Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

đề tài: PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ ĐỊA LÍ – BẬC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 14 trang )

Tên đề tài: PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG

GIỜ ĐỊA LÍ – BẬC THCS
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình giáo hiện nay là tập trung vào
phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của
học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập,
sáng tạo, bồi dưỡng hứng thú học tập. Thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học
Địa lí diễn ra vẫn còn chậm chạp, chưa đáp ứng mục tiêu giáo dục: một số GV vẫn
chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, nặng về thông
báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy của học
sinh, hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu.
Có thể nói cách dạy và học Địa lí như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ chất lượng
dạy học, đồng thời hạn chế việc phát triển trí tuệ của HS, từ đó việc dạy và học trở
thành gánh nặng của thầy và trò. Thực tế khi đến giờ học Địa lí có một số học sinh
không thích học, các em chưa thực sự chú tâm, nếu có học thì chỉ để đối phó.
Đứng trước vấn đề trên, bản thân tôi nhiều năm dạy học cũng trăn trở làm sao phải
tìm ra cách vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để phát huy cao độ tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phải gây được sự hứng thú
cho học sinh với phương châm:"Học mà vui, vui mà học”. Đó là lí do tôi chọn đề
tài: “phát huy được tính tích cực của HS trong giờ địa lí bậc THCS”
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
Xuất phát từ định hướng đổi mới: Khoản 2 .Điều 28.Luật Giáo dục quy định:"
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm, vui hứng thú học tập
cho học sinh ".
Đứng trước sự phát triển kinh tế, sự đòi hỏi phải nâng cao năng lực con người theo
hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trên


đường tiến vào thế kỉ 21 bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục,
trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học. Trong thời gian tới bắt
buộc Ngành giáo dục phải đổi mới chương trình SGK, đáp ứng với nhu cầu mới của
Trang : 1


xã hội. Bản thân GV phải thích ứng với điều kiện mới, dạy HS như thế nào để kiến
thức đó đem áp dụng với thực tiễn cuộc sống.
2. Nội dung biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
Để phát huy tính tích cực của HS trong giờ địa lí, với kinh nghiệm nhiều năm giảng
dạy tôi xin mạn phép đưa ra một số nội dung sau:
a.

Trò chơi địa lí:

Trò chơi trong học tập, nếu được chuẩn bị một cách chu đáo sẽ có tác dụng
mở rộng, đào sâu kiến thức trong mỗi bài, mỗi chương của sách giáo khoa. Hơn thế
nữa, nếu được sử dụng một cách hệ thống, với những hình thức phong phú và dựa
trên một nội dung khoa học, trò chơi trong bộ môn này sẽ gây hứng thú cho học
sinh, đưa tới sự ham muốn mở rộng hiểu biết.
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên cần chú ý các nguyên tắc sau:
* Phải phù hợp với trình độ học sinh, nội dung mang tính chất kích thích, thách đố,
thi đua.
* Phải phục vụ trực tiếp cho bài giảng, câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu.
* Sử dụng ngay trong bài giảng hoặc trong khâu kiểm tra bài cũ, chuẩn bị bài mới,
trong quá trình củng cố ôn tập. Cái chính là giáo viên sử dụng nội dung trò chơi nếu
cảm thấy phù hợp với bài, không cần cứng nhắc ở một khâu nào đó.
Ví dụ 1: Ghép mảnh bản đồ: Khi dạy chủ đề 3: “Thiên nhiên và con người các
châu lục – nội dung 2 : thiên nhiên châu Phi “ (Địa lí 7).
Giáo viên sự dụng các mảnh bản đồ cắt rời trên bìa cứng (các mảnh bản đồ

này là lược đồ trống của Châu Phi) cắt làm 4 mảnh bằng nhau, phân phát cho 4
nhóm, Sau đó cử đại diện nhóm lên ghép thành lục địa Châu Phi (trò chơi này nên
sử dụng vào thời gian cuối bài học, HS tham gia vào trò chơi sẽ dễ dàng khắc sâu
kiến thức).

