. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
kết cấu về nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự
một số nước.
Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
hình sự Việt Nam với việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
1.1. Lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự

Trong khoa học luật hình sự, các nhà hình sự học vẫn còn có nhiều ý
kiến khác nhau về khái niệm TNHS.Trong khoa học luật hình sự của Liên xô
cũ và Liên bang Nga hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về TNHS, trong
đó nổi bật là các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: TNHS là nghĩa vụ của người phạm tội: phải chịu
hình phạt và được thể hiện trong việc tước bỏ có tính chất cá nhân hoặc tính
chất tài sản đối với người đó vì tội phạm đã được thực hiện; phải chịu biện
pháp tác động về mặt pháp lý hình sự bao gồm những việc tước bỏ, đau đớn
mà pháp luật quy định đối với người đó; phải chịu các hạn chế về quyền lợi
theo trình tự đã được pháp luật quy định, đồng thời bị kết án và chịu hình phạt
xuất phát từ trình tự tố tụng; phải chịu các biện pháp cưỡng chế Nhà nước
[13-tr.26]. Theo quan điểm này nhấn mạnh về hậu quả của TNHS, theo đó
người phạm tội phải chịu các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với
hành vi phạm tội của người đó.
Quan điểm thứ hai: TNHS là sự thực hiện có tính chất cưỡng chế những
sự tước bỏ nhất định được các cơ quan đấu tranh chống tội phạm nhân danh
Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm; kết án
nhân danh Nhà nước đối với người có lỗi về tội phạm do người đó thực
hiện;chịu đựng mang tính chất bắt buộc của người có tội những hậu quả tiêu
cực của tội phạm dưới hình thức kết án (sự khiển trách của Nhà nước và sự
cưỡng chế phải chịu những hậu quả đó bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đối với kẻ phạm tội; tác động có tính chất cưỡng chế Nhà nước do quy

10


phạm pháp luật hình sự quy định và được áp dụng đối với người phạm tội bằng
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; phản ứng của Nhà nước đối
với việc thực hiện tội phạm gắn liền với việc tước bỏ mang tính cưỡng chế đối
với người có tội các quyền nhất định hoặc sự hạn chế các quyền ấy và được

thực hiện trong các phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự [13-tr.27].
Quan điểm thứ ba: TNHS là hậu quả pháp lý - xã hội phức tạp của việc
phạm tội mà nó bao gồm bốn yếu tố: thứ nhất, nó dựa trên các quy phạm pháp
luật và bắt nguồn từ sự kiện phạm tội nghĩa vụ của chủ thể phải trả lời trước
Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có thẩm quyền về hành vi của mình;thứ
hai, nó thể hiện trong bản án của Tòa án sự đánh giá có tính chất phủ định
(kết án, coi là tội phạm) và sự cảnh cáo (thể hiện sự quở trách) người đã thực
hiện hành vi; thứ ba, quyết định đối với người có tội hình phạt hoặc biện pháp
có tính chất hình sự khác; thứ tư, án tích như là hậu quả pháp lý của việc kết
án cùng với sự chấp hành hình phạt đã được quyết định [13-tr28,29].
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay có nhữngquan điểm
chủ yếu về TNHS sau đây:
Quan điểm thứ nhất: TNHS là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình
trước Nhà nước” [13-tr29].
Quan điểm thứ hai: “TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách
nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện” [13-tr30].
Quan điểm thứ ba: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao
gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động tuy cứu TNHS, chịu bị kết
tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và
chịu mang án tích [13-tr30].

