ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------
NGUYỄN HỒNG NGỌ
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------
NGUYỄN HỒNG NGỌ
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành
Mã số
: Luật Kinh tế
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Ngô Huy Cương. Các kết quả trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan
Nguyễn Hồng Ngọ
1
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3
Chƣơng 1. LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN ............................................................................................................ 9
1.1.
Tổng quát về quản trị ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ngân hàng thương mại cổ phần ........................... 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị ngân hàng thương mại cổ phần ... 12
1.2.
Thành viên hội đồng quản trị độc lập và vai trò của thành viên hội đồng
quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 18
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thành viên hội đồng quản trị độc lập................ 18
1.2.2. Vai trò của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng
thương mại cổ phần ................................................................................. 22
1.3.
Khái niệm quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
trong ngân hàng thương mại cổ phần ...................................................... 28
Chƣơng 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM ............................... 28
2.1.
Khái quát chung về cơ sở pháp lý và sự xuất hiện của thành viên độc
lập trong ngân hàng thương mại cổ phần .......................................... 28
2.1.1. Cơ sở pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân
hàng thương mại cổ phần ....................................................................... 28
2.1.2. Sự xuất hiện của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân
hàng thương mại cổ phần ....................................................................... 31
2.2.
Điều kiện của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng
thương mại cổ phần ........................................................................... 34
2.2.1. Tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên hội đồng quản trị độc lập . 34
2.2.2. Bầu thành viên hội đồng quản trị độc lập ............................................. 43
2.2.3. Số lượng thành viên hội đồng quản trị độc lập .................................... 47
2.2.4. Nhiệm kỳ của thành viên hội đồng quản trị độc lập ........................... 49
2.3.
Quyền và nghĩa vụ của thành viên hội đồng quản trị độc lập ........... 52
2.4.
Thù lao của thành viên hội đồng quản trị độc lập ............................. 60
2.5.
Chấm dứt tư cách thành viên hội đồng quản trị độc lập ................... 64
2.6.
Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển quản trị ngân hàng thương mại
cổ phần .............................................................................................. 67
Chƣơng 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG Ở VIỆT NAM ................................................................................ 72
3.1.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện quy chế pháp lý của
thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam ............................................................................... 72
3.2.
Giải pháp hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản
trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần và nâng cao hiệu quả
áp dụng ở Việt Nam .......................................................................... 75
3.2.1. Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tổ chức và
hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần .................................. 75
3.2.2. Điều chỉnh, bổ sung những quy định pháp luật đặc thù về thành viên
hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần ...... 77
3.2.3. Các giải pháp bổ trợ .......................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 95
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu viết tắt
Từ viết tắt
1.
BKS
Ban kiểm soát
2.
CTCP
Công ty cổ phần
3.
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
4.
HĐQT
Hội đồng quản trị
5.
LDN
Luật Doanh nghiệp
6.
NHNN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
7.
NHTM
Ngân hàng thương mại
8.
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
9.
QTCT
Quản trị công ty
10.
TCTD
Tổ chức tín dụng
11.
TGĐ/GĐ
Tổng Giám đốc/Giám đốc
1
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1.
Bảng 1: Thống kê sự hiện diện lần đầu tiên của thành viên
HĐQT độc lập trong các NHTMCP đã niêm yết
31-32
2.
Bảng 2: Thống kê sự hiện diện lần đầu tiên của thành viên
HĐQT độc lập trong các NHTMCP chưa niêm yết
32-33
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với những quốc gia đang xây dựng nền kinh tế thị trường như ở Việt
Nam hiện nay, việc cải thiện và tăng cường chất lượng quản trị công ty (QTCT)
đóng vai trò rất quan trọng. QTCT tốt sẽ giảm thiểu khả năng tổn thương đối với
nền kinh tế trước các cuộc khủng hoảng tài chính, củng cố quyền sở hữu, giảm
chi phí giao dịch và chi phí vốn, dẫn đến việc phát triển thị trường vốn, thị
trường chứng khoán [15, tr1]. Nâng cao hiệu quả QTCT đồng nghĩa với việc góp
phần vào sự phát triển ổn định, bền vững do cải thiện được hoạt động và nâng
cao khả năng tiếp cận được các nguồn vốn từ bên ngoài của các công ty. Ngược
lại, một khuôn khổ QTCT yếu kém sẽ làm giảm độ tin tưởng của các nhà đầu tư,
không đón nhận được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, giảm giá trị kinh tế của
công ty và có thể dẫn tới các nguy cơ bị phá sản hoặc thôn tính, sáp nhập công ty,
điều này sẽ làm tăng rủi ro đối với nền kinh tế quốc dân.
