Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2006 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.79 KB, 81 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ XUÂN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
GIAI ĐOẠN 2006-2015

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS: Vũ Quang Vinh

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Vũ Quang Vinh đã trực tiếp hƣớng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bản khóa luận này. Em xin trân trọng cảm ơn
các thầy cô giáo khoa Lịch sử trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã cung cấp
các kiến thức tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này
Xin trân trọng cảm ơn cục phòng chống tham nhũng của Thanh tra
Chính phủ đã tạo điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin cho Khóaluận đạt kết
quả tốt.


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đề tài: “Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng
giai đoạn 2006 -2015”là một công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những
số liệu và kết quả trong đề tài là hoàn toàn trung thực. Đề tài chƣa từng
đƣợc công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác.

Hà Nội,ngàythángnăm2016
Tác giả

Nguyễn Thị Xuân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................
ố cục ................................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1........................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG .................................................................................... 8
1.1. Những vấn đề lí luận chung về tham nhũng ................................................. 8
1.2. Tác hại của tham nhũng…………………………………………....…........10
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM VÀ SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ........................................ 27
VỚI CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG ...................................... 27
GIAI ĐOẠN 2006-2015 .................................................................................... 27
2.1. Nhận định của Đảng và Nhà nƣớc về tình hình tham nhũng ở Việt Nam
giai đoạn 2006-2015 ........................................................................................ 27
2.2. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam trong những năm 2006-2015 ......... 32
2.3. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng ......... 41
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................... 52

3.1. Một số nhận xét về công tác phòng chống tham nhũng trong thời gian
qua .................................................................................................................... 52
3.2 Những hạn chế yếu kém và nguyên nhân .................................................. 60
3.3. Một số kinh nghiệm .................................................................................. 63
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

PCTN: Phòng chống tham nhũng
VAT: Thuế giá trị gia tăng


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, tham nhũng đã vƣợt ra khỏi phạm vi
biên giới quốc gia và trở thành vấn đề nhức nhối, đe dọa nghiêm trọng đến
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Hành vi
tham nhũng đƣợc xác định là một trong những nguyên nhân chính tạo ra sự
phản kháng của nhân dân, làm cho bộ máy quyền lực nhà nƣớc bị tha hóa, đời
sống kinh tế- xã hội bị suy thoái; đe dọa tới sự tồn vong của cả một chế độ xã
hội ; làm suy giảm sức chiến đấu của các đảng cầm quyền. Do đó,đấu tranh
chống tham nhũng đƣợc xác định là một trong những tiêu chí hàng đầu để
nắm giữ, củng cố và duy trì quyền lực.
Vấn đề tham nhũng và việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc xem là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng
tâm, đƣợc đặc biệt nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội của Đảng từ rất
sớm. Tham nhũng đã đƣợc Đảng xác định là một trong bốn nguy cơ cản trở

sự phát triển bền vững của đất nƣớc, là nguyên nhân kìm hãm bƣớc tiến của
công cuộc đổi mới, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa an ninh chính trị, kinh tế, xã hội,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng. Do vậy, đấu tranh phòng,
chốngtham nhũng là sự nghiệp của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân, trong đó vai
trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp chung ấy có ý nghĩa chiến lƣợc và
quyết định sự thành bại.
Trải qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra và thực hiện nhiều
chủ trƣơng, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng. xây dựng một bộ
máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X (nhiệm kỳ 2006-2011) của Đảng đã xác định: “Tích cực phòng
ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội,
là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và


2

quản lí trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe
dọa sự sống còn của chế độ”. Tiếp theo, Hội nghị an Chấp hành Trung ƣơng
Đảng lần thứ ba (khóa X) đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về
“Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng , lãng phí”, trong đó xác định: “ Phòng chống tham nhũng, lãng phí là
nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên
tục”, nhằm “ngăn chặn, từng bƣớc đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”.
Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2011-2016) của Đảng một lần nữa khẳng
định: Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài
của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nƣớc.
ên lề Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, nhiều đại biểu nhấn mạnh
tầm quan trọng của phòng, chống tham nhũng và đề nghị cần tăng cƣờng sự
tham gia của cộng đồng xã hội và ngƣời dân để công tác này có hiệu quả cao

hơn trong thời gian tới.
áo cáo của an Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI về các văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã xác định: "Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thƣờng xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy Đảng, trƣớc hết là ngƣời đứng đầu
cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham
nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng
phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can
thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí."
Có thể nói, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc đối với công tác phòng,
chống tham nhũng trong thời gian qua, chúng ta đã tạo đƣợc những chuyển
biến tích cực cả về nhận thức và hành động. Công tác phòng, chống tham