11


Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau về TNHS như quan điểm của PGS.TSKH Lê Cảm khẳng định:
“TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng

việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước do Luật hình sự quy định” [12]. Theo quan điểm này thì TNHS là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, nếu không có sự việc phạm tội
thì không đặt ra TNHS. TNHS được thực hiện bằng việc áp dụng một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với
người phạm tội; PGS.TS Lê Thị Sơn cho rằng: “TNHS là trách nhiệm của
người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của
mình. TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng
chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” [77].
Theo quan điểm này thì TNHS là trách nhiệm mà người thực hiện hành vi
phạm tôi phải chịu những hậu quả bất lợi bị truy cứu TNHS, chịu bị kết tội,
chịu biện pháp cưỡng chế và chịu mang án tích.
Theo quan điểm có tính truyền thống, phổ biến, có tính chung nhất
trong khoa học luật hình sự Việt Nam thì khái niệm TNHS được hiểu là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự
quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án
nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự
theo một trình tự tố tụng riêng.
Theo quan điểm này thì TNHS có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội, TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội, cụ thể:

12


- Trong thực tế khách quan nếu như không có việc thực hiện tội phạm –
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, thì cùng không xuất hiện
vấn đề TNHS;

- TNHS chính là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất
kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác vì các dạng trách nhiệm pháp lý khác
không đưa đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể của hành vi vi
phạm đến mức như TNHS - hạn chế hoặc tước bỏ quyền và tự do hay thậm
chí tước bỏ cả tính mạng của chủ thể (nếu bị áp dụng hình phạt tử hình);
Thứ hai, TNHS luôn luôn được thực hiện trong phạm vi của quan
hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các
quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà nước, còn bên kia là người
phạm tội, cụ thể:
- Nhà nước (mà đại diện là cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền) có
quyền xử lý người phạm tội nhưng, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý
dựa trên các căn cứ trong các giới hạn do pháp luật quy định;
- Người phạm tội thì có nghĩa vụ phải chịu tước bỏ hoặc bị hạn chế
quyền, tự do nhất định nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ
phía Nhà nước tất cả các quyền và lợi ích của con người và của công dân mà
pháp luật đã quy định.
Thứ ba, TNHS được xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền mà trình tự đó phải do pháp luật tố tụng hình sự
quy định, cụ thể:
- Không phải bất kỳ cơ quan Nhà nước nào cũng được phép quy TNHS
cho một công dân, mà chỉ có cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền gồm cơ
quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án mới có thẩm quyền quy định TNHS
cho một công dân.

13


- Thẩm quyền quy định TNHS phải theo một trình tự đặc biệt do pháp
luật TTHS quy định. Tùy từng giai đoạn cụ thể của quá trình TTHS mà cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định xác định TNHS của công dân bị

coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.
Thứ tư, TNHS chỉ được thể hiện trong bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định. Các quyết định
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong quá trình TTHS chỉ là các văn
bản áp dụng các biện pháp cưỡng chế về mặt TNHS nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện TNHS sau này mà chưa phải là các văn bản mà trong đó TNHS
được thực hiện. Một người chỉ bị coi là tội phạm khi có bản án kết tội của Tòa
án có hiệu lực pháp luật, TNHS được thực hiện bằng việc áp dụng đối với
người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật
hình sự quy định.
Thứ năm, TNHS chỉ mang tính chất cá nhân, hiện nay, pháp luật hình
sự nước ta mới chỉ quy định TNHS đối với cá nhân mà chưa quy định TNHS
đối với pháp nhân.
Tuy nhiên, hiện nay cũng có quan điểm cho rằng các đặc điểm của
TNHS gồm các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm
tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị PLHS cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà PLHS yêu cầu
phải thực hiện.
TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Trong thực tế khách quan, nếu
như không có việc thực hiện tội phạm thì cũng sẽ không xuất hiện vấn đề TNHS.
TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kì dạngtrách
nhiệm pháp lý nào khác. Bởi vì, các dạng trách nhiệm pháp lý khác không đưa

14


đến hậu quả bất lợi và nghiêm trọng đối với chủ thể của hành vi vi phạm như
TNHS (hạn chế, tước bỏ quyền tự do, thậm chí tính mạng của chủ thể).

