Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường và vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.14 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------------

NGUYỄN THỊ HẢI HẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở CẤP
PHƢỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG
TÁC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

-------------

NGUYỄN THỊ HẢI HẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở CẤP
PHƢỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG
TÁC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc pháp luật
Mã số


: 603801

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2007


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hải Hạnh


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng của mọi quốc gia, dù đó là
quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những
biến cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước
những sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Việt Nam đứng trong hàng ngũ của các
quốc gia đang phát triển và cũng đang phải đối mặt với vấn đề môi trường. Môi
trường đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên

như: rừng, đất, biển, khoáng sản ... vốn giàu có, đa dạng và phong phú của nước ta
đang ngày một cạn kiệt và giảm nhanh. Khằng định quyết tâm bảo vệ môi trường
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, Điều 29, Hiến pháp năm 1992 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định
của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường”.
Pháp luật bảo vệ môi trường chỉ thực sự có ý nghĩa khi được tôn trọng,
tuân thủ trong cuộc sống, các quy định của pháp luật phải phù hợp với cuộc
sống. Đành rằng, nếu chỉ có người dân tin tưởng, tôn trọng và tuân thủ pháp luật
không thôi thì cũng chưa đủ để có thể đưa pháp lụât vào cuộc sống một cách
toàn diện được, mà nó còn đòi hỏi từ phía Nhà nước, nơi đề ra và tổ chức thực
thi pháp luật và ngược lại nếu chỉ có Nhà nước tổ chức thực hiện, phổ biến pháp
luật mà không được sự đồng tình, đóng góp của người dân, cộng đồng thì việc
thực thi pháp luật bảo vệ môi trường không thực sự hiệu quả, đặc biệt trong khi
Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền “của dân, do dân,
vì dân”, đảm bảo nguyên tắc của phát triển bền vững.
Lựa chọn đề tài:
 Xuất phát từ việc học tập, nghiên cứu chuyên ngành lý luận, trên cơ sở lý
luận môn học xã hội học công dân và điều tra xã hội học – Chuyên ngành
lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
 Công việc hiện tại đang nghiên cứu mô hình cải thiện điều kiện môi
trường với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.


 Nắm bắt hiện trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở 4 phường của
Hà Nội, từ đó đánh giá mức độ, tính hiệu quả, tính khả thi của pháp luật
bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp để công tác thực thi
pháp luật bảo vệ môi trường càng ngày khả thi hơn – Có nghĩa là pháp luật
đi vào cuộc sống và cuộc sống trong pháp luật.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vai trò của cộng đồng trong công tác bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên luận văn này được nghiên cứu trong thời điểm hiện
nay thực trạng môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm, Việt Nam đang phải đối
mặt với những vấn đề xuống cấp nghiêm trọng của môi trường, từ đó đề xuất
giải pháp thực thi pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng
nhằm phát triển bền vững.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường
trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường năm 1993 được sửa đổi bổ sung năm 2005,
huy động sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
 Khu vực địa lý của nghiên cứu (4 phường ở Hà nội)
 Giới hạn: thời gian từ năm nào đến năm nào? (Từ khi có PLBVMT)
5. CƠ SỞ KHOA HỌC
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà nghiên
cứu, gây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách của quốc gia, phổ biến
quy trình thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng
nhằm phát triển bền vững.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài luận văn này là phương
pháp trình bày và phân tích. Trước hết bài trình bày những lý thuyết và sau đó là
phân tích thực trạng và chứng minh bằng số liệu thực tế. Phương pháp so sánh
cũng được sử dụng trong bài luận văn này. Cụ thể là bài luận văn này trình bày
trước hết về thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật Bảo vệ môi trường tại ở cấp
Phường tại Hà Nội, khái niệm và cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng
trong việc quản lý môi trường ở Hà Nội. Từ đó những kết quả phân tích cũng
được đưa ra.