Các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng với đặc thù là các tổ chức
kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị
lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam,
khi ngân hàng là đóng vai trò là kênh cấp vốn bên ngoài chủ yếu, cực kỳ quan
trọng đối với các doanh nghiệp. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không
chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định
mang tính dây chuyền trong hệ thống và ngược lại, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ
trợ cho khu vực doanh nghiệp sẽ càng lớn.
Thời gian qua, QTCT trong các NHTMCP ở Việt Nam đang bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là: nhiều ngân hàng yếu kém phải tổ chức
lại (hợp nhất, sáp nhập); tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức cao, nợ có khả năng mất vốn
chiếm tỷ trọng lớn; lãnh đạo của một số ngân hàng bị khởi tố, xét xử trong các vụ
án hình sự liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật khi tham gia quản trị,
3
điều hành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng
này là do sự yếu kém trong quản trị, điều hành ngân hàng.
Các thông lệ quốc tế tốt về QTCT và các chuyên gia tài chính quốc tế đều
nhấn mạnh đến vai trò của thành viên HĐQT độc lập như là một giải pháp quan
trọng để cải thiện, nâng cao chất lượng QTCT trong các NHTMCP nói riêng và
các CTCP nói chung. Thành viên HĐQT độc lập cũng được cho là chìa khóa giải
quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Bởi thành viên HĐQT
độc lập tạo được đối trọng với các cổ đông lớn ở HĐQT, bảo vệ lợi ích chung
cũng như lợi ích của cổ đông thiểu số; họ mang đến góc nhìn từ bên ngoài về
chiến lược kiểm soát, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người
quản lý, điều hành công ty. Do đó, luật về QTCT của các quốc gia cũng như
những quy định của các thị trường niêm yết thường yêu cầu trong cơ cấu HĐQT
công ty phải có sự tham gia của các thành viên HĐQT độc lập.
Ở Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 và các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành có liên quan đã quy định về sự tham gia của thành viên HĐQT độc
lập trong cơ cấu HĐQT của các NHTMCP. Tuy nhiên, các quy định pháp luật
trong các văn bản này về thành viên HĐQT độc lập còn tương đối đơn giản, sơ
sài và không bao quát được hết các nội dung để thiết lập nên một quy chế pháp lý
đầy đủ đối với chủ thể này. Bên cạnh đó, sự khác biệt của thành viên độc lập so
với các thành viên HĐQT khác cũng không được thể hiện nhiều thông qua các
quy định pháp luật hiện nay.
Tại các NHTMCP, các văn bản quy định, quy chế quản trị nội bộ cũng
như thực tiễn triển khai hoạt động chưa cho thấy được vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của thành viên HĐQT độc lập. Thông qua các thông tin, báo cáo được các
NHTMCP công bố rất khó có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động của thành
viên HĐQT độc lập đối với chất lượng, hiệu quả quản trị của các NHTMCP.
Thực trạng trên chủ yếu xuất phát từ nhận thức chưa đúng đắn, chưa đầy
đủ về vai trò của thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP, dẫn đến sự quan
tâm chưa đúng mức, đặc biệt là trong việc thiết lập quy chế pháp lý của thành
4
viên này. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến vai trò mờ nhạt của các thành
viên HĐQT độc lập trong thực tiễn hoạt động của NHTMCP hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các NHTMCP nói riêng, đang
“vươn mình” ra sân chơi quốc tế – nơi mà những yêu cầu về QTCT dường như là
một yêu cầu bắt buộc. Chính vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý về QTCT nói
chung và hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong
NHTMCP nói riêng là yêu cầu cấp thiết hiện nay ở Việt Nam.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Quy chế pháp lý của thành viên HĐQT trong
NHTMCP ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề quản trị công ty đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Các hướng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quản trị công
ty cổ phần, như các công trình sau: “So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp
của một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn
thiện pháp luật công ty ở Việt Nam” – Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia do PGS.TS
Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), năm 2004, Mã số: QG.04.23; “Quản trị công ty:
Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận nguồn vốn thị trường toàn cầu” – sách
do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ; cuốn “Cẩm nang quản trị công ty” được
phối hợp xuất bản năm 2010 bởi Tổ chức Tài chính Quốc tế và Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước là một hoạt động của Dự án Quản trị công ty tại Việt Nam do
IFC triển khai từ năm 2008… Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu có đề
cập đến quản trị công ty như: “Nghiên cứu so sánh quản lý CTCP theo pháp luật
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, Luận
văn tiến sĩ luật học của Ngô Viễn Phú, năm 2004; “Tổ chức quản lý nội bộ CTCP
– Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Kim
Trinh, năm 2004; “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong CTCP theo pháp luật Việt
Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Bùi
Minh Nguyệt, năm 2010.