Nhóm 1

Nhóm 2
Trang : 2


Nhóm 3

Nhóm 4

Sau khi các nhóm ghép xong sẽ trở thành 1 lược đồ trống:

Lược đồ trống của châu Phi

Trang : 3


Giáo viên sử dụng lược đồ trống đó để yêu cầu các nhóm lên gắn tên các sông (S1;
S2; S3; S4 ) và tên các vịnh biển, hồ đảo ( A;B;C;D;E ) của Châu phi vào

Lược đồ các sông, hồ, biển chính của châu Phi

Ví dụ2: • Trò chơi đoán ô chữ.
Cho học sinh tham gia chơi sắp xếp chữ theo các ô trống.
Điền tên các nước và khu vực châu Âu vào ô trống sau (mỗi nước và khu vực có 1

câu hỏi tương ứng, sau khi điền xong giáo viên yêu cầu các nhóm đọc tên chìa khóa
của ô trống này).
- Hình ảnh nàng tiên cá quen
- Đây là biểu tượng của nước
thuộc của nước nào?
nào?

Nàng tiên cá (Đan Mạch)
Tháp Ap phen (Pháp)
Trang : 4


- Xử sở bò tót lừng danh ở nước
nào?

- Lễ hội hoa hồng diễn ra ở đâu?

Lễ hội hoa hồng (Bungari)

Đấu bò tót (Tây Ban Nha)

- Rừng cây lá rộng nổi tiếng ở
phía nào của Châu Âu?

Rừng Sồi (Tây Âu)

- Nhãn hiệu đồng hồ của nước
nào nổi tiếng trên toàn thế giới?

Đồng hồ (Thụy Sỹ)


Chìa khóa của ô trống: Châu Âu.
Đ A

N

M Ạ
P
T
B
T
T H

C
H
Â
U
Â
U

H
Á
Y
N
Y
Y

P
B
G

Â
S

A N N H A
A R I
U


- Trò chơi này phù hợp sau khi học xong một châu nào đó, GV đặt những câu hỏi
kết hợp sử dụng hình ảnh để khắc sâu kiến thức cho các em
Trang : 5


- Ví dụ 3: Dùng tranh ảnh động vật: giáo viên sử dụng một số tranh ảnh động
vật (khi nhắc đến tên động vật đó là học sinh phải liên tưởng ngay tới châu nào)
Ví dụ khi dạy đến châu Phi: GV đặt câu hỏi cho
HS: thú vật sống trên mặt đất, ăn cỏ và có chiều
cao lớn nhất trong các loại thú?
(học sinh trả lời được hươu cao cổ, sống ở rừng
Xavan và thảo nguyên Châu Phi)
Hươu cao cổ
Ví dụ khi dạy đến châu Nam Cực: Loài chim
có trọng lượng và thân hình lớn nhất hiện nay
trên mặt đất nhưng không bay được trên không
và có khả năng chạy rất nhanh đó là loài chim
gì? Chúng sống chủ yếu ở châu nào? (học sinh
trả lời : chim cánh cụt ở châu Nam Cực).

Chim cánh cụt (Châu Nam Cực )
- Ví dụ 4: Nhanh tay nhanh mắt.

Mục đích giúp học sinh phát triển tư duy, nhạy bén có trí nhớ tốt.
- Ví dụ khi dạy về chủ đề 2: Địa lí tự nhiên – nội dung 5: Thực Hành Đọc Bản
Đồ Việt Nam (địa lí 8).
- Giáo viên chia lớp 2 nhóm và cả 2 nhóm cùng lên bảng ghi tên khoáng sản trong
vòng 2 phút.
- HS nhóm 1 lên ghi tên khoáng sản. Nhóm 2 ghi nhanh được kí hiệu khoáng sản
và ngược lại.
- Nhóm nào ghi được nhiều tên khoáng sản, kí hiệu khoáng sản đúng thì nhóm đó
thắng, đồng thời có sự hỗ trợ giữa các học sinh trong nhóm.
STT

Kí hiệu khoáng sản

Tên khoáng sản

Chú ý: Trong cuộc chơi, giáo viên sẽ là trọng tài xác nhận những câu trả lời đúng
và chưa đúng, sẽ cho điểm để phân định bên thắng, bên thua (Nếu có thể GV nên
Trang : 6


chuẩn bị những phần quà nho nhỏ để khích lệ tinh thần các em, sẽ phát huy được
tính tích cực một cách hiệu quả).
b.