3

nhũng đã đạt đƣợc những kết quả bƣớc đầu quan trọng, nhất là trong xây
dựng thể chế và công tác phòng ngừa. Trong một số lĩnh vực, tham nhũng
từng bƣớc đƣợc kiềm chế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, khi nghiêm túc nhìn nhận,
đánh giá, chúng ta có thể thấy công tác phòng, chống tham nhũng trong thời
gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, quyết
tâm, công tác phòng, chống tham nhũng đã có chuyển biến theo hƣớng tích
cực nhƣng chƣa tạo đƣợc sự chuyển biến có tính cơ bản. Tình hình tham
nhũng hiện nay vẫn ở mức nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều
cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền suy thoái đạo đức, lối sống, với hình thức,thủ đoạn tham
nhũng ngày càng tinh vi, gây bức xúc xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của
những hạn chế, yếu kém đó một phần là do quyết tâm chính trị của Đảng và

Nhà nƣớc chƣa trở thành hành động tự giác của nhiều ngành, nhiều cấp.
Không ít cấp ủy đảng, chính quyền và ngƣời đứng đầu thiếu quyết tâm và
chƣa quan tâm đúng mức tới công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Năng lực và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt, yếu
kém.
Trong bối cảnh hiện nay, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng là vấn đề tất yếu và sống còn của sự
nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện
nay. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam , nhân tố có
ý nghĩa quyết định hàng đầu là có sự lãnh đạo của Đảng, và đấu tranh chống
tham nhũng đƣợc coi là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chỉnh đốn và nâng
cao sức chiến đấu của Đảng và trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Từ nhận thức trên, qua quá trình học tập nghiên cứu, tôi nhận thấy việc
tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác phòng, chống
tham nhũng là thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Do đó tôi đã chọn
đề tài: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chốngtham nhũng giai


4

đoạn 2006-2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công tác phòng,
chống tham nhũng là một trong những nội dung quan trọng của nghiên cứu lý
luận, là một đề tài giành đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, lãnh đạo,
quản lý. Trong những năm qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về công
tác phòng, chống tham nhũng dƣới những phạm vi và cấp độ khác nhau. Đáng
chú ý nhƣ:
Trƣơng Vĩnh Trọng: “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh

cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng , lãng phí”, Tạp chí Cộng sản, số
771(1-2007); Tạp chí

áo cáo viên, số10 tháng 10 năm 2015; Tạp chí

áo

cáo viên, số 01 tháng 01 năm 2016; Trƣơng Tấn Sang: “Phát huy sức mạnh
tổng hợp của hệ thống chính trị và của toàn xã hội, đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí”, Tạp chí Cộng sản số 776(6/2007);
Thanh tra Chính phủ: “Những nghĩa vụ chủ yếu và vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam khi phê chuẩn Công ƣớc của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng”, Đề
tài khoa học cấp ộ (2010); Vũ Quốc Hùng: “Phòng, chống tham nhũng trong
tình hình hiện nay”, Tạp chí xây dựng Đảng, số 9/2007. PGS,TS Nguyễn Thế
Thắng: “ Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhân tố nhân dân và dƣ luận xã hội trong
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng”, Tạp chí Cộng sản, số 789
(7/2008);Nguyễn Thị Hƣơng Giang; “ Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2010;
Nguyễn Thị Thanh Tâm: “Tham nhũng ở Việt Nam và những giải pháp đấu
tranh phòng ngừa”, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2005;Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, “ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới, lịch sử và kinh


5

nghiệm”, Đề tài khoa học cấp bộ tuyển thầu, do TS. Đỗ Xuân Tuất làm chủ
nhiệm đề tài, 2011.
Hầu hết các công trình nêu trên ít nhiều đều có đề cập đến sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng xong

các đề tài nghiên cứu chủ yếu trong thời gian trƣớc năm 2011. Vì vậy khóa
luận đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học đã
công bố có liên quan đến vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài
khóa luận này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về tham nhũng , xuất phát từ thực tiễn lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng thời gian qua, khóa luận làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tham nhũng, từ đó nêu lên một số kinh nghiệm nhằm
nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng hiện nay, góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, bộ máy Nhà nƣớc,
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, khôi phục lòng tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng, tạo điều kiện ổn định để phát triển kinh tế, xã hội
đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay. Làm rõ và hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tham nhũng và công
tác phòng, chống tham nhũng.
Để đạt mục đích trên, khóa luận tập trung:
 Làm rõ những vấn đề cơ bản về tham nhũng nói chung và tình hình
tham nhũng ở Việt Nam nói riêng cũng nhƣ quan điểm của Đảng ta về phòng,
chống tham nhũng.


