Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành giáo dục quốc phòng và an ninh ở trung tâm giáo dục quốc phòng hà nội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
--------  ---------

TRẦN THỊ THÚY HẰNG

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
TỰ HỌC, TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ
PHẠM CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI, 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
--------  ---------

TRẦN THỊ THÚY HẰNG

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
TỰ HỌC, TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ
PHẠM CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: ThS VŨ MẠNH HÀ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành tơi xin được bày tỏ lịng cảm ơn sâu
sắc tới Trung tâm GDQP Hà Nội 2, Phòng Đào tạo - quản lý sinh viên, các cơ quan
liên quan đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao
trình độ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, các nhà khoa
học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tơi trong q trình học tập cũng như trong
nghiên cứu khoa học. Đặc biệt xin được trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Vũ Mạnh Hà đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên
ngành Giáo dục quốc phòng và an ninh.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên, nhân viên,
sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2; bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và người
thân đã tận tình giúp đỡ, động viên khích lệ tơi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù trong quá trình học tập, tìm tịi, nghiên cứu bản thân rất nỗ lực và cố
gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà giáo và đồng
nghiệp để khóa luận của tơi được hoàn thiện hơn.

Tác giả

Trần Thị Thúy Hằng



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng tự học, tự
bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2” đến thời điểm hiện tại cũng chưa có cơng trình nghiên cứu nào
về vấn đề này, nên khơng có sự trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được
chỉ rõ nguồn gốc. Việc hồn thành khóa luận là sự nỗ lực cố gắng rất lớn của bản
thân.

Tác giả

Trần Thị Thúy Hằng


MỤC LỤC
Trang
………….………………………………………………

MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC TỰ HỌC, TỰ BỒI
DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO SINH VIÊN
NGÀNH GDQP VÀ AN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ
NỘI 2……………………………………………………..

6


1.1.

Một số vấn đề về tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm…….

6

1.2.

Nội dung cơ bản về tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm….

9

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỰ HỌC, TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG
LỰC SƢ PHẠM CỦA SINH VIÊN NGÀNH GDQP
VÀ AN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2…………..
2.1.

Khái quát quá trình xây dựng, phát triển Trung tâm GDQP
Hà Nội 2………………………………………..……………...

2.2.

15

Thực trạng về tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh
viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2…….

2.3.

15


19

Nguyên nhân thực trạng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư
phạm của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP
Hà Nội 2……………………………………………………….

23

Chƣơng 3: BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TỰ HỌC,
TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM CHO SINH
VIÊN NGÀNH GDQP VÀ AN Ở TRUNG TÂM
GDQP HÀ NỘI 2…………………..……….……………. 26
3.1.

Các nguyên tắc trong đề xuất biện pháp……………………..

3.2.

Một số biện pháp nâng cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng

26

năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung
tâm GDQP Hà Nội 2…………………………………………..

27


3.3.


Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp... 33

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………...

39

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….

41

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
STT

VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

AN

An ninh

2

CNH, HĐH


Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

GDQP

Giáo dục quốc phòng

4

GD  ĐT

Giáo dục và đào tạo

5

KTX

Ký túc xá

6

Nxb

Nhà xuất bản

7

QĐNDVN


Quân đội nhân dân Việt Nam

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG TRONG KHÓA LUẬN
Nội dung

TT
Bảng 3.1

Trang

Đánh giá của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
về sự cần thiết của các biện pháp nâng cao chất lượng tự

34

học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên
Đánh giá của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm
Bảng 3.2

GDQP Hà Nội 2 về tính khả thi của các biện pháp nâng
cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho sinh viên


36


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng, trọng tâm là nâng cao năng lực tư
duy sáng tạo của sinh viên là nhiệm vụ quan trọng của cơng tác giáo dục chun
nghiệp nói chung và dạy học ở đại học, cao đẳng nói riêng. Đồng thời nó cũng là
mục tiêu hướng tới của công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang được đặt ra
trong toàn ngành GD & ĐT.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên giáo dục quốc
phòng và an ninh cho các trường và nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDQP và
AN. Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2020 đã xác định: Đổi mới và hiện
đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy
giảng trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri
thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ
thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân;
tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học
tập. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 02/11/2005 về
“Đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục Đại học Việt Nam trong giai đoạn 2006 2020”. Đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ bản về
chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020,
giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và tiếp cận trình độ
tiên tiến thế giới, có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng với cơ chế thị trường định
hướng XHCN.
Thực hiện nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế.