Phương pháp sắm vai:

Cho các em đóng vai khác nhau, nhằm giúp các em khắc sâu về một vấn đề
bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát. Việc "diễn" không
phải là phần chính mà quan trọng là phần thảo luận sau phần "diễn", phương pháp
này sẽ giúp cho giờ học sinh động, nhẹ nhàng.

Ví dụ: • Khi dạy chủ đề 2 “Địa lí kinh tế - nội dung 9: “Giao thông vận tải và
bưu chính viễn thông” ở địa lí 9. Giáo viên có thể phân 2 vai: Nông nghiệp và giao
thông vận tải, gọi 2 học sinh lên diễn kịch bản (kịch bản này giáo viên đưa cho 2
học sinh ở bài trước, đã có sự chuẩn bị ở nhà).
Học sinh A đóng vai Nông nghiệp, học sinh B đóng vai Giao thông vận tải.
Học sinh A: Kính thưa ngài Kinh tế đáng kính! Thưa toàn thể quí vị. Tôi chính là
anh Nông Nghiệp, một người luôn chịu khó làm ra lương thực thực phẩm cung cấp
cho cuộc sống.
Học sinh B: (từ trong chạy ra): Tôi đây . . . Tôi đây . . . Tôi chính là Giao thông vận
tải, một người rất năng động, hết ăn rồi chạy, hết chạy rồi ăn, chạy tiếp để phục vụ
nhu cầu đi lại cho nhân dân.
Học sinh A: Ủa! Ông mà cũng đòi đi thi cơ à! Người gì mà lười không kể đâu hết
lười, suốt ngày chỉ ăn chơi lêu lổng ngoài đường. . .
Học sinh B: Này! Anh nói gì thế? Anh nói thế chứng tỏ anh chẳng hiểu gì về tôi cả,
kiến thức anh nông cạn quá!.
Học sinh A: Chẳng thế thì không à, người ta làm lụng vất vả, “bán mặt cho đất, bán
nưng cho trời”, còn anh suốt ngày chỉ ăn với chạy, chỉ tổ tốn nhiên liệu và ô nhiễm
môi trường.
Học sinh B: Này nhá, bản thân tôi là 1 ngành rất độc đáo. Sản phẩm của tôi chính là
sự vận chuyển người và hàng hóa. Người ta đánh giá tôi bằng khối lượng vận
chuyển và khối lượng luân chuyển!
Học sinh A: Đấy các bạn xem, anh ta nói như vậy có đúng không? Vai trò và đặc
điểm của anh ta như thế nào? Chúng ta qua nội dung 9

Trang : 7


Khi dùng phương pháp sắm vai nên sử dụng trong thời gian ngắn (2-3 phút),
có thể sử dụng lúc vào bài mới hoặc chuyển tiếp giữa các phần với nhau. Nội dung
tiểu phẩm phải xuất phát từ nội dung bài học, lời thoại phải ngắn gọn, dễ nhớ.

c.