6

 Đánh giá kết quả đạt đƣợc và những hạn chế cũng nhƣ nguyên nhân
của hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện công tác phòng, chống
tham nhũng.

 Đề xuất một số phƣơng hƣớng giải pháp có tính khả thi nhằm góp
phần đổi mới, tăng cƣờng sự lãnh đạo và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của
Đảng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nƣớc ta trong
giai đoan 2006-2015 và những năm tiếp theo.
3.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn 20062015. Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận tập trung nêu bật những quan
điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng; thực trạng tham nhũng ở Việt
Nam trong giai đoạn 2006-2015; những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những mặt
hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và trong lãnh đạo
của Đảng đối với công tác này nói riêng, từ đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2006 - 2015.
4. Cơ sở lý luận của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng; quan điểm của Đảng
và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng, chống tham nhũng và yêu cầu của việc
tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp chung trong nghiên cứu khoa học,
kết hợp lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp theo các quan điểm Mác –
xít, kết hợp chặt chẽ lịch sử và lôgic, phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích, thống kê, mô tả, tổng hợp,…


7

6. Đóng góp vào lý luận và thực tiễn của luận văn
- Khóa luận hệ thống hóa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của

Đảng, pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2006-2015
một cách có hệ thống.
- Những nhận định, đánh giá nêu lên một số phƣơng hƣớng về sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 20062015 có thể là một căn cứ để xây dựng bộ tiêu chí đánh giá về tham nhũng và
công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu
tham khảo đối với những ngƣời nghiên cứu vấn đề này
7. Kết cấu của khóa luận;
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm Ba
chƣơng và 7 tiết:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về tham nhũng và phòng chống
tham nhũng.
Chƣơng 2: Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn
2006-2015.
Chƣơng 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.


8

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG
VÀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Những vấn đề lí luận chung về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tham nhũng
1.1.1.1 Khái niệm tham nhũng
Theo quan điểm truyền thống tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền
hạn để chiếm đoạt các lợi ích bất chính. Yếu tố quyền hạn trong hành vi tham
nhũng phát sinh trên cơ sở quyền lực nhà nƣớc, gắn chặt với quyền lực nhà
nƣớc. Vì vậy tham nhũng là một hiện tƣợng xã hội gắn liền với sự hình thành

giai cấp và sự ra đời và phát triển của bộ máy nhà nƣớc. Theo Montesquier “
mọi ngƣời có quyền lực đều có xu hƣớng lạm dụng quyền lực đó”.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu nhân dân và lấy của”1.
Tùy thuộc vào chế độ chính trị- pháp lý của mỗi quốc gia mà tham
nhũng đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Ở nhiều nƣớc hoặc trong nhiều
tổ chức pháp lý quốc tế, “tham nhũng” đƣợc quan niệm là hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi trong cả khu vực nhà nƣớc và khu vực
ngoài nhà nƣớc. Tuy nhiên, ở rất nhiều quốc gia, chỉ những hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi của cán bộ, công chức viên chức nhà
nƣớc mới đƣợc coi là “ tham nhũng”.
Công ƣớc Liên hợp quốc về chống tham nhũng không đƣa ra một khái
niệm chung về tham nhũng. Tuy nhiên, Công ƣớc có quy định về các biện
pháp phòng ngừa, cũng nhƣ yêu cầu về hình sự hóa đối với các hành vi tham
nhũng đƣợc thực hiện bởi ngƣời có chức vụ , quyền hạn trong cả khu vực
công và khu vực tƣ.


9

Theo pháp luật Việt Nam, tham nhũng đƣợc coi là một hiện tƣợng tiêu
cực gắn liền với một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, những ngƣời có
chức vụ, quyền hạn trong các đơn vị, cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nƣớc
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi. Luật, Phòng chống tham nhũng quy
định rõ: “Tham nhũng là hành vi của ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”2.
Nhƣ vậy, còn có nhiều cách hiểu khác nhau về tham nhũng, xong cơ
bản “tham nhũng” có thể hiểu chung là một hiện tƣợng gắn liền với quyền lực
và sử dụng quyền lực trong xã hội khi ngƣời nắm giữ đã sử dụng sai quyền
lực đó vì lợi ích của họ hoặc của một nhóm ngƣời có liên quan đến họ.

