Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

báo cáo chuyến đi thực tế tại khu di tích lịch sử đền hùng và cổ loa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 9 trang )

BÁO CÁO THU HOẠCH
CHUYẾN ĐI THỰC TẾ TẠI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ
ĐỀN HÙNG VÀ CỔ LOA
Trong tâm thức của mỗi con dân nước Việt Nam từ bao đời nay, Vua
Hùng là người đã có công dựng nên nước Văn Lang - Nhà nước sơ khai đầu tiên
của dân tộc Việt Nam. Do đó, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương luôn chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh và tình cảm của các thế hệ
con dân nước Việt hàng ngàn năm qua. Tín ngưỡng này vừa thiêng liêng, vừa cụ
thể, nhưng cũng vừa là điểm tựa tinh thần gắn kết, từ đó tạo nên sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc để cùng nhau cố kết cộng đồng trong hành trình dựng
nước và giữ nước.

Hình 1: Lễ hội Đền Hùng

Với những giá trị văn hóa tâm linh, tín ngưỡng được vun đắp qua nhiều
thế hệ, Lễ hội Ðền Hùng từ bao đời đã vượt ra khỏi một lễ hội thông thường, trở
thành điểm tựa tinh thần, sức mạnh tâm linh, điểm hội tụ của tinh thần đại đoàn
kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ý nghĩa tâm linh đó đã vượt ra ngoài
biên giới, là lời hiệu triệu muôn triệu trái tim con dân đất Việt hướng về quê
hương với hai tiếng "đồng bào" thiêng liêng và sâu sắc. Nhiều kiều bào ta ở
nước ngoài tìm về Ðền Hùng dâng hương, xin chân nhang và Đất Tổ đem về thờ
ở nước bạn…
1


Ngày 6-12-2012, tại Paris- Thủ đô nước Cộng hòa Pháp, Tổ chức Văn hóa
- Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã công nhận "Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương ở Phú Thọ" là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân Phú Thọ, mà còn là niềm vui chung
của cả dân tộc Việt Nam.
Lớp Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính tại chức K55 trong thời gian


vừa qua đã chọn khu di tích Đền Hùng và Cổ Loa là nơi thăm quan, nghiên cứu
thực tế. Kết quả đạt được trên các mặt như sau:
1. Lý luận chung về tổ chức tham quan học tập:
Việc tổ chức tham quan học tập đảm bảo đúng chương trình quy định,
được sự cho phép của các cơ quan chức năng. Nội dung chủ yếu của buổi tham
quan là nhằm củng cố kiến thức đã học và bổ sung, tiếp nhận những kiến thức
mới. Đây là dịp để học viên có điều kiện trực tiếp quan sát, tìm hiểu các tài liệu,
hiện vật liên, cụ thể hoá kiến thức một cách chân thực, chính xác.
2. Khu di tích Đền Hùng
Khu di tích lịch sử Đền Hùng nằm trong vùng đất thấp phía Tây Bắc
thành phố Việt Trì. Tổng diện tích tự nhiên trên 1.000ha thuộc phần đất trong
địa giới hành chính của 7 xã: Hy Cương, Chu Hóa, Tiên Kiên, Thanh Đình huyện Lâm Thao; Phù Ninh; Kim Đức và xã Vân Phú - thành phố Việt Trì, tỉnh
Phú Thọ.
Khu vực Đền Hùng nằm trong vùng địa chất biến chất, nâng lên và uốn
nếu với 3 kiểu: địa mạo đồi gò (đá mẹ chủ yếu là đá Gnai), địa mạo đồi gò phù
sa cổ và bậc thềm thung lũng tích lũy. Tương ứng là các kiểu địa hình đồi gò (đá
mẹ là chủ yếu), sau đó đến gò đồi trung bình và thung lũng bồi tích. Đây chính
là tiểu vùng đồi xen ruộng nước.
Khu vực Đền Hùng mang đặc tính chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam,
thuộc khí hậu á nhiệt đới gió mùa. Có hai mùa rõ rệt, mùa nóng và mùa lạnh.
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, thường có mưa chiếm 70 - 80%
lượng mưa cả năm. Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau thường ít
mưa và có gió lạnh. Nhiệt độ: không khí trong bình năm: 23,1oC.
Theo thực tế cấu trúc địa hình tự nhiên khu vực Đền Hùng thì núi Nghĩa
Lĩnh nơi có Đền Hùng cao nhất vùng, xung quanh là những đồi gò san sát. Hình
thế các đồi gò này tựa như một đàn voi quay đầu chầu về núi Nghĩa Lĩnh (Tổ
2


Sơn) (tương truyền có 99 con voi/ núi như thế). Các núi voi đều gắn với truyền

thuyết “Vua Hùng chọn đất đóng đô”. Mà ở đây truyền thuyết (văn hóa phi vật
thể) gắn liền với di tích (văn hóa vật thể)./.
Khu di tích lịch sử đền Hùng gồm có: đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền
Trung, đền Thượng, lăng vua Hùng.
Lăng vua Hùng: Tương truyền là mộ vua Hùng Vương thứ 6. Sau khi
Thánh Dóng đánh giặc Ân bay lên trời, vua Hùng đã hoá ở đây.

Hình 2: Lăng vua Hùng

Ðền Hạ: Từ chân núi Hùng rẽ qua Ðại môn (cổng đền) leo qua 225 bậc
thang xây bằng gạch lên đến đền Hạ và chùa (Thiên Quang tự).