5
QTCT trong các NHTMCP là vấn đề tương đối mới mẻ, thực tế những
công trình nghiên cứu, những bài viết về vấn đề này còn rất ít. Ngoài một số bài
báo đề cập hoặc nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề quản trị, điều hành trong
NHTMCP và các công trình nghiên cứu về quản trị trong CTCP như kể trên, thì
các công trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề quản trị cho NHTMCP vẫn chưa
nhiều. Năm 2009 có công trình: “Pháp luật về quản trị NHTMCP ở Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Phong Thủy. Gần đây nhất, năm 2015,
có công trình “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam” – Luận
văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Anh.
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về thành viên HĐQT
độc lập trong NHTMCP ở Việt Nam. Đây là một vấn đề còn tương đối mới mẻ,
những nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này chủ yếu là những bài báo, bình
luận ngắn về thành viên HĐQT độc lập trong các CTCP, như: “Thành viên Hội
đồng quản trị độc lập – Quy định và thực tiễn” của tác giả Lê Hoàng Tùng trên
Tạp chí Quản lý số 68, tháng 02 năm 2009; “Thành viên độc lập – Anh là ai?”
của tác giả Đặng Thị Hải Lý trên Thời báo kinh tế Sài gòn số 20, ra ngày 13
tháng 05 năm 2010; “Để hiểu thêm về thành viên độc lập” của tác giả Nguyễn
Hữu Long trên Thời báo kinh tế Sài gòn, số ra ngày 24 tháng 05 năm 2010.
Trước yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty trong các
NHTMCP ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống
về quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP sẽ mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại
những giải pháp thiết thực cho việc hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên
HĐQT trong NHTMCP, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của thành
viên HĐQT độc lập cũng như hiệu quả hoạt động quản trị NHTMCP ở Việt Nam
hiện nay. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
6
Luận văn sẽ tập trung là rõ một số vấn đề lý luận về quản trị NHTMCP và
thành viên HĐQT độc lập; phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thực
tiễn áp dụng quy định về thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP. Qua đó,
đưa ra những đánh giá và đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy chế pháp lý
của thành viên HĐQT độc lập và nâng cao hiệu quả áp dụng trong các NHTMCP
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm quản trị NHTMCP, thành viên HĐQT độc lập và vai
trò của thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP;
- Đưa ra và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về thành viên
HĐQT độc lập và thực tiễn triển khai tại các NHTMCP.
- Đánh giá quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong
NHTMCP ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
khung pháp lý và nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về
quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong quản trị NHTMCP, bắt đầu
từ cơ sở pháp lý xuất hiện thành viên HĐQT độc lập cho đến quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ, nhiệm kỳ hoạt động, chi trả thù lao và việc chấm dứt tư cách
của thành viên này.
- Thông qua luận văn, tác giả đưa ra những nhận định, đánh giá về quy
chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP ở Việt Nam hiện nay
và trên cơ sở tham chiếu các thông lệ quốc tế tốt về QTCT, tác giả đưa ra những
giải pháp để trước hết là hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên này và sau đó
là nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các NHTMCP.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện hành
về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP; các quy định nội bộ của các
7
NHTMCP về thành viên HĐQT độc lập và thực tiễn áp dụng.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: tác giả tập trung phân tích các quy
định pháp luật hiện hành và các quy định, quy chế quản trị nội bộ của các
NHTMCP (31 NHTMCP), bao gồm: Điều lệ, Quy chế quản trị nội bộ, Báo cáo
thường niên, Báo cáo tình hình quản trị, Nghị quyết cuộc họp ĐHĐCĐ... có liên
quan đến thành viên HĐQT độc lập và thực tiễn triển khai tại một số ngân hàng
điển hình (VietcomBank, VietinBank, MBBank, SacomBank) trong hệ thống.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống và hiệu quả, tác giả đã sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích luật, so sánh, tổng
hợp, thống kê, khảo sát, diễn giải, suy luận logic để làm rõ các quy định của pháp
luật Việt Nam về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP và thực trạng áp
dụng pháp luật trong các NHTMCP. Đặc biệt là so sánh các quy định pháp luật
hiện hành với các thông lệ tốt về QTCT, các quy định pháp luật của một số quốc
gia có liên quan về thành viên HĐQT độc lập trong cơ cấu quản trị nội bộ.
7. Bố cục dự kiến Luận văn:
Ngoài Phần Mở đầu, Danh mục các từ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Bố cục của luận văn được tổ chức gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Lý luận tổng quát về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP
Chương 2. Quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP
và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam.
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên HĐQT
độc lập trong NHTMCP và nâng cao hiệu quả áp dụng ở Việt Nam.