1.1.1.2 Bản chất của tham nhũng
ản chất của tham nhũng là chủ nghĩa cá nhân là lòng tham của con
ngƣời. Do chủ nghĩa cá nhân, mà kẻ tham nhũng cố ý sử dụng sai lệch quyền
lực công (nhà nƣớc) và quyền lực công cộng (tổ chức, cộng đồng) để trục lợi
bất chính.
Xét dƣới khía cạnh chính trị- pháp lý, có một công thức đƣợc tổng kết
từ nhiều nghiên cứu đã đƣợc công bố là: Tham nhũng = chuyên quyền +tùy
tiện – trách nhiệm giải trình.
Theo công thức này, tham nhũng chính là kết quả hay biểu hiện tất yếu
của một nhà nƣớc, một xã hội mà ở đó quyền lực chính trị không thống nhất
với quyền lực nhà nƣớc và quyền làm chủ của ngƣời dân; quyền lực nhà nƣớc
chỉ tập trung vào tay của một hoặc một nhómngƣời trong xã hôi để phục vụ,
củng cố cho quyền lực chính trị của họ và khi đó, quyền làm chủ của ngƣời
dân cũng không đƣợc coi trọng. Lúc này tính thƣợng tôn của pháp luật trong
các quan hệ xã hội bị đe dọa và pháp luật trở thành phƣơng tiện để bảo vệ lợi
ích cho bộ phận nhỏ của ngƣời nắm quyền trong xã hội. Tựu chung lại, có thể
coi tham nhũng là tác nhân chính gây nên xói mòn lòng tin của ngƣời dân đối


10

với chính quyền và trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của bất cứ chế độ
nếu không đƣợc kiểm soát kịp thời.
Xét dƣới khía cạnh đạo đức, văn hóa, tham nhũng là biểu hiện của sự
tham lam, ích kỷ và vô trách nhiệm của những ngƣời có chức vụ quyền hạn
khi mong muốn tìm kiếm những giá trị vật chất hoặc tinh thần mà đáng lẽ
không thuộc về họ thông qua việc lợi dụng chức quyền đƣợc giao. Đồng thời
tham nhũng còn thể hiện sự dung túng, bao che cho những giá trị lệch chuẩn,
trái với thuần phong, mỹ tục và giá trị đạo đức truyền thống.
Xét dƣới khía cạnh xã hội, tham nhũng là hành vi đi ngƣợc lại lợi ích

xã hội và cộng đồng khi ngƣời có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình vì lợi ích cá nhân của mình hoặc ngƣời thân của mình;
làm gia tăng sâu sắc thêm khoảng cách giàu nghèo, sự bất công và những
xung đột trong xã hội.
1.1.2. Quan điểmcủa Đảng Nhà nƣớc ta về phòng chống tham nhũng
Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự
lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Từ trƣớc đến nay, Đảng và Nhà
nƣớc luôn coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng và trong quá trình đấu
tranh phòng, chống tham nhũng Đảng đã xác định đƣợc một hệ quan điểm về
phòng, chống tham nhũng. Tạo cơ sở, định hƣớng để thể chế hóa thành Pháp
luật của Nhà nƣớc, nhằm phòng ngừa, phát hiện và sử lý tội phạm tham
nhũng hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (nhiệm kỳ 2006-2011) của Đảng
đã xác định: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng, nhằm phục
một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Đại hội X đã
đề ra những định hƣớng và chủ trƣơng lớn cho công tác phòng chống tham
nhũng , lãng phí”, trong đó xác định: “ Phòng chống tham nhũng, lãng phí là


11

nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp thƣờng
xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”.
Tiếp theo, Hội nghị an Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ ba (khóa
X) đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về “Tăng cƣờng sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng , lãng phí”, trong đó xác
định: “ Phòng chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu
dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục”, nhằm “ngăn chặn, từng bƣớc
đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhiệm kỳ (2011-2016)
Đảng ta khẳng định:Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế
và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ tham nhũng, lãng phí tập trung các
lĩnh vực dễ sảy ra tham nhũng, lãng phí”.
Tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị, quan điểm, đƣờng lối về
phòng, chống tham nhũng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4

an chấp hành

Trung ƣơng Đảng (khóa XI) về: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” xác định: “ Tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét sử để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí…Kiện toàn và tăng cƣờng trách nhiệm, nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét sử nghiêm vụ án tham
nhũng, trƣớc hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp đƣợc nhân dân quan
tâm”.
Báo cáo của an Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI về các văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã xác định: "Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thƣờng xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy Đảng, trƣớc hết là ngƣời đứng đầu
cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham


12

nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng
phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can
thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.