Thứ hai, TNHS chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo
quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải
thực hiện.
Theo quy định của pháp luật TTHS, chỉ có cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mới có thẩm quyền
quy kết TNHS cho một công dân; và thẩm quyền đó phải theo một trình tự
đặc biệt do Pháp luật TTHS quy định.
Thứ ba, TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt - biện pháp
tước đoạt hoặc hạn chế ở họ một số quyền và lợi ích nhất định.
Thứ tư, TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối
với Nhà nước chứ không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp
của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.
Thứ năm, TNHS phải được phản ánh trong văn bản tố tụng hình sự.
Thứ sáu, TNHS chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội, vì
theo PLHS Việt Nam, pháp nhân không thể là chủ thể của tội phạm.
Mặc dù vẫn còn tồn tại quan điểm khác nhau về các đặc điểm của
TNHS nhưng có một đặc điểm chung quan trọng mà cả hai luồng quan điểm
đều thừa nhận đó là TNHS chỉ được áp dụng đối với cá nhân, bởi lẽ hiện nay,
pháp luật hình sự Việt Nam mới chỉ quy định TNHS của cá nhân mà chưa
thừa nhận TNHS của pháp nhân.
1.1.2. Cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
1.1.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở của TNHS là rất quan trọng, phải
dựa trên ba phương diện: khách quan, hình thức và pháp lý của TNHS.

15


Theo quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 thì cơ sở của

TNHS là: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự”[5].Việc quy định cơ sở của TNHS của
Bộ luật hình sự năm 1999 dựa trên các yếu tố chính sau đây: lỗi, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội,… Lỗi là một trong
những điều kiện của TNHS và là mặt chủ quan của tội phạm. Người phạm tội
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã bị luật hình sự cấm với lỗi cố ý hoặc vô
ý; cơ sở của TNHS là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự
quy định, dựa vào đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặt ra vấn đề
TNHS đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm; cơ sở pháp lý của TNHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các
dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng được ghi trong pháp luật hình sự.
1.1.2.2. Điều kiện của trách nhiệm hình sự
Điều kiện của TNHS là căn cứ riêng cần và đủ, có tính chất bắt buộc và
do luật hình sự quy định mà chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng thì một
người mới phải chịu TNHS. Chỉ người nào có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu
TNHS và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật
quy định là tội phạm mới phải chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật
hình sự thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự là: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặctội phạm đặc biệt nghiêm trọng”[5].
1.1.2.3.Trách nhiệm hình sự của các tội phạm về môi trường trong
pháp luật Việt Nam
TNHS đối với các tội phạm về môi trường là TNHS được quy định và áp
dụng đối với các tội phạm về môi trường do BLHS quy định. Trước hết cần
hiểu tội phạm về môi trường là gì.

16



Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực TNHS và độ tuổi chịu
TNHS thực hiện, xâm phạm đến các quan hệ xã hội có liên quan đến việc sử
dụng và bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm an ninh
môi trường [1].
Như vậy, vấn đề khái niệm tội phạm về môi trường và TNHS đối với
tội phạm về môi trường cần được nhận thức và xây dựng dựa vào hai nhóm
tiền đề chính sau đây:
Thứ nhất: Tính nguy hiểm lớn bởi sự tác động của con người. Sự tác
động đó gây ra hậu quả đối với môi trường và có thể phá hoại các điều kiện
sống của con người. Hiện nay, khi sự khủng hoảng môi trường đã nghiêm
trọng, nhiều người vẫn chưa ý thức được đầy đủ về các hành vi (sự xâm hại)
nguy hại đến môi trường với tư cách là loại hành vi phạm tội nguy hiểm. Khi
làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm thay đổi các đặc điểm về
chất của các khách thể tự nhiên, bằng các phương thức khác nhau hủy hoại
nguồn nước, khí quyển, rừng, đất,… gây biến đổi khí hậu, nhiều thảm kịch
về môi trường diễn ra trong những năm gần đây đã hủy hoại nhiều công
trình và giết chết hàng vạn người. Do vậy, việc quy định TNHS đối với các
tội phạm về môi trường là công cụ bảo vệ của xã hội để bảo đảm sự sống
của con người.
Thứ hai: Các cơ sở truy cứu TNHS và thực hiện TNHS phải được
pháp luật hình sự quy định. Các tội phạm về môi trường chỉ là một loại,
một nhóm các tội phạm được Bộ luật hình sự nước ta quy định. Do vậy,
khái niệm mô tả nhóm tội phạm đó phải được hình thành và xây dựng trên
cơ sở cân nhắc các điểm đặc thù của các hành vi có hại về mặt xã hội và
môi trường và đặc điểm chung của tội phạm với tư cách là hành vi bị
trừng trị bằng biện pháp hình sự.