8
Chƣơng 1
LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ
THÀNH VIÊN HĐQT ĐỘC LẬP TRONG NHTMCP
1.1. Tổng quát về quản trị NHTMCP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP
1.1.1.1. Khái niệm NHTMCP
Khác với NHNN, là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế, trước
tiên NHTM là một loại hình doanh nghiệp. Cũng như những doanh nghiệp khác,
NHTM sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới hình thức là
cung cấp dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, không giống những doanh nghiệp khác,
NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó vốn và tiền vừa là phương
tiện, mục đích và cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM. Vốn tự có của ngân
hàng thường thấp và ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác,
nên kinh doanh ngân hàng thường gắn với rủi ro và ngân hàng phải chấp nhận
mức độ mạo hiểm nhất định. Các ngân hàng không những phải đảm bảo nhu cầu
thanh toán, chi trả như những doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo nhu cầu
chi trả tiền gửi của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng
nhiều rủi ro, tình hình tài chính và rủi ro của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế cũng như tâm lý người dân do
bản chất lây lan rủi ro ngân hàng có thể làm rung chuyển toàn hệ thống kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh cung cấp
các dịch vụ ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới, có nhiều cách định
nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính. Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “NHTM là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” [45]. Ở Ấn
Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở
9
Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận
tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết
khấu và những hình thức vay mượn khác… [29, tr.13-14]. Như vậy, dù khác
nhau song các định nghĩa trên đây đều tiếp cận khái niệm NHTM thông qua hoạt
động nghiệp vụ của nó.
Ở Việt Nam, khoản 2 Điều 4 của Luật các TCTD năm 2010 quy định:
“Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng theo quy định của Luật các TCTD”. Theo đó, NHTM là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, cơ sở phân biệt
NHTM với các hình thức ngân hàng khác là ở mục tiêu lợi nhuận.
Khi NHTM được tổ chức dưới hình thức CTCP thì có tên gọi cụ thể là
NHTMCP. Ở Việt Nam hiện nay, trong 07 NHTM nhà nước thì có 03 ngân hàng
đã cổ phần hóa (VietcomBank, VietinBank và BIDV); các NHTM tư nhân đều
được tổ chức dưới hình thức CTCP [37, số liệu tính đến 31/12/2015].
Từ những nhận thức trên, có thể hiểu NHTMCP là loại hình TCTD được
tổ chức dưới hình thức CTCP; được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ định nghĩa như vậy thì vấn đề quản trị NHTMCP chịu sự
điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật khác nhau, trong đó cơ bản là các quy
định pháp luật áp dụng đối với các TCTD (Luật các TCTD năm 2010 và văn bản
có liên quan) và các quy định áp dụng đối với CTCP (LDN).
1.1.1.2. Đặc điểm NHTMCP
Thứ nhất, bản thân NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của
ngân hàng cũng có những đặc thù so với các doanh nghiệp khác. Đó là sự đa
dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý. Thành phần tham gia quản trị,
điều hành hoạt động của loại hình doanh nghiệp này hết sức đa dạng, phức tạp và
chủ yếu phân chia lợi ích (cổ tức) theo tỷ lệ góp vốn (cổ phần). Các cá nhân, tổ
chức góp vốn sẽ đều có những quyền hạn nhất định trong việc tham gia quản trị,
10
điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh hài hòa mối quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể là quan trọng nhưng hết sức phức tạp. Nếu không có
những quy định hợp lý, sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng phi tổ chức, thiếu thống nhất,
hoặc xuất hiện lợi ích nhóm.
Thứ hai, NHTMCP là loại hình TCTD kinh doanh nhằm mục đích lợi
nhuận, song vốn tự có thường không ổn định. Hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa
trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu tác động từ
nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế… hoặc đôi khi
chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như bất động sản, chứng
khoán… Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường chứa đựng tính rủi ro
cao. Do nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động thường cao và dễ
dẫn đến phá sản. Điều này đặt ra những yêu cầu nhất định của việc quản trị, điều
hành nhằm đưa hoạt động của NHTMCP đi vào ổn định và phát triển. Do đó, đưa
ra những quy định pháp luật về NHTMCP hợp lý là cực kỳ quan trọng, tạo hành
lang pháp lý thống nhất để các chủ thể tham gia hoạt động này thực hiện.
Thứ ba, NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội, các hoạt động của
loại hình doanh nghiệp này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất
nước, nếu đổ vỡ sẽ có thể gây tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Tại cùng một
thời điểm, các ngân hàng chịu rủi ro hơn về quản trị so với doanh nghiệp thông
thường vì tính không rõ ràng hay cụ thể hơn là phạm vi cát cứ, chuyển rủi ro, lợi
ích của cá nhân và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, hoạt động cho vay
nội gián, chiếm đoạt…) lớn hơn so với các doanh nghiệp phi tài chính. Việc quản
trị thiếu nghiêm túc, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ một số NHTMCP là
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đe dọa hoạt động và sự ổn định của cả hệ
thống TCTD. Sự khủng hoảng của hệ thống các TCTD trong thời gian qua và
mối liên quan trực tiếp từ sự khủng hoảng của kinh doanh bất động sản là một
minh chứng hết sức rõ nét cho tầm ảnh hưởng của hệ thống các TCTD nói chung
và NHTMCP nói riêng tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Do đó, việc đặt ra
11
những quy định pháp lý chặt chẽ điều chỉnh hoạt động của các NHTMCP trong
đó đặc biệt là hoạt động quản trị, điều hành là vô cùng quan trọng. Đây cũng
chính là công cụ để Nhà nước kiểm soát, điều hành sự vận động của kinh tế vĩ
mô, trong đó có hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị NHTMCP
1.1.2.1. Khái niệm quản trị NHTMCP
Xuất phát từ sự khác nhau về nguồn gốc thể chế pháp luật, đặc tính quốc
gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính mà quan niệm và nội
dung của quản trị, điều hành NHTMCP ở các quốc gia khác nhau có nhiều điểm
không tương đồng. Cuốn “Các nguyên tắc QTCT” xuất bản năm 2004 của Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “QTCT là một hệ
thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các
quyền và nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, các chức danh quản lý và những người
có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng
cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương
tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó [31].