Nghiên cứu học tập ở trường đại học, học tập theo học chế tín chỉ đặt ra yêu
cầu rất cao đối với người học. Trong học chế tín chỉ địi hỏi sinh viên phải làm chủ

1


được thời gian, trong đó thời gian cho tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu là chủ yếu.
Tự học, tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu để tích lũy kiến thức, rèn luyện các kỹ năng
học tập, kỹ năng thí nghiệm, kỹ năng thực hành nghề nghiệp.
Năng lực sư phạm là tổ hợp những kiến thức, kỹ năng thái độ cần thiết để
thực hiện thành công các công việc chuyên môn của nghề dạy học theo những tiêu
chuẩn, tiêu chí đặt ra đối với từng cơng việc đó.
Năng lực sư phạm được phát triển trong suốt cả cuộc đời hoạt động nghề
nghiệp của giáo viên; trong đó giai đoạn đào tạo ban đầu ở các trường sư phạm hoặc
các cơ sở giáo dục có đào tạo giáo viên giữ vai trị nền tảng.
Giáo dục quốc phịng và an ninh là mơn học nằm trong chương trình dạy
học của các trường THPT và là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục quốc
phịng tồn dân, góp phần giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mơn học này có tác
dụng rèn luyện tác phong nghiêm túc, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật
trong học sinh. Mặc dù có vai trị, vị trí quan trọng như vậy nhưng do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, chất lượng dạy và học môn GDQP và AN
trong nhà trường thời gian qua còn bị xem nhẹ, chưa thực sự chú trọng.
Mặt khác hiện nay đội ngũ giáo viên giảng dạy môn học GDQP và AN chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong những năm
qua các cơ sở đào tạo đã và đang thực hiện đề án của Chính phủ đào tạo đội ngũ
giáo viên GDQP và AN tiến tới chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn học GDQP và
AN theo quy định. Bên cạnh đó các sinh viên học ngành cử nhân sư phạm GDQP
và AN cũng phải tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của mình để đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.

Tuy nhiên với đặc thù môn học và thực tế sinh viên sư phạm nói chung và
sinh viên sư phạm ngành GDQP và AN nói riêng ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
trong quá trình đào tạo cũng như sau khi ra trường cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế
nhất định, đặc biệt là năng lực sư phạm. Thực tế khi sinh viên đang còn ngồi trên
ghế nhà trường với cương vị là người học, đa số sinh viên còn bị động trong học

2


tập, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động trong học tập, chưa tự tìm tịi khám
phá tri thức, rèn luyện các kĩ năng sư phạm… do vậy khi ra trường bị thiếu hụt năng
lực sư phạm là điều khó tránh khỏi.
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nâng cao chất lượng tự học, tự bồi
dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm giáo dục
quốc phòng Hà Nội 2 là yêu cầu tất yếu, khách quan, là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện
nay. Do vậy tôi chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất môt số biện pháp nâng cao chất
lượng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP và AN
nhằm góp phần nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của Trung tâm GDQP Hà Nội 2 trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm
- Đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm tự học, tự bồi
dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
- Đề xuất một số biện pháp tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh
viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng GD & ĐT nói chung, nâng cao năng lực sư phạm nói riêng.

- Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng việc tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên ngành
GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2; từ đó đề xuất một số biện pháp nâng
cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP
và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên
ngành GDQP và AN (K38, 39, 40, 41) ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu; để nghiên cứu tác giả đã thu
thập, tổng hợp phân tích các tài liệu liên quan.
Phương pháp khái quát hóa nhận định khách quan: dựa trên những nhận
định, đánh giá, đóng góp ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra bằng phiếu câu hỏi với sinh viên.
5.3. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoat động của sinh viên ở TTGDQP Hà
Nội 2 cũng như hoạt động tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên
nhằm thu nhập các tư liệu bổ sung.
5.4. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành trao đổi trực tiếp các sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2, các
cán bộ quản lý sinh viên và các phịng, khoa, các đơn vị có liên quan.
5.5. Phương pháp thống kê toán học

- Xử lý số liệu, kết quả nghiên cứu.
- Nhận định đánh giá chính xác, khách quan kết quả nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
Hoạt động tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập; nếu phân tích đánh giá đúng
thực trạng hoạt động tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên hiện nay,
tìm ra được nguyên nhân tồn tại; đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng tự
học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung
tâm GDQP Hà Nội 2 phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
nói chung, và giúp cho sinh viên vững vàng hơn khi tốt nghiệp ra trường nói riêng.