Các số liệu minh hoạt trong bài luận văn được lấy từ những nguồn khác
nhau như trong các báo cáo, các bài báo, các ấn phẩm công cộng ... Các số liệu
thứ cấp này có thể không thực sự chính xác, do đó có tác giả cũng có những điều
tra cơ bản thông qua các bảng hỏi hoặc phỏng vấn để phân tích kỹ hơn cũng như
đánh giá được tác động của các kết quả đầu ra.
7. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN
Việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng
là vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Thực tế đó
đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời cũng
chính là khó khăn lớn đối với tác giả khi nghiên cứu đề tài vì sẽ không tránh khỏi
sự trùng lặp về vấn đề lý luận cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi trong giới khoa
học pháp lý. Mặc dù vậy dựa trên những nghiên cứu về mặt lý luận tìm hiểu thực
tiễn có thể thấy những điểm mới của luận văn là:
- Góp phần khẳng định những giá trị chung về bản chất, các yếu tố cơ bản
để pháp luật bảo vệ môi trường có tính khả thi.
- Đưa ra mô hình thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại cấp phường
với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
- Tìm ra những bất cập của việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay.
- Điểm mới quan trọng của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực tế của
việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường. Luận văn đưa ra một vài giải pháp để
việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường huy động sự tham gia của cộng đồng
nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam và toàn cầu.
8. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Luận văn này bao gồm phần mở đầu và 3 chương:
 Chương 1:Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường
 Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp
phường và vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường
 Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao vai trò cộng đồng trong
công tác bảo vệ môi trường
Cuối cùng là phần kết luận

Tác giả mong nhận được những nhận xét cũng như những đóng góp quý báu
để việc nghiên cứu được hoàn thiện hơn.


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO
VỆ MÔI TRƢỜNG.
Môi trường có tầm quan trọng to lớn đối với đời sống con người và sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và nhân loại. Ngày nay vấn đề
môi trường là một trong những vấn đề toàn cầu, là thách thức to lớn đối với mỗi
quốc gia và đối với toàn nhân loại. Giải quyết vấn đề toàn cầu đòi hỏi tiến hành
hàng loạt biện pháp, với các phương tiện, công cụ khác nhau, trong đó pháp luật
là một phương tiện cần thiết nhất. Xuất phát từ nhận thức này, từ năm 1993 Nhà
nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường và đến năm 2005 Luật bảo vệ môi
trường mới được ban hành và thay thế Luật năm 1993.
1.1. Cơ sở lý luận - Luật bảo vệ môi trƣờng của Việt Nam hiện nay
Trong các thập kỷ trước, khi sự phát triển kinh tế là động lực phát triển
của các quốc gia thì tài nguyên, môi trường không phải là vấn đề quan trọng. Các
Quốc gia sẵn sàng khai thác hết tài nguyên thiên nhiên để công nghiệp hoá, để
phát triển và vấn đề dân số chưa đạt tới sự báo động. Chỉ đến khi phải đối mặt
với sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự mất cân bằng sinh thái
và những thiệt hại mà thiên nhiên gây ra thì vấn đề bảo vệ môi trường mới nổi
lên như một thách thức xã hội. Vấn đề tất yếu là cần phải có những chế tài nhằm
hạn chế, duy trì và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường. Luật Môi trường
ra đời như là biện pháp giải quyết thách thức đó.
Tại Việt Nam, Luật Môi trường phát triển tương đối muộn được chia
thành hai thời kỳ trước và sau thời kỳ đổi mới điều này xuất phát từ yếu tố lịch
sử cũng như vấn đề phát triển kinh tế xã hộị của quốc gia.
Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, vấn đề quan tâm lớn của Đảng và Nhà
nước là nhằm phục hồi nền kinh tế xã hội sau chiến tranh thúc đẩy mọi nguồn