Theo Ngân hàng Thế giới (WorlBank): QTCT là một hệ thống các yếu tố
pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty có
thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ
đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tồn tại quyền
lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ bản nhất của
hệ thống QTCT là: (i) tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh doanh và
quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; (ii) đảm bảo thực thi các
quyền của tất cả các cổ đông; (iii) các thành viên trong HĐQT có thể hoàn toàn
độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh,
tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của
hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết [38].
Các định nghĩa này cho thấy, QTCT nhằm bảo vệ lợi ích của các bên liên
quan chính trong các doanh nghiệp kinh doanh. QTCT trước hết bao gồm các
12
thiết chế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa họ với bộ
máy điều hành trong những doanh nghiệp quy mô lớn mà sở hữu và điều hành đã
bắt đầu tách rời.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, một công ty có nhiều đối tượng
hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành các nhóm lợi ích xung
đột với nhau. Việc quản trị sẽ cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu cho
công ty nhằm phát huy được tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần bảo
vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức mạnh cạnh tranh cho chính bản thân công
ty. Điều này cho thấy, thuật ngữ “QTCT” hoàn toàn khác với cách hiểu “quản trị
kinh doanh” thường được hiểu là tri thức và kỹ năng của những người quản lý.
Quản trị kinh doanh chính là áp dụng các nguyên tắc và lý luận của khoa học
quản trị vào việc quản trị một cơ sở kinh doanh là một quá trình, một hoạt động
có hướng đích, có tổ chức của chủ thể quản trị (nhà quản trị) lên đối tượng quản
trị (cấp dưới) để điều hành, phối hợp các nguồn lực (tài sản hữu hình, tài sản vô
hình, thời gian và các mối quan hệ) trong điều kiện cạnh tranh thị trường nhằm
đạt được mục đích kinh doanh với hiệu quả cao.
Đối với các ngân hàng, quản trị tốt phải bao gồm 5 yếu tố chủ yếu, bao
gồm: (i) sự công bằng: giữa các cổ đông, tạo điều kiện cho cổ đông đóng góp ý
kiến về mục tiêu của ngân hàng và tiếp cận các nguồn thông tin; (ii) minh bạch
thông tin: nhất là về tầm nhìn chiến lược, các chính sách, tình hình tài chính, cơ
cấu quản lý, cổ đông, quản trị rủi ro; (iii) tinh thần trách nhiệm: cần phân định
trách nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban, xây dựng các thông số đánh giá hoạt
động và hệ thống khen thưởng rõ ràng; (iv) sự tuân thủ: các ngân hàng cần hoạt
động kinh doanh một cách thận trọng, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành;
(v) sự độc lập: ngân hàng cần đưa ra quyết định khách quan, không chịu áp lực
của các bên liên quan, phải ngăn ngừa sự chi phối của các cổ đông và tránh phát
sinh các xung đột lợi ích.
Nếu như trước đây, NHTM Nhà nước chiếm phần lớn thị phần (theo báo
cáo của NHNN năm 2007, 05 NHTM thuộc sở hữu Nhà nước chiếm khoảng 80%
13
tổng sản phẩm của các NHTM, các khoản cho vay của NHTM thuộc sở hữu nhà
nước chiếm gần 80% trong tổng số dư nợ ngân hàng) thì đến nay, cùng với sự
củng cố và phát triển của NHTMCP và quá trình cổ phần hóa các NHTM Nhà
nước (VietcomBank, VietinBank và BIDV), vị thế và vai trò của hệ thống
NHTMCP đã thay đổi, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống các TCTD.
Bên cạnh đó, quy định cho phép chuyển đổi hình thức các doanh nghiệp,
kể cả doanh nghiệp nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 101/2006/NĐ-CP
ngày 21/09/2006 của Chính phủ về đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký chuyển
đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
quy định của LDN và Luật Đầu tư. Do đó, việc cho phép ngân hàng liên doanh
và ngân hàng 100% vốn nước ngoài chuyển đổi sang hình thức NHTMCP là xu
hướng tất yếu trong tương lai.