4


7. Cấu trúc khóa luận
- Phần mở đầu
- Nội dung: gồm có 3 chương
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm
cho sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Chƣơng 2: Thực trạng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm của sinh viên
ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay
Chƣơng 3: Biện pháp nâng cao chất lượng tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư
phạm của sinh viên ngành GDQP và AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
- Kết luận, kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục

5



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỰ HỌC, TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ
PHẠM CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
1.1. Một số vấn đề về tự học, tự bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm
1.1.1. Lý luận về tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm
1.1.1.1. Khái niệm tự học, tự bồi dưỡng
Theo Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Tồn: “Tự học là tự mình động não suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và các khả năng cơ bắp, cùng các phẩm chất của
mình rồi cả động cơ, tình cảm và nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến nó thành sở hữu của mình”.
Như vậy qua định nghĩa ta hiểu rằng việc tự học đã được tiến hành khi người
học có nhu cầu muốn hiểu biết một số kiến thức nào đó bằng sự nỗ lực của bản
thân, cố gắng chiếm lĩnh được kiến thức đó. Tự học là nói đến nội lực của người
học, chất lượng của học tùy thuộc chủ yếu vào nội lực, địi hỏi ý chí của bản thân
sinh viên. Hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo và
phương pháp dạy học trong giáo dục Đại học và Cao đẳng là một trong những yêu
cầu cần thiết. Một trong những đòi hỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo trong nhà trường Đại học giúp cho sinh viên có khả năng tự học. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII khẳng định: “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương tiện dạy học hiện
đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự bồi dưỡng cho
sinh viên, nhất là sinh viên Đại học”. Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong
việc nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học. Khi một học sinh trở thành
một sinh viên đại học, họ bắt đầu làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới.
Phương thức chủ yếu của trường Đại học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến
q trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự

6



hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự bồi dưỡng.
Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ đây, thầy cơ giáo đóng vai trị
là những người hướng dẫn học tập, và các giờ lên lớp chỉ cung cấp được những kiến
thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản, còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp
trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở
rộng. Thêm vào đó, khơng cịn sự kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập
dồn hết vào kỳ thi hết học phần, hết môn. Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh
viên chủ yếu. Công tác tự học, tự bồi dưỡng của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày
càng địi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có tự học mới trang bị cho mình kiến thức
mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động và
đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học cịn góp phần
nâng cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri
thức mới. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu
tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của vấn đề. Trong quá trình tự học, tự bồi
dưỡng sinh viên sẽ gặp phải nhiều vấn đề mới và việc đi tìm lời giải đáp cho những
vấn đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi
sự nỗ lực tự học, tự bồi dưỡng của bản thân sinh viên thì kết quả khơng thể cao cho
dù điều kiện ngoại cảnh có thuận lợi đến mấy (giáo viên giỏi, tài liệu hay và đầy
đủ…). Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên những kiến
thức mới mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này. Họ có năng lực hoạt
động thực tiễn hay khơng? Chất lượng công tác như thế nào? Phụ thuộc lớn vào
chất lượng tự học, tự bồi dưỡng.
Tự học là hình thức cá nhân tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của
bản thân. Tự học không chỉ giúp người học mở rộng, đào sâu những điều đã học mà
còn là con đường chủ yếu để rèn luyện các kỹ năng, vận dụng, hình thành phẩm chất
năng lực cá nhân. Bởi vậy, tự học là hoạt động không thể thiếu của sinh viên đại học
nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng. Sinh viên sư phạm là những giáo viên
tương lai. Biết cách học vừa là phương tiện để họ tự học, khơng ngừng nâng cao trình

độ chun mơn nghiệp vụ cho mình, vừa là phương tiện để dạy học, dạy kỹ năng học

7


cho học sinh. Chỉ khi giáo viên biết cách học mới có khả năng dạy cho các thế hệ học
sinh biết cách học. Trong thời đại mới “người thầy không phải là người bán thông tin,
người thầy là người cung cấp những cái chìa khóa cho phép học sinh mở cửa vào kho
tàng tri thức của chính họ”. Thực tiễn giáo dục đã chứng minh rằng, chất lượng và
hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và chỉ khi người học tích cực, chủ động, sáng
tạo trong học tập. Muốn chủ động, tích cực người học phải biết các kỹ năng học cơ
bản, biết phương pháp học. Có phương pháp học, người học có thể học tất cả những
gì cần thiết để nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần và nghề nghiệp.
1.1.1.2. Quan niệm về năng lực sư phạm
Năng lực sư phạm là một năng lực chuyên biệt đặc trưng của nghề dạy học
nói chung. Theo GS. Phạm Minh Hạc quan điểm: “Năng lực sư phạm là tổng hợp
những đặc điểm tâm lí của nhân cách nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư
phạm và quyết định sự thành công của hoạt động”.
Năng lực sư phạm là công việc chuyên môn của nghề dạy học. Trong lĩnh vực
giáo dục, năng lực sư phạm là khoa học về công việc chuyên môn của nghề dạy học.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên đề cập đến 5 loại năng lực có liên quan đến
năng lực sư phạm:
- Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục
- Năng lực dạy học
- Năng lực giáo dục
- Năng lực hoạt động chính trị, xã hội
- Năng lực phát triển nghề nghiệp.
Như vậy, năng lực sư phạm có thể được hiểu là tổng hợp những kiến thức, kĩ
năng, thái độ cần thiết để thực hiện thành công các công việc chuyên môn của nghề
dạy học theo những tiêu chuẩn, tiêu chí đặt ra đối với từng cơng việc đó.