Liên kết các môn học:

Việc liên kết các môn học sẽ tạo ra hứng thú, gây sự chú ý cho học sinh trong
quá trình học bài, phương pháp này nên dùng trong qúa trình dạy bài mới. Trong
các môn học (đặc biệt là âm nhạc) là một môn dễ đi vào lòng người, tạo cho người
nghe cảm giác sâu sắc và ấn tượng về bài hát đó và cao hơn cả qua bài hát đó học
sinh sẽ nhận thức được vùng (miền) mà mình cần học.
Ví dụ 1 : • khi dạy chủ đề 3 : sự phân hóa lãnh thổ - nội dung 1 " Vùng trung du
và miền núi Bắc Bộ " giáo viên cho học sinh nghe bài hát "Qua miền Tây Bắc "
để học sinh liên tưởng đến địa hình và con người của miền. Hoặc giáo viên có thể
liên kết môn lịch sử giới thiệu cho học sinh trận đánh lịch sử Điện Biên Phủ.
"Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa.
Suối sâu đèo cao, bao khó khăn vượt qua.
Bộ đội ta vâng lệnh cha già.
Về đây giải phóng quê nhà.
Đất nước miền Tây Bắc đau thương từ bao lâu dưới
ách loài giặc tàn ác.
Quân với dân một tấm lòng không phân biệt xuôi
ngược
cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù ".
Trích đoạn bài hát "Qua miền Tây Bắc".
của nhạc sĩ Nguyễn Thành, viết năm 1952.
Ví dụ 2: • Khi dạy chủ đề 3: sự phân hóa lãnh thổ - nội dung 2 "Vùng trung du
và miền núi Bắc Bộ "(tiếp theo) Giáo viên liên kết môn giáo dục công dân lớp 6,
bài 3 “Tiết kiệm” giáo dục cho các em tiết kiệm trong quá trình sử dụng năng lượng
(chủ yếu là nguồn than, thủy năng sông suối của vùng).
Ngoài câu đố giáo viên có thể dùng ca dao tục ngữ với địa lí, những câu ca
dao dễ đi vào lòng người, học sinh dễ dàng tiếp thu được kiến thức.

Ví dụ3: • Khi dạy về chủ đề 2: Các thành phần tự nhiên của Trái Đất: nội dung
7 “Thời tiết, khi hậu và nhiệt độ không khí “ (địa 6 ). Chúng ta vận dụng những
loài côn trùng để dự báo thời tiết (đó là loài kiến, chúng dễ dàng thay đổi nếp sống
Trang : 8


khi độ ẩm không khí thay đổi, khi quan sát nếp sống của chúng thay đổi nên dễ
dang quan sát để dự báo thời tiết 1 cách chính xác.

Hay:

“Kiến đen tha trứng lên cao
Thế nào cũng có mưa rào rất to “
“Đường đi kiến đắp thành bờ
Chẳng mưa thì gió còn ngờ vực chi “.

Vận dụng một số kinh nghiệm của người miền Bắc dự báo gió mùa Đông Bắc sắp
về đó là cây tre: “lá tre chồi lộc mùa rét xộc đến “.

Ví dụ 4: • Giáo viên dùng những vần thơ để giới thiệu cảnh đẹp một số địa danh
của nước mình (Thường dùng cho địa lí lớp 8 và lớp 9).
Khi dạy chủ đề 3 : sự phân hóa lãnh thổ - nội dung 9 " Vùng duyên hải Nam
Trung Bộ" Giáo viên dùng bài thơ “ Hỡi mình “ của Xuân Diệu, nhằm ca ngợi vẻ
đẹp của non nước , của mây trời và nghề làm muối của vùng này :
“Hỡi mình, biển đẹp vô ngần,
Sóng xanh như đến dừng chân Sa Huỳnh.

Hỡi mình non nước ta ơi, rỡ ràng;
Hạt muối trắng, tảng đường vàng,
Hỡi mình hạt gạo như nàng tiên thơm. . . “


Hay giới thiệu cảnh đẹp Hà Nội, nội dung 4: “Vùng đồng bằng Sông Hồng “.