Có thể nói quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về phòng, chống tham
nhũng đƣợc thể hiện ở nhiều văn kiện khác nhau của Đảng qua các nhiệm kỳ,
nhƣng tựu chung lại chúng đều nhất quán thể hiện lại các quan điểm lớn sau
đây:
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với ổn định kinh tế- xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chíng trị, tăng cƣờng đoàn
kết toàn dân.
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cƣờng đoàn kết nội bộ.
- Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí.
- Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây, phòng và chống,
vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lí nghiêm mọi hành vi tham nhũng
- Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng một cách chủ động, huy động
và phối hợp chặt chẽ mọi lực lƣợng đấu tranh chống tham nhũng ở mọi cấp,
mọi nghành.
- Đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành kiên
quyết, kiên trì và thận trọng, khôngnóng vội, không chủ quan; phải có kế
hoạch cụ thể, có bƣớc đi vững chắc; sử dụng nhiều biện pháp, trong đó lấy
giáo dục làm cơ sở, lấy pháp chế làm đảm bảo.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tham nhũng và phòng chống tham
nhũng
Về vai trò, ý nghĩa của công tác chống tham nhũng
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng, chống tham ô, lãng phí là cách
mạng, là dân chủ.


13

Sự nghiệp cách mạng do toàn thể hệ thống chính trị, toàn thể quần
chúng nhân dân tiến hành, dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến,
xây dựng đất nƣớc tiến lên xã hội chủ nghĩa là nội dung, mục tiêu của cách
mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: "tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa
của xã hội cũ", tham ô là đặc trƣng, gắn liền với thực dân, phong kiến. Đấu
tranh chống thực dân, phong kiến, xây dựng xã hội mới phải bao hàm cả đấu
tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Cách mạng không thể thành công
hoàn toàn nếu vẫn còn tham ô, lãng phí. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí là
một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của cách mạng.
Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân. Quyền lực thuộc về
nhân dân. Tất cả tài sản là của nhân dân. Nhân dân đóng góp mồ hôi xƣơng
máu, tiền của cho công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nƣớc. Vì vậy, bảo vệ
tài sản công, chống tham ô, lãng phí là bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ
quyền dân chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "phong trào chống tham ô,
lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công.
Dân chủ tức là nhân dân làm chủ. Cán bộ là ngƣời đƣợc giao quản lý tài sản
để thực hiện các nhiệm vụ do nhân dân giao phó. Vì vậy, nhân dân có quyền
và nghĩa vụ giám sát, phê bình cán bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện quan
liêu, tham ô, lãng phí. Sự tham gia của quần chúng quyết định sự thành công
của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí. Quần chúng tham gia
tích cực, đông đảo thì cuộc đấu tranh càng mang lại hiệu quả cao. Hồ Chí
Minh khẳng định: "Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ,
mau chóng".
b) Quan điểm chỉ đạo công tác phòng, chống tham ô, lãng phí
Công tác chống tham ô, lãng phí rất quan trọng, cần phải đƣợc tất cả
các cấp, các ngành quan tâm và tiến hành thƣờng xuyên. Cũng nhƣ các mặt
trận khác, muốn giành thắng lợi trên mặt trận chống tham ô, lãng phí, chúng


14


ta phải nắm đƣợc quan điểm chỉ đạo cuộc đấu tranh trên mặt trận đó. Hồ Chí
Minh nêu rõ: “phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và
trung kiên”. Đấu tranh chống tham ô, lãng phí cần phải bằng hệ thống các
biện pháp đồng bộ, cả trƣớc mắt và lâu dài, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”. Cùng với việc xây dựng cơ chế phòng, chống, tấn công tham ô, lãng
phí trên tất cả các lĩnh vực, cần xác định và tập trung vào các lĩnh vực trọng
tâm. Yếu tố quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng, chống tham ô, lãng phí chính là công tác lãnh đạo. Sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của Đảng, thông qua các chủ trƣơng, chính sách mang tính
chỉ đạo, thông qua các cấp uỷ đảng quyết định sự thành bại của cuộc đấu
tranh chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền,
giáo dục và cƣỡng chế, trong đó lấy tuyên truyền, giáo dục là nền tảng, cơ sở.
Ngƣời nói: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là
chính, trừng phạt là phụ”. Việc tuyên truyền, giáo dục cần đƣợc đặc biệt coi
trọng, làm sao để cán bộ hiểu đƣợc sự nguy hại, xấu xa của tham ô, lãng phí,
từ đó có các hành động tích cực nhằm phòng, chống. Đồng thời, công tác
tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gƣơng tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng
phí, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Nhƣng khi
cần thiết, đối với những ngƣời đã suy thoái về đạo đức, không chịu rèn luyện,
cố tình tƣ lợi, chiếm đoạt tài sản của nhà nƣớc, của nhân dân, phá hoại sự
nghiệp cách mạng, phải bị xử lý nghiêm khắc để bảo vệ sự nghiêm minh của
pháp luật và để răn đe, làm gƣơng cho những ngƣời khác.
c) Các biện pháp phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc sự nguy hiểm, tìm ra bản chất, nguyên
nhân của tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh đã nêu ra hàng loạt biện
pháp nhằm đấu tranh phòng, chống. Trong các biện pháp phòng, chống tham
ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng biện pháp giáo dục tƣ