Trong NHTMCP, quản trị, điều hành nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt
động của ngân hàng. Quản trị không đơn thuần chỉ là việc quản trị, thực hiện các
quyết định và tổ chức nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh
khoản (khả năng thanh toán và quy mô của ngân hàng), quản trị tài sản có (tích
sản), quản trị tài khoản nợ (tiêu sản), quản trị vốn, quản trị tín dụng với nội dung
cơ bản là phân tích tín dụng [29, tr.12,13]. Trong việc quản trị, thực hiện quyết
định và tổ chức nội bộ sẽ bao gồm nhiều hoạt động: hoạch định việc thực hiện
các quyết định trong ngân hàng; kiểm tra (gồm có việc thực hiện các báo cáo,
kiểm toán, thanh tra ngân hàng) và tổ chức nội bộ. Trong hoạt động tổ chức nội
bộ của ngân hàng sẽ bao gồm việc tổ chức cơ cấu từ cấp cao (hội sở) đến từng ủy
ban chức năng, các chi nhánh hoạt động và việc tổ chức các cơ quan quản lý,
điều hành trong ngân hàng.
Như vậy, quản trị có thể hiểu là việc tổ chức nội bộ; đưa ra và thực hiện
các quyết định của ĐHĐCĐ thông qua HĐQT, đồng thời quản lý, kiểm soát hoạt
động điều hành của ngân hàng.
Điều hành là các hoạt động nghiệp vụ được tiến hành nhằm duy trì hoạt
động bình thường, ổn định, phát triển của ngân hàng, thường được tiến hành bởi
14
những chủ thể có quyền lực nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động quản trị và điều hành không hoàn toàn tách biệt mà
có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, trong quản trị có điều hành, trong điều hành thể
hiện yếu tố quản trị. Có thể coi điều hành là hoạt động triển khai kết quả của
quản trị. Quản trị và điều hành là hai mặt hoạt động của ngân hàng; chúng hỗ trợ
nhau tạo nên hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Nếu như QTCT tập trung vào
các cơ cấu và các quy trình của công ty nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch,
tính trách nhiệm và giải trình thì điều hành công ty tập trung vào các công cụ cần
thiết để tổ chức thực hiện các hoạt động của công ty. Nói cách khác, trong khi
điều hành phần nhiều mang tính nghiệp vụ thì quản trị mang tính tổ chức nội bộ.
Phạm vi đề tài này đề cập đến những vấn đề liên quan đến quản trị và
những quy định pháp luật có liên quan, cụ thể là những quy định pháp luật liên
quan đến tổ chức nội bộ của HĐQT và quy chế của thành viên HĐQT độc lập.
1.1.2.2. Đặc điểm quản trị NHTMCP
Các NHTMCP - bản chất là các doanh nghiệp, song là các doanh nghiệp
đặc biệt, cung cấp các dịch vụ về tài chính nhằm thu lợi nhuận, do vậy hoạt động
quản trị không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà
còn tác động đến giá vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình mà họ cho vay
vốn. Công tác quản trị tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị
của ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Nói một cách tổng quát,
vấn đề quản trị tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước
đo cho khả năng chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế.
Không những thế, hoạt động của ngân hàng tác động đến sự luân chuyển nguồn
vốn của nền kinh tế bởi lẽ các ngân hàng huy động và phân bổ tiết kiệm của xã
hội.
Cũng bởi NHTMCP là các doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của các
ngân hàng cũng có những đặc thù khác với các doanh nghiệp khác.
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ từ các
thông tin về tài chính được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau và khó nhận định
15
đánh giá. Cùng với đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý;
nhiều khoản nợ ngắn hạn dẫn đến độ rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ
dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết
do tầm quan trọng trong hệ thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên
phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các NHTMCP cũng phải đưa ra các quy định rất
cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản phẩm, chi nhánh), yêu cầu về
đảm bảo an toàn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc…).
Vai trò của quản trị NHTMCP rất quan trọng vì quản trị tốt, ngân hàng có
thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn.
Thứ hai, quản trị được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở
hữu NHTMCP. NHTMCP do các cổ đông là chủ sở hữu, nhưng để ngân hàng tồn
tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban điều hành,
sự giám sát của BKS và sự đóng góp của người lao động, những người này
không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải
có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như cổ đông có thể hướng hoạt động của ngân
hàng phát triển đem lại hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, quản trị NHTMCP xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các
nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ đông,
HĐQT, Ban điều hành, BKS. Đồng thời, quản trị ngân hàng cũng lập ra các
nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra các quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn
chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến
hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột
lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các
quy định về công bố thông tin và không minh bạch.