HÀ NỘI MÙA VẮNG NHỮNG CƠN MƯA
Trang : 9


(Bùi Thanh Tuấn)
Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa
Cái rét đầu đông giật mình bật khóc
Hoa sữa thôi rơi những chiều tan học
Cổ Ngư xưa lặng lẽ buớc chân buồn
Hoặc khi dạy về chủ đề 4: địa lí địa phương tỉnh Đồng Nai, giáo viên dùng những
câu thơ giới thiệu xứ sở Đồng Nai của một thời muôn ngàn khó khăn đối với người
dân đi khai khẩn, được thể hiện trong câu ca:
“Đồng Nai xứ sở lạ lùng.
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”
Vùng đất rộng người thưa ấy qua một thời được khai khẩn trở thành vùng đất mới
đầy hứa hẹn:
“Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đến đó thời không muốn về”
Từ những câu ca đó Gv giáo dục học sinh lòng tự hào về quê hương Đồng Nai, tự
hào về địa phương mình có căn cứ chiến khu D (căn cứ địa cách mạng ở miền Nam)
d. Câu đố địa lí:
Phương pháp này giáo viên dùng trong thời gian ngắn (khoảng 2phút) khi dạy đến
phần bài có liên quan đến câu đố.
Ví dụ 1: • Khi dạy chủ đề 1: Trái đất – nội dung 3:” Phương hướng trên bản đồ,
kinh độ-vĩ độ và tọa độ địa lí “(địa lí 6) Giáo viên đưa ra câu đố: Từ những địa
điểm nào trên Trái Đất. nếu khởi hành, ta chỉ có thể đi được về một hướng? (giáo
viên dẫn dắt học sinh, để trả lời được đó là điểm cực Bắc của Trái Đất, bất cứ ta đi

hướng nào cũng là hướng Nam, ở Nam Cực thì đều là hướng Bắc ).
Ví dụ 2: Khi dạy chủ đề 3: “Thiên nhiên và con người các châu lục – nội dung
17: “Thiên nhiên Trung và Nam Mĩ “ ở phần khí hậu để kích thích trí tưởng
tượng của học sinh, giáo viên có thể đưa ra câu đố : Hình dáng Nam Mĩ gần như
một hình tam giác nhưng đáy ở trên (Bắc) và đỉnh ở phía dưới (Nam). Nếu ta đảo
ngược lại hình tam giác Nam Mĩ cho đáy ở phía Nam và đỉnh ở phía Bắc thì khí hậu
ở đây sẽ ra sao?. (học sinh suy nghĩ trả lời được khí hậu ở đây giống như Bắc Mĩ,
diện tích khí hậu ôn đới sẽ chiếm phần chủ yếu và một phần rất nhỏ là cận nhiệt
đới ).

Trang : 10
Hình42.1: Lược đồ khí hậu Trung và Nam Mĩ

Lược đồ khí hậu Trung và
Nam Mĩ khi đã thay đổi


e.

Phương pháp tranh luận:

Trong giờ địa lí có một số vấn đề có thể làm xuất hiện 2 (hoặc nhiều) cách
giải quyết khác nhau. GV nêu ra các khả năng giải quyết sau đó đặt câu hỏi chung
cho toàn lớp và lấy ý kiến (bằng cách đưa tay), GV đặt câu hỏi: “Tại sao em chọn
cách này mà không chọn cách khác” để HS tranh luận với nhau. Trong quá trình
tranh luận, GV nên có sự gợi ý hướng các em vào chủ đề chính, sửa chữa kịp thời
các ý kiến thiếu chính xác. Khi tranh luận sẽ làm cho lớp sôi nổi, tạo ra hứng thú và
phát huy tính tích cực của các em.
Ví dụ: Khi dạy chủ đề 2: Địa lí kinh tế - nội dung 4: Sự phát triển và phân bố
Lâm nghiệp thủy sản. Khi dạy đến phần 2: Sự phát triển và phân bố ngành lâm