17



Từ những điểm vừa phân tích trên đây, có thể đưa ra một định nghĩa về
TNHS đối với các tội phạm về môi trường như sau: TNHS đối với các tội
phạm về môi trường là hậu quả pháp lý bất lợi do luật định mà một người
phải gánh chịu vì đã thực hiện hành vi tội phạm xâm phạm đến các quan hệ
xã hội có liên quan đến việc sử dụng và bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên
thiên nhiên và việc bảo đảm an ninh môi trường thể hiện trong các biện pháp
mang tính cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng theo trình tự do luật định [1].
Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS"[5].
Sở dĩ người phạm tội phải chịu TNHS trước Nhà nước, vì họ đã có điều
kiện tự do lựa chọn khi hành động phạm tội. Nói cách khác, họ đã có lỗi khi
chọn hành động đi ngược lại với lợi ích xã hội. Để kết luận hành vi đã được
thực hiện của người nào đó có phải là tội phạm không và tội đó là tội gì, hình
phạt áp dụng đối với họ ra sao, cần phải xác định hành vi đó đã thỏa mãn
những dấu hiệu của CTTP cụ thể chưa? Nếu thỏa mãn tức là người ấy đã thực
hiện tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS và người thực hiện hành vi
này phải chịu TNHS (hình phạt). Với tính cách là tổng hợp những dấu hiệu
đặc trưng, cần và đủ được quy định trong luật hình sự cho phép phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác, phân biệt các trường hợp phạm tội trong một
loại tội, CTTP là cơ sở pháp lý của TNHS và một người chỉ có thể phải chịu
TNHS nếu hành vi của họ có đủ những dấu hiệu của CTTP.
Để phân biệt hành vi bị coi là tội phạm với hành vi không bị coi là tội
phạm, Khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Những hành vi tuy
có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nên
không bị coi là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp pháp lý khác” [5].

18



Như vậy, hành vi bị coi là tội phạm phải thỏa mãn 4 dấu hiệu là:
Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự
và tính phải chịu hình phạt. CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có
tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Việc xác định một cách thống nhất CTTP là cơ sở pháp lý của TNHS là nội
dung quan trọng để thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc
tuyên bố người nào đó là phạm tội và buộc họ phải chịu TNHS chỉ có thể
dựa trên cơ sở pháp lý là CTTP mà không thể dựa vào cơ sở nào khác.
CTTP gồm bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội
phạm, mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm. Trong mỗi yếu
tố đó có các dấu hiệu nhất định song các dấu hiệu được mô tả trong CTTP
là những dấu hiệu phản ánh nội dung các yếu tố của tội phạm (khách thể,
chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan). Nhưng không phải tất cả các dấu
hiệu của bốn yếu tố đều được đưa vào CTTP. Những dấu hiệu bắt buộc
phải có trong tất cả các CTTP là: dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách
quan của tội phạm; dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm;
dấu hiệu năng lực TNHS và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm. Nếu
xác định hành vi của một người không có hoặc có không đầy đủ những dấu
hiệu của bất kỳ CTTP cụ thể nào được quy định trong Bộ luật hình sự thì
hành vi đó không thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó
không thể bị buộc phải chịu TNHS.
Như vậy, cơ sở pháp lý của TNHS đối với các tội phạm về môi trường
chính là CTTP của các tội phạm về môi trường; bao gồm: khách thể; mặt khách
quan; chủ thể và mặt chủ quan của các tội phạm về môi trường.
Tổng quan nhất về CTTP của các tội phạm về môi trường cụ thể như sau:
Về mặt khách thể: khách thể loại của các TPMT là tổng thể những quan
hệ xã hội được hình thành trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Khách thể trực

19



×