1.1.2.3. Mô hình quản trị trong NHTMCP
Khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức hay cấu trúc quản trị nội bộ của các
CTCP nói chung và các NHTMCP trên thế giới nói riêng, người ta nhận thấy có
hai mô hình cơ bản, đó là cấu trúc hội đồng hai lớp (còn có cách gọi khác là mô
hình đa hội đồng) và hội đồng đơn lớp (hay còn gọi là mô hình đơn hội đồng).
16
Việc tổ chức theo mô hình nào tùy thuộc vào điều kiện thực tế và truyền thống,
cơ chế pháp lý của từng quốc gia.
Điển hình cho mô hình hội đồng hai lớp là mô hình các CTCP của Đức và
một số nước châu Âu. Trong pháp luật công ty của Đức, Áo, Thụy Sĩ và Hà Lan
hay một số nước châu Âu khác gồm có cấu trúc bộ máy quản trị - điều hành đặc
biệt. Ở Đức, mô hình này có hai cấp bậc, bậc trên là Ban Giám sát (Supervisory
Board) và bậc dưới là Ban Quản lý (Management Board), trong đó các cổ đông
và người lao động sẽ bầu chọn thành viên của Ban giám sát. Theo đó, cấu trúc
mô hình một CTCP nói chung sẽ bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và TGĐ/GĐ.
ĐHĐCĐ
BKS
HĐQT
TGĐ/GĐ
Sơ đồ mô hình Hội đồng hai lớp
Ngược lại, các quốc gia theo truyền thống pháp luật Anh – Mỹ (Common
Law - thông luật hay hệ thống pháp luật Ănglô – Xắcxông) như Mỹ, Anh, Úc,
Canada, Hồng Kông… thường có cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng
đơn lớp, trong đó gồm ĐHĐCĐ và chỉ một HĐQT, gồm có các thành viên
HĐQT điều hành hoặc không điều hành, thực hiện chức năng quản trị các hoạt
động của công ty. Mô hình này không có một cơ quan độc lập để giám sát hoạt
động của các thành viên HĐQT trong khi nó được giao quá nhiều quyền lực để
thực thi nhiệm vụ. Sự sụp đổ của hàng loạt tập đoàn, công ty lớn, đặc biệt là các
công ty niêm yết ở Mỹ đầu những năm 2000 như Enron, Woldcom, Polycom…
đã khiến hình thành xu hướng tìm kiếm và chỉ định những người độc lập để bầu
vào HĐQT - chính là thành viên độc lập không điều hành của HĐQT, những
người có thể đưa ra các ý kiến khách quan, độc lập trong công tác QTCT. Mỹ và
17
các nước theo thông luật chính là nơi xuất phát của ý tưởng thành viên HĐQT
không điều hành, thành viên độc lập (non-executive board member).
ĐHĐCĐ
HĐQT (có thành viên độc lập)
TGĐ/GĐ
Sơ đồ mô hình cấu trúc hội đồng đơn lớp
Ở Việt Nam, mô hình cơ cấu tổ chức của NHTMCP theo Luật các TCTD
năm 2010, với ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS, Ban GĐ được phân định quyền và nghĩa
vụ nhằm đảm bảo việc thực hiện một cơ cấu quản trị hiệu quả. Nó không giống
như hội đồng đơn lớp trong pháp luật Anh và Mỹ vì có sự tồn tại của thiết chế
BKS, một cơ quan độc lập với nhiệm vụ giám sát những người quản lý - điều hành
ngân hàng (gồm cả HĐQT và Ban điều hành). Cũng có nhiều quan điểm cho rằng
mô hình quản trị NHTMCP của Việt Nam nói riêng là hội đồng hai lớp. Tuy mô
hình này gần giống với mô hình hội đồng hai lớp trong pháp luật Đức, song nó
khác biệt ở chỗ BKS trong CTCP ở Việt Nam do ĐHĐCĐ bầu ra và có chức năng
cơ bản nhất là giám sát công tác quản lý, điều hành của HĐQT và Ban GĐ. Theo
Điều 45 Luật các TCTD năm 2010, BKS không có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức các thành viên của HĐQT, TGĐ và người quản lý và tham gia
quyết định các vấn đề quan trọng của NHTMCP như Hội đồng giám sát ở Đức.