Năng lực sư phạm được phát triển trong suốt cả cuộc đời hoạt động nghề
nghiệp của giáo viên; trong đó có giai đoạn đào tạo ban đầu ở các trường sư phạm
hoặc cơ sở giáo dục có đào tạo giáo viên giữ vai trị nền tảng. Vấn đề đặt ra đối với
các trường sư phạm là làm thế nào để khẳng định được rằng: Người được đào tạo về

8


năng lực sư phạm sẽ dạy học, giáo dục học sinh tốt hơn người không được đào tạo
về nội dung này.
Tự bồi dưỡng năng lực sư phạm là tự mình cập nhật bổ sung thêm kiến thức,
kỹ năng cần thiết về năng lực sư phạm nhằm nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào
tạo cơ bản cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành mang tính ứng dụng.
1.1.2. Sự hình thành việc tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm
Đào tạo giáo viên là một trong những hoạt động đào tạo nghề giữ vai trò
quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Để đào tạo giáo viên có hiệu quả,
ngồi cung cấp tri thức lý thuyết, việc cung cấp các kỹ năng dạy học và giáo dục
thực tiễn là không thể thiếu. Những kỹ năng sư phạm của sinh viên khơng thể hình
thành tự phát và khơng phải sinh ra đã có, mà cần phải được rèn luyện thường
xuyên, lâu dài. Những kỹ năng tưởng chừng như đơn giản như: viết, vẽ bảng, thuyết
trình, kỹ năng sử dụng các dụng cụ và đồ dùng dạy học, không chỉ trông cậy vào
năng khiếu người học. Muốn làm được thì phải học, phải thực hành. Cũng phải nói
thêm rằng, trước khi đi thực tập, sinh viên chưa hiểu gì nhiều về thực tế cấp học nơi
mà mình sau này phải tham gia giảng dạy.
Thực tế hiện nay cho thấy, khơng ít những giờ dạy phương pháp chủ yếu
biến thành những giờ dạy lý thuyết hàn lâm, chưa có quy trình rèn luyện bài bản.
Nghề giáo là nghề tự học suốt đời để tự hồn thiện mình và nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Tự học có tầm quan trọng chiến lược, có tính chất quyết định chất lượng giáo
dục và dạy học trong nhà trường, bởi lẽ lao động sư phạm là lao động sáng tạo, đòi

hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu và tồn diện, ln bổ sung cái mới nhằm
hoàn thiện nghệ thuật sư phạm. Giáo viên cần có nhiều kỹ năng để giảng dạy hiệu
quả và để trang bị cho mình những kỹ năng đó khơng có cách nào khác hơn là tự học.
1.2. Nội dung cơ bản về tự học, tự bồi dƣỡng năng lực sƣ phạm
1.2.1. Tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm thông qua rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm thường xuyên ở nhà trường
Trong q trình đào tạo, ngồi việc tổ chức hoạt động dạy học của giảng viên
và sinh viên, nhà trường luôn quan tâm đến các hoạt động như thực hành thường