15

tƣởng cho quần chúng. Ngƣời nói: “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô,
lãng phí, quan liêu; biến hàng trăm, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của
quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho
tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”. Quần chúng là lực lƣợng chính
của cách mạng, sự tham gia tích cực của quần chúng quyết định sự thành bại
của cách mạng. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu, quần chúng nhân dân giám sát cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện sai
phạm, phê bình, lên án các biểu hiện tiêu cực của cán bộ. Sự giám sát chặt chẽ
của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nƣớc, thông qua các
hình thức khác nhau là một cơ chế ngăn ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu.
Đồng thời, các phản ánh, kiến nghị kịp thời của nhân dân qua công tác giám
sát sẽ giúp các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền sớm phát hiện các hành vi
tham ô, lãng phí, từ đó có các biện pháp xử lý phù hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời khởi xƣớng, phát động, chỉ đạo và
hƣớng dẫn phong trào phê bình và tự phê bình trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Ngƣời chỉ đạo: "bộ đội, cơ quan, đoàn thể và nhân dân phải tổ chức một
phong trào thật thà tự phê bình và phê bình từ cấp trên xuống, từ cấp dƣới
lên. Trong phong trào này, mỗi cán bộ, Đảng viên phải luôn ý thức tự phê
bình và phê bình, không phải để đả kích nhau, mà để cùng nhau nhận thức các
sai lầm, khuyết điểm, cùng bàn cách khắc phục, sửa chữa, để thực hiện chức
trách, công vụ tốt hơn. Ngƣời nêu các bƣớc thực hiện tự phê bình và phê bình.
Trƣớc hết, tự phê bình và phê bình ở các "tiểu tổ". Sau đó, cơ quan triển khai
kiểm thảo chung. Phê bình và tự phê bình phải tiến hành từ trên xuống, từ
dƣới lên, phải làm thƣờng xuyên, liên tục, phải có báo cáo, điều tra, hƣớng
dẫn việc kiểm thảo. Sau khi công khai, thật thà tự phê bình và phê bình, cán
bộ, đảng viên phải kiên quyết sửa đổi những sai lầm, khuyết điểm.
Hồ Chí Minh coi các biện pháp về tƣ tƣởng nhƣ giáo dục, thuyết phục,
các biện pháp phòng ngừa là nền tảng trong cuộc đấu tranh chống tham ô,



16

lãng phí, quan liêu. Đồng thời, Ngƣời luôn nhấn mạnh việc nghiêm trị các
hành vi tham ô, lãng phí. Việc xử lý nghiêm khắc hành vi tham ô, lãng phí
phải đúng các quy định của pháp luật, không đƣợc nể nang ngƣời có chức vụ,
địa vị, với mục đích bảo vệ công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật,
răn đe, làm gƣơng cho những ngƣời đang hoặc có ý định tham ô. Ngƣời chỉ
thị: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị
nào, làm nghề nghiệp gì”. Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trƣởng Cục Quân nhu,
vốn là ngƣời có công với cách mạng, nhƣng đã có hành động tham ô tài sản
của Nhà nƣớc. Toà án kết án Trần Dụ Châu tử hình. Gia đình Trần Dụ Châu
đã làm đơn gửi Hồ Chí Minh xin đƣợc ân giảm. Nhƣng Hồ Chí Minh bác đơn
xin ân giảm đó. Và hình phạt đã đƣợc thi hành. Đây chính là sự thể hiện sinh
động, cụ thể, rõ nét quan điểm, sự nghiêm khắc của ác đối với hành vi tham
ô, lãng phí.
d) Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí
Trong công cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan
liêu, các cơ quan thanh tra nhà nƣớc đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh
huấn thị: “các ban thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô. Phát
hiện ra những việc lãng phí, tham ô, chẳng những cần báo cáo với Trung
ƣơng và Chính phủ giải quyết mà còn phải giúp các cấp lãnh đạo địa phƣơng
tìm ra đƣợc những biện pháp để tích cực chống lãng phí, tham ô”.
Nhƣ vậy, thanh tra, kiểm tra không những để phát hiện vi phạm, phát
hiện tham ô, lãng phí để xử lý. Quan trọng hơn, qua kiểm tra, các cơ quan
thanh tra nhà nƣớc tìm hiểu nguyên nhân tham ô, lãng phí, từ đó, kiến nghị
với các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, với bản thân các cơ quan là đối
tƣợng thanh tra, kiểm tra để có các giải pháp hữu hiệu nhằm chống tham ô,