Hình 3: Đền Hạ

Ðền được xây vào thế kỷ 15, tương truyền nơi đây bà Âu Cơ sinh bọc
trăm trứng, nở thành trăm người con. Âu Cơ dẫn 50 người con lên núi, Lạc Long
3


Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con trưởng làm vua hiệu là
Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Trước cửa đền
Hạ có cây thiên tuế, nơi đây chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường về tiếp quản thủ
đô có nói chuyện với chiến sĩ của đại đoàn quân tiên phong "Các vua Hùng đã
có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Ðền Trung: Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc đá nữa là tới đền Trung.

Hình 4: Đền Trung

Tương truyền nơi đây các vua Hùng lập quán xá để nghỉ ngơi và bàn việc
với các lạc hầu. Cũng ở nơi đây hoàng tử Lang Liêu đã dâng bánh chưng, bánh

giầy lên cho vua cha nhân dịp Tết.
Ðền Thượng: Từ đền Trung đi tiếp 102 bậc đá là đến đền Thượng

Hình 5: Đền Thượng
4


Theo truyền thuyết, đây là nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời Đất, Thần Núi
và Thần Lúa. Ðây cũng là nơi Thục Phán sau khi được vua Hùng thứ 18 truyền
ngôi, dựng cột đá thề sẽ trông nom ngôi đền và giữ gìn cơ nghiệp nhà Hùng.
Ðền Giếng: Từ lăng đi xuống, đền ở chân núi phía Ðông Nam. Trong đền
có giếng Ngọc, bốn mùa đầy nước, trong vắt soi gương được. Ðền thờ Ngọc
Hoa và Tiên Dung là con gái yêu của vua Hùng thứ 18 thường hay chải tóc và
soi gương ở giếng này.

Hình 5: Đền Giếng

3. Khu di tích Cổ Loa
Đặc điểm lịch sử: Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam
giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường
bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù
phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và
thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn
phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực
từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại
đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lĩnh vực xã hội.
5



Hình 6: Mô hình thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung.
Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,58 km, vòng trong 1,6 km...
Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất
đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy,
dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ.

Hình 7: Một đoạn thành Cổ Loa
6


Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất,
quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử "
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa
hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn
để xây nên hai bức tường thành phía ngoài. Người xưa lại xây thành bên cạnh
con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung
cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người
Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Về mặt xã hội, với sự
phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ
về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách
khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với
cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa
giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Khu thành Cổ Loa cách trung tâm thủ đô khoảng 18 km, bao gồm một
cụm di tích lịch sử kỷ niệm những năm tháng vinh quang rồi thất bại của vua
Thục Phán với kết cục bi thảm của đôi trai gái huyền thoại đã sống trong lòng
dân suốt 23 thế kỷ qua. Diện tích bảo tồn rộng gần 500ha, thuộc địa phận xã Cổ

Loa, huyện Đông Anh, tp Hà Nội.
Qua cổng thành Trong là đình Cổ Loa. Đình Cổ Loa mới chỉ dựng lại ở
thế kỉ XVIII ở nơi được cho rằng là nơi vua thượng triều.

Hình 8: Sân đình, cây đa và am Mỵ Châu, Cổ Loa

Ngôi đình rất cổ xưa nhưng vẫn giữ được vẻ uy nghiêm bề thế của Hoàng
gia. Nơi đây trưng bày nhiều di tích lịch sử quý báu như tượng An Dương
Vương và mũi tên bằng đồng nổi tiếng.
7


Cách không xa đền thờ An Dương Vương là đền thờ Cao Lỗ. Hẳn không
nhiều người biết đến cái tên này, nhưng Cao Lỗ là một nhân vật quan trọng
trong lịch sử. Ông là một vị tướng tài dưới trướng An Dương Vương, người
sáng tạo ra nỏ liên châu bắn nhiều mũi tên cùng lúc. Ông cũng là người chỉ huy
xây dựng Cổ Loa lịch sử.

Hình 9: Đền thờ Cao Lỗ, Tượng Cao Lỗ - người chế tạo nỏ thần

Trong quần thể khu di tích lịch sử Cổ Loa, đền Thượng (đền Thục Phán
An Dương Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Đền được xây dựng năm
1687 đời vua Lê Hi Tông, đứng trên một quả đồi xưa có cung thất của vua.

Hình 10 : Lớp Trung cấp LLCT-HC K55 chụp ảnh lưu niệm tại Cổng Đền Thượng
(đền Thục Phán An Dương Vương)
8


Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh

xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.

Hình 11: Rồng đá gác cổng đền Cổ Loa

Cổ Loa ngày nay không chỉ đã trở thành một di sản văn hóa, một bằng
chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ
trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm,mà nó còn là một điểm đến lý
tưởng cho các du khách thập phương muốn khám phá những giá trị văn
hóa,những hình ảnh quen thuộc của một làng quê Bắc Bộ thanh bình.
Hằng năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ
hội trang trọng để tưởng nhớ những người đã có công xây thành, nhất là để ghi
ơn An Dương Vương, người khai sinh ra nhà nước phong kiến Âu Lạc.
Trên đây là Báo cáo thu hoạch của chuyến đi nghiên cứu thực tế tại khu di
tích đền Hùng và thành Cổ Loa của lớp Trung cấp lý luận chính trị - Hành chính
tại chức K55 Khoái Châu, rất mong nhận được ý kiến nhận xét, đánh giá của các
thầy (cô).

9



×