nghiệp, GV đặt câu hỏi: Để làm giàu vốn rừng theo em cần có những biện pháp gì?
HS trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau: Bảo vệ rừng, sử dụng hợp lí tài nguyên
rừng, trồng rừng. GV tiếp tục hỏi: Em nào ủng hộ biện pháp bảo vệ rừng (đưa tay
phát biểu), ủng hộ biện pháp trồng rừng (đưa tay phát biểu). Sau đó, Gv đặt câu hỏi,
yêu cầu HS có cùng ý kiến trao đổi với nhau và trình bày cho toàn thể lớp nghe
quan điểm của mình: “Tại sao em chọn phương pháp bảo vệ rừng?”, “Tại sao em
chọn phương pháp trồng rừng?” . . . Và dẫn dắt cho HS khẳng định được rằng việc
phát triển mô hình nông – lâm kết hợp đang được phát triển, là biện pháp lâu dài và
bền vững, góp phần bảo vệ rừng, nâng cao đời sống người dân. Kết hợp với sử dụng
tranh ảnh (hay đoạn phim) để tạo hứng thú, HS có thể quan sát rõ ràng những chi
tiết cần mô tả.

Trang : 11


Một mô hình kinh tế trang trại nông – lâm kết hợp.

III. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI.
Trước khi làm đề tài tôi có làm một trắc nghiệm nhỏ với 2 khối lớp 7 (sĩ số
130 em) và khối lớp 8 (sĩ số 135 em), năm học 2014-2015 ở học kì 1. "Em có cảm
thấy thích học môn Địa lí không? "Kết quả thu được đa số học sinh trả lời là không
thích học”.
Sau khi áp dụng đề tài thì kết quả có sự khác biệt, tỉ lệ học sinh thích học môn Địa lí
tăng lên rõ rệt, học sinh hiều bài, nắm được kiến thức, phát triển được tư duy tích
cực sáng tạo của mình.

Trang : 12


IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.

Nội dung đề tài ở trên tôi chỉ nêu một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực
của HS trong giờ địa lí (ngoài ra còn nhiều phương pháp khác nữa). Những kinh
ngiệm này tôi học hỏi từ đồng nghiệp và qua các tài liệu nghiên cứu của một số nhà
xuất bản. Trong một bài dạy, tùy từng trường hợp mà giáo viên có thể áp dụng một
trong những phương pháp này, sao cho phù hợp với nội dung bài, cái chính là kết
quả cuối cùng học sinh hiểu bài mà lại hứng thú với môn học của mình.
Khi sử dụng đề tài này vào bài dạy bản thân tôi thấy tiết dạy nhẹ nhàng, mình
đã truyền thụ được kiến thức nhưng không gây áp lực cho các em.
Đối với các em, trong tiết học đó lớp học sinh động và thân thiện hơn, các em
tìm thấy sự tự tin của mình khi tham gia các trò chơi, giải đáp các câu đố hoặc đóng
vai thành nghệ sĩ . . . Khả năng giao tiếp trước đám đông được tốt hơn, đó là hành
trang kiến thức để sau này bước vào đời giúp các em giao tiếp tốt ngoài xã hội.
Trên thực tế việc áp dụng 1 trong những phương pháp này vào bài dạy (tùy
từng bài mà ta có thể vận dụng) tôi thấy đạt hiệu quả rất cao. Chúng ta có thể vận
dụng xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9, trên cơ sở định hướng đổi mới phương pháp
dạy học, việc áp dụng bất cứ một phương pháp nào đều cần quán triệt quan điểm
phải phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Bên cạnh đó để tiết dạy địa lí đạt hiệu quả thì người giáo viên phải nắm vững
chuyên môn nghiệp vụ, phải nghiên cứu chuẩn bị ở nhà đồng thời khi lên lớp giáo
viên phải chủ động, tích cực hơn mới có thể làm tốt vai trò của người cố vấn, trọng
tài trong quá trình điều khiển hoạt động học tập của học sinh và trên hết phải biết
vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học địa lí.

Trang : 13


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Đổi mới phương pháp dạy học-kiểm tra đánh giá (Nguyễn Hải Châu)-NXB Hà
Nội- 2006.
2. Vở bài tập địa lí 7 (Nguyễn Hữu Danh) NXB-Giáo dục-2004.

3. Sách giáo khoa địa 7 (Nguyễn Dược) NXB-Giáo dục -2009.

Trang : 14



×