lãng phí có hiệu quả.


17

Quan liêu là nguyên nhân, nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy,
các cơ quan thanh tra nhà nƣớc chẳng những kiểm tra chống lãng phí, tham ô
mà còn phải chống quan liêu để giúp các cơ quan Nhà nƣớc đổi mới công tác,
giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nƣớc.
Để thực hiện tốt, có hiệu quả nhiệm vụ của mình, cơ quan thanh tra nhà
nƣớc phải tự chống tham ô, lãng phí, bệnh quan liêu trong nội bộ cơ quan
mình trƣớc. Hồ Chí Minh yêu cầu ngƣời cán bộ thanh tra phải tự mình
nghiêm chỉnh, phải có đạo đức cách mạng, tự mình phải gƣơng mẫu cho
ngƣời khác. Ngƣời chỉ thị rõ ràng: “phái anh tham ô đi thanh tra tham ô thì
không đƣợc, phái ngƣời lƣời đi thanh tra công việc ngƣời khác cũng không
đƣợc”. Ngƣời cán bộ thanh tra khi đi thanh tra chống quan liêu thì trƣớc hết
bản thân mình không đƣợc quan liêu. Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn
hiểu rõ sự thật ở cơ quan, ở địa phƣơng nào đấy phải đến tận nơi, nghe ngóng,
tìm hiểu, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm đƣợc nhiệm vụ.
1.1.4. Các dạng biểu hiện của tham nhũng
Theo quy định của Luật phòng chống tham nhũng và ộ luật Hình
sự Việt Nam, tham nhũng biểu hiện dƣới 12 nhóm hành vi:
a) Tham ô tài sản- là việc ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
b) Nhận hối lộ- là việc ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian hoặc sẽ nhận một lợi ích bất chính
dƣới bất kì hình thức nào để làm hoặc không làm vì một việc vì lợi ích hoặc
theo yêu cầu của ngƣời đƣa hố lộ.
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản- là việc ngƣời có
chức vụ, quyền hạn đã lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó để chiếm đoạt tài sản

của ngƣời khác.
d) Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi- là việc ngƣời có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác


18

mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của
nhà nƣớc, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
e) Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi- là việc
ngƣời có chứac vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vƣợt
quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà
nƣớc, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
f) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi- là việc ngƣời có chứac vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó,
trực tiếp hặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận một lợi ích không chính
đáng ( lợi ích vật chất, hoặc tinh thần) để dùng ảnh hƣởng của mình thúc đẩy
ngƣời có chức vụ, quyền hạn làm
1.1.5. Các dấu hiệu của hành vi của tham nhũng
Theo Luật phòng chống tham nhũng , tham nhũng là hành vi của
ngƣời có chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Căn cứ vào quy định này, hành vi
thamnhũng có một số dấu hiệu chung nhƣ sau:
a) Là hành vi trái pháp luật:
Tính trái pháp luật của hành vi đƣợc thể hiện qua việc xâm phạm hoạt
động đúng đắn của các cơ quan tổ chức đơn vị trong bộ máy nhà nƣớc dƣới
các hình thức nhƣ: chiếm đoạt tài sản của nhà nƣớc, của cá nhân hoặc các chủ
thể khác nhau; làm hoặc không làm một việc trong khi thi hành công vụ; làm
trái công vụ; dùng ảnh hƣởng tác động trái pháp luật đến ngƣời có chức vụ
quyền hạn; giả mạo giấy tờ, tài liệu, chữ kí của ngƣời hoặc cơ quan có thẩm
quyền; nhũng nhiễu đối với ngƣời dân, doanh nghiệp; đƣa hối lộ và làm trung

gian môi giới hối lộ,…
Do người có chức vụ quyền hạn trong khu vực công thực hiện:
Dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ thể của hành vi thamnhũng là ngƣời có
chức vụ quyền hạn trong các cơ quan tổ chức đơn vị thuộc khu vực nhà nƣớc
thực hiện. Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngƣời có chức vụ quyền