lực sản xuất thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội. Trong thời kỳ này các
biến động xấu của thiên nhiên do huỷ hoại môi trường chưa thể hiện ở mức cao,
sự ô nhiễm tại các khu vực thành thị là không nhiều vì các phương tiện giao
thông còn ít…Chính vì vậy, các quy định của pháp luật chỉ liên quan đến một số
khía cạnh của bảo vệ môi trường xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước chứ chưa
nhằm vào việc bảo vệ các yếu tố môi trường và nằm rải rác trong các văn bản
pháp luật đơn hành. Sắc lệnh số 142/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
21/12/1949 quy định việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật
bảo vệ rừng có thể được coi là văn bản pháp luật sớm nhất đề cập đến vấn đề
môi trường. Một số văn bản khác do Chính phủ tuy không chính thức điều chỉnh
các vấn đề môi trường song cũng có thể coi là có liên quan đến vấn đề môi
trường. Đó là Nghị quyết 36/CP ngày 11/3/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc
quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất; Chỉ thị số 127/CP ngày 24/5/1971 của
Hội đồng Chính phủ về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên
nhiên; Chỉ thị số 07/TTg ngày 16/01/1964 về thu tiền bán khoán lâm sản và thu
tiền nuôi rừng; Nghị quyết số 183/CP ngày 25/9/1966 về công tác trồng cây gây
rừng và đặc biệt là Pháp lệnh về bảo vệ rừng ban hành ngày 11/9/1972. Điều
đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là việc coi bảo vệ môi trường là đòi hỏi hiến
địn, cụ thể được quy định tại điều 36 Hiến pháp 1980 “Các cơ quan nhà nước, xí
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực
hiện chính sách bảo vệ cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ cải tạo môi trường sống” ”[5].
Giai đoạn 1986 đến nay, khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70
và đầu những năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng việc
xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp và chuyển sang cơ chế thị trường có sự định
hướng, điều này đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Nền
kinh tế thị trường cũng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng kinh tế xã hội tiêu
cực, trong số đó có suy thoái môi trường, vì chạy theo lợi nhuận, làm giàu bằng



mọi giá nên các nguồn tài nguyên bị khai thác bừa bãi, hậu quả là môi trường bị
suy thoái nghiêm trọng. Quá trình đô thị hóa dưới tác động của kinh tế thị trường
diễn ra khá nhanh chóng cũng đã làm tăng sức ép môi trường ở các khu vực đô
thị. Số lượng máy móc thiết bị, ô tô, xe máy tăng lên gấp nhiều lần so với 10
năm trước đó. Lượng khí thải từ các máy móc thiết bị này đã làm cho môi
trường, nhất là môi trường đô thị bị ô nhiễm.
Với những nguyên nhân trên đã làm cho vấn đề bảo vệ môi trường trở
thành một thách thức lớn của xã hội. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, ngày
27/12/1993 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua
Luật bảo vệ môi trường, với 7 chương, 55 điều. Luật này đã được Quốc hội nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 sửa đổi và thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 –
Đây là nguồn cơ bản nhất của pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành.
Như vậy sự ra đời của Luật bảo vệ Môi trường đã cho thấy tính toàn diện
và hệ thống hơn, trong các quy định của Luật đã đề cập đến hầu hết các yếu tố và
vấn đề của môi trường và bảo vệ môi trường từ chức năng nhiệm vụ quyền hạn
của cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường đến quyền và nghĩa vụ của cá
nhân, tổ chức trong khai thác, sử dụng và bảo vệ các yếu tố khác nhau của môi
trường. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường cũng đã được ban hành để làm cơ sở
pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia
quan hệ pháp luật về môi trường. Các quy định đã chú trọng tới khía cạnh toàn
cầu của vấn đề môi trường, đảm bảo tính tương đồng giữa các quy phạm pháp
luật với các quy định trong công ước quốc tế.
Luật bảo vệ môi trường là cơ sở lý luận quan trọng, đảm bảo hiệu quả hoạt
động bảo vệ môi trường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, người dân
trong việc thực hiện pháp luật môi trường, có nghĩa là làm tốt việc bảo vệ môi
trường chung của quốc gia. Các quy định pháp luật về môi trường đã chú trọng



tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường. Tính tương đồng giữa các quy
phạm pháp luật môi trường Việt Nam với các quy định trong công ước quốc tế
mà Chính phủ Việt Nam đã ký trước các quy định của pháp luật nội địa trong
việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Hiệu lực của các quy định của pháp luật môi
trường được nâng cao do Nhà nước sử dụng nhiều các văn bản luật. Đây là
những điều kiện tiền đề rất thuận lợi cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh từ lĩnh vực môi trường. Chính vì lý do này nên các quy định của pháp luật
môi trường đã phát huy được tác dụng của chúng trong thực tế.
Để cụ thể hóa Luật bảo vệ môi trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 hướng dẫn thực hiện Luật bảo vệ môi trường
và Nghị định số 81 ngày 09/8/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
Ngoài Luật bảo vệ môi trường còn có các luật đơn hành về lĩnh vực khác,
pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ,
nghị quyết, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, song có chứa
đựng một số quy định về bảo vệ môi trường bao gồm:


Luật khoáng sản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 20/3/1996 là đạo luật đơn hành khác mà chúng ta cần phải
kể đến nếu xét ở góc độ bảo vệ môi trường. Điều 16 Luật khoáng sản quy
định rõ các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động khai khoáng phải thực hiện
nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Khai khoáng là một trong những hoạt động của
con người có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Vì vậy, tuy
được ban hnàh để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc quản lý, khai
thác và sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản song Luật này chứa đựng
khá nhiều các quy định về bảo vệ môi trường.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A.

CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy ban chấp
hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

B. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT

5. Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992 (2003), Quốc Hội
6. Luật bảo vệ môi trường năm 1993
7. Luật bảo vệ môi trường năm 2005.
8. Luật khoáng sản năm 1996.
9. Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989.
10.Bộ luật dân sự
11.Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991.
12.Luật dầu khí năm 1993; 2000.
13.Luật đất đai năm 1993; một số điều sửa đổi bổ sung Luật đất đai 1998;
2000; 2001; Luật đất đai 2003.
14.Luật tài nguyên nước 1998.
15.Bộ luật hình sự 1999
16. Luật thủy sản 2003.



17.Pháp lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ ban hành ngày 25/6/1996.
18.Pháp lệnh chất lượng hàng hóa 1999.
19.Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật ngày 08/8/2001 thay thế pháp
lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật 1993.
20.Pháp lệnh an toàn thực phẩm 2003
21. Nghị định số 23/HĐBT ngày 24/01/1991 ban hành điều lệ vệ sinh;
22.Nghị định số 121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (thay thế
nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996).
23. Nghị quyết 246/HĐBT ngày 20/9/1985 về việc đẩy mạnh công tác điều
tra cơ bản sử dụng hợp lý tài nguyên bảo vệ môi trường.
24. Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 hướng dẫn thực hiện Luật
bảo vệ môi trường.
25. Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
C. SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ VÀ CÁC TÀI LIỆU KHÁC
26.Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật môi trường – Nhà xuất bản
công an nhân dân.
27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình Lý luận chung
về nhà nước và phát luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28.Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Ban khoa giáo trung ương (2001)
Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
29.Nguyễn Quang Ngọc (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục
30.(2002) Tìm hiểu các tội phạm về môi trường – Nhà xuất bản lao động.


31. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2005), Quyền, nghĩa vụ và trách

nhiệm của các tổ chức, cá nhân về bảo vệ môi trường – Nhà xuất bản tư
pháp.
32. Dự án VIE/01/2001, Hỗ trợ xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự
21 quốc gia của Việt Nam (2004), Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị
toàn quốc lần thứ nhất - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
33.Viện Khoa học pháp lý (2005), Kiểm tra của cơ quan hành chính nhà
nước đối với việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện
nay – Nhà xuất bản tư pháp.
34. (2006) Tìm hiểu pháp luật về bảo vệ môi trường – Nhà xuất bản chính
trị quốc gia và nhà xuất bản giáo dục.
35.(2004) Một số vấn đề về bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước
ta hiện nay – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
36. Sách chuyên khảo, Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
37. Từ điển Hán – Việt (2002), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Từ điển tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng



×