1.2. Thành viên HĐQT độc lập và vai trò của thành viên HĐQT độc lập
trong NHTMCP
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thành viên HĐQT độc lập
Trong các CTCP luôn tồn tại xung đột về lợi ích giữa một bên là cổ đông
với tư cách là người sở hữu vốn với một bên là những người quản lý, điều hành
công ty với tư cách là người trực tiếp quản lý sử dụng vốn. Những người quản lý là
người điều hành mọi hoạt động của công ty và vì vậy có thể họ sẽ ưu tiên các
18
quyền lợi cá nhân, quyền lợi nhóm hơn là quyền lợi của các cổ đông. Bên cạnh đó,
tình trạng lạm dụng quyền lực của các cổ đông lớn, cổ đông chi phối gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ, cổ đông thiểu số diễn ra ngày càng
phổ biến, nếu không có những giải pháp hữu hiệu trong quản trị, điều hành thì tình
trạng này sẽ còn tái diễn. Do đó, Luật về QTCT của các quốc gia cũng như những
quy định của các thị trường niêm yết thường yêu cầu trong cơ cấu HĐQT công ty
phải có sự tham gia của các thành viên HĐQT độc lập. Các thành viên này có vai
trò rất quan trọng trong việc giám sát, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của
những người quản lý, điều hành công ty, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của
các cổ đông, nhất là các cổ đông nhỏ lẻ, cổ đông thiểu số. Thành viên HĐQT độc
lập sẽ giúp công ty tạo ra cơ chế hài hòa lợi ích, hạn chế tối đa phát sinh mâu thuẫn
về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông nắm giữ nhiều vốn và ít vốn. Khi đó quyền
lợi của các cổ đông nhỏ lẻ, cổ đông thiểu số có thể được đảm bảo.
Các thông lệ quốc tế và luật về QTCT của các quốc gia phân chia thành
viên HĐQT thành các nhóm khác nhau tùy theo vào mức độ liên quan của thành
viên HĐQT đối với công việc của công ty và xếp các thành viên HĐQT thành 03
nhóm: i) Thành viên HĐQT điều hành; ii) Thành viên HĐQT không điều hành; và
iii) Thành viên HĐQT độc lập.
Định nghĩa về các thành viên HĐQT có khác nhau đôi chút giữa các quốc
gia; tuy nhiên, các thành phần chính thì tương tự như nhau. Theo đó, việc phân
loại một thành viên HĐQT điều/không điều hành phụ thuộc vào việc thành viên
này có/không kiêm nhiệm chức danh điều hành trong công ty . Các chức danh
điều hành này là TGĐ/GĐ, Phó TGĐ/Phó GĐ, Kế toán trưởng, GĐ Chi nhánh…
Đối với thành viên HĐQT độc lập, nguyên tắc chung là thành viên này
không có quan hệ với Ban điều hành, BKS, cổ đông lớn, cổ đông chi phối hoặc
cổ đông nhà nước, thành viên gia đình và những người khác có thể ảnh hưởng tới
phán quyết của họ. Họ phải có khả năng đưa ra những phán quyết độc lập và
khách quan.
19
Ở Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đều không trực tiếp đưa
ra định nghĩa thành viên HĐQT độc lập nhưng đã nhận biết được vai trò thông
qua việc xác định các tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên HĐQT độc lập.
Trước đây, Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 về việc ban
hành Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng
khoán/Trung tâm Giao dịch chứng khoán đã định nghĩa: “Thành viên HĐQT độc
lập là thành viên HĐQT không phải là GĐ hoặc TGĐ, Phó GĐ hoặc Phó TGĐ,
kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm hoặc cổ
đông lớn của công ty” [20, Điều 2.1]. Định nghĩa này dường như giống với khái
niệm thành viên HĐQT không điều hành trong thông lệ quốc tế. Thông tư số
121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 quy định về QTCT áp dụng cho các công ty
đại chúng thay thế Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC đã bãi bỏ định nghĩa này, tuy
nhiên thay vì định nghĩa thành viên HĐQT độc lập, văn bản này lại quy định các
tiêu chuẩn, điều kiện để xác định một thành viên HĐQT là thành viên độc lập.
Khả năng đóng góp của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP lần
đầu tiên được ghi nhận tại Nghị định 59/2010/NĐ-CP: NHTMCP cần phải có ít
nhất 02 thành viên độc lập trong HĐQT và Chủ tịch HĐQT có thể là thành viên
độc lập [16, Điều 16.2]. Mặc dù không trực tiếp đưa ra định nghĩa về thành viên
HĐQT độc lập nhưng Nghị định 59/2009/NĐ-CP đã quy định các tiêu chuẩn,
điều kiện mà thành viên HĐQT của NHTMCP có thể được coi là thành viên độc
lập [16, Điều 22].
Luật các TCTD năm 2010 được ban hành đã kế thừa các quy định trên của
Nghị định 59/2009/NĐ-CP khi xác định các tiêu chuẩn, điều kiện của thành viên
HĐQT độc lập, thay vì trực tiếp đưa ra định nghĩa đối với chủ thể này.
Nội dung quy định của Luật các TCTD năm 2010 và Nghị định
59/2010/NĐ-CP tương tự như các tiêu chí của thành viên HĐQT độc lập theo các
bộ quy tắc quốc gia và quốc tế về QTCT. Chẳng hạn, tại Anh Quốc, một thành
viên HĐQT độc lập không điều hành được xem là độc lập khi HĐQT xác định
20