19

hạn đƣợc hiểu là những ngƣời đƣợc bổ nhiệm do bầu cử, do hợp đồng hoặc
do một hình thức khác, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc, đƣợc giao thực hiện một công việc nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực thi công vụ, bao gồm: Cán bộ công chức viên chức
nhà nƣớc; sĩ quan , quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân: sĩ quan, hại sĩ quann ghiệp vụ, sĩ quan
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân: cán bộ lãnh đạo, quản lí trong doanh nghiệp của nhà nƣớc; cán bộ klãnh
đạo, quản lí là ngƣời đại diện phần vốn của nhà nƣớc tại doanhnghiệp; ngƣời
đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ đó.
Ngoài ra “ cơ quan, tổ chức, đơn vị” đƣợc hiểu là bao gồm cơ quan nhà
nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị vũ trangnhân dân, đơn
vị sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nƣớc và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có
sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nƣớc.
b) Là hành vi thực hiện một cách cố ý:
iểu hiện cụ thể về mặt nhận thức của ngƣời thực hiện hành vi tham
nhũng là biết hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình là hành vi trái
pháp luật và nhận thức đƣợc về hậu quả của hành vi là xâm phạm đến hoạt
động đúng đắn của các cơ quan tổ chức đơn vị, có thể gây thiệt hại cho nhà
nƣớc và các cá nhân, tổ chức khác, nhƣng họ vẫn quyết tâm thực hiện. Trong

các hành vi tham nhũng, chủ thể đều chủ động thực hiện và theo đuổi việc
thực hiện hành vi nhằm có đƣợc lợi ích một cách bất chính.

d)Người thực hiện hành vi thamnhũng xuất phát từ động cơ vụ lợi:
Động cơ vụ lợi đƣợc hiểu là mong muốn có đƣợc một lợi ích vật chất
hoặc tinh thần ( gọi chung là lợi ích bất chính) thông qua hành vi tham nhũng


20

cho bản thân ngƣời thực hiện hành vi hoặc cho các nhân hoặc tổ chức khác.
Lợi ích vật chất bao gồm vật ( động sản và bất động sản), tiền , các loại giấy
tờ có giá và các quyền tài sản khác. Lợi ích tinh thần bao gồm tất cả lợi ích
khác mà không định giá đƣợc bằng tiền, nhƣ xin việc cho những ngƣời thân
của ngƣời có chức vụ, quyền hạn; hoặc thu xếp cho ngƣời có chức vụ, quyền
hạn vào các vị trí quản lí hoặc thành viên của các tổ chức đơn vị, các hiệp hội
mà từ đó có thể hƣớng các lọi ích vật chất; tổ chức các sự kiện nghỉ ngơi, giải
trí có sự tham gia của ngƣời có chức vụ, quyền hạn…Trong nhều trƣờng hợp
vụ lợi không xuất phát từ lợi ích của chính bản thân ngƣời thực hiện hành vi
tham nhũng, mà có thể cho cả cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi ngƣời đó công tác
hoặc có quan hệ , nhƣ ngƣời có chức vụ, quyền hạn có thể ép buộc doanh
nghiệp tài trợ cho một trƣờng học mà con ngƣời đó đang theo học hoặc cho
một bệnh viện mà gia đình ngƣời đó thƣờng xuyên khám bệnh…
1.2. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của
tham nhũng ở những điểm chính sau:
Công ƣớc Liên hiệp quốc về chống tham nhũng cho rằng tính nghiêm
trọng của các vấn đề do tham nhũng gây ra có thể đe dọa sự ổn định an ninh,
chính trị xã hội, xâm hại đến các giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý,

cản trở sự phát triển bền vững và nguyên tắc nhà nƣớc pháp quyền. Tham
nhũng còn liên kết với các tội phạm khác, đặc biệt là tội phạm có tổ chức, tội
phạm kinh tế, tẩy rửa tiền; làm thất thoát và sử dụng sai trái một phần quan
trọng nguồn lực các quốc gia, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ổn định chính trị
và phát triển bền vững các nƣớc đó. Ngoài ra tham nhũng hiện nay đã trở
thành hiện tƣợng vƣợt ra ngoài biên giới quốc gia, ảnh hƣởng đến mọi xã hội
và mọi nền kinh tế. Liên hợp quốc, trong bộ công cụ chống tham nhũng còn
cho rằng: Tham nhũng còn có khuynh hƣớng tập trung của cải, làm tăng


×