9


xuyên, tổ chức hội thi nghiệp vụ sư phạm cấp khoa, cấp trường, tổ chức cho sinh
viên tập soạn giáo án, tập giảng, làm công tác chủ nhiệm, tổ chức các hoạt động
ngoại khóa... nhằm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho các sinh viên.
Đặc biệt, trong những năm gần đây nhà trường đã đưa học phần Rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên vào trong chương trình đào tạo. Tuy học phần này
gồm hai tín chỉ nhưng nội dung phong phú, bao gồm các lĩnh vực khác nhau như
tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn. Học phần này được tiến
hành dạy trong 3 năm, qua học phần này giúp sinh viên vận dụng những kiến thức
đã học vào thực tiễn, đó là dịp các sinh viên được trải nghiệm với hoạt động dạy
học - giáo dục ở thực tế trường phổ thơng.
Trong q trình rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên năm thứ nhất, nhận thấy
sinh viên cịn thiếu tự tin, e ngại khơng dám lên thực hành (tập bước vào lớp chào
học sinh, tập viết bảng, tập xử lý tình huống sư phạm qua phương pháp đóng vai).
Đặc biệt qua các đợt kiến tập sư phạm của sinh viên năm thứ ba, cho thấy sinh viên
còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp: chẳng hạn kỹ năng viết bảng cịn hạn chế
(trình bày bảng chưa được khoa học, chữ viết chưa thẳng hàng); chưa có kỹ năng
soạn bài (xác định mục tiêu bài giảng, xác định nội dung trọng tâm bài giảng, lúng
túng trong việc sử dụng phương pháp dạy học), nội dung bài giảng cịn nơng cạn, ít

gắn lý luận với thực tiễn, chưa có kỹ năng xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, kỹ năng
nói trước tập thể lớp, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế (trong giao tiếp với giáo viên
hướng dẫn và học sinh, sinh viên còn rụt rè, e ngại, có sinh viên khơng biết nói gì
với học sinh đặc biệt trong khi giảng bài, nét mặt của sinh viên còn lo lắng, căng
thẳng, động tác của tay còn thừa đơi khi cịn giơ lên gãi đầu, gãi tai...).
Mỗi sinh viên luôn nhận thức được tầm quan trọng của rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm, trong quá trình học tập ở nhà trường bên cạnh việc trau dồi kiến thức
chuyên mơn, ngay từ đầu sinh viên phải chủ động, tích cực rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp và một số kỹ năng mềm khác như kỹ năng nói trước đám đơng, kỹ năng giao
tiếp... Trong mỗi giờ học trên lớp, sinh viên không ngừng học hỏi ở giáo viên về
phương pháp dạy học và kinh nghiệm ứng xử.

10


Tích cực tham gia các cuộc thi nghiệp vụ sư phạm do nhà trường tổ chức để
sinh viên bước đầu có những hiểu biết về nghề dạy học, hình thành ở các sinh viên
kỹ năng xử lý tình huống sư phạm xảy ra ở trường phổ thông... Đây là hoạt động
thường niên của trường. Có thể thấy, nội dung thi nghiệp vụ sư phạm cấp trường đã
có mặt cả kỹ năng dạy học và kỹ năng giáo dục. Thực tế các cuộc tranh tài giữa các
Khoa đã làm nên những mùa thi sơi nổi, làm khuấy động lên khơng khí nghiệp vụ
sư phạm trong toàn trường dù chỉ trong thời gian ngắn.
1.2.2. Tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm thơng qua hình thức kiến tập thực tập sư phạm
Cũng như sinh viên của bất cứ các trường đào tạo nghề nào khác, sinh viên
các trường sư phạm cũng phải trải qua một khâu tất yếu trong quá trình học tập của
mình, khâu “Thực tập nghề”, mà trong trường sư phạm gọi là “Thực tập sư phạm”.
Thực tập sư phạm là điều kiện cần thiết để hình thành khuynh hướng nghề
nghiệp sư phạm, hình thành nhân cách của người giáo viên tương lai, đó cũng là
điều kiện giúp trường sư phạm có khả năng kiểm tra mức độ khuynh hướng nghề
nghiệp của sinh viên.

Theo Nguyễn Đình Chinh, thực tập sư phạm có các chức năng cơ bản như:
chức năng học tập, chức năng giáo dục, chức năng phát triển giáo dục, chức năng
thăm dị, chức năng chuẩn đốn.
Thực tập sư phạm là hoạt động giúp cho sinh viên làm quen với nghề sư
phạm. Thông qua thực tập sư phạm, các nội dung chuyên môn, nghiệp vụ mà sinh
viên đã tiếp thu được đem thử nghiệm vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục. Vì thế,
thực tập sư phạm được coi là khâu chuyển giao giữa lý luận và thực tiễn, giữa
những kiến thức học tập trong nhà trường và công việc thực tế mà sinh viên sẽ làm
sau này.
Thực tập sư phạm không chỉ phản ánh chất lượng đào tạo mà cịn góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của trường sư phạm, thực tập sư phạm giúp
cho các trường sư phạm có được những đánh giá tương đối khách quan về sản phẩm
đào tạo của mình, nhờ đó có cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo, điều chỉnh nội

11


dung, phương pháp đào tạo sao cho phù hợp với nhu cầu mà các nhà trường phổ
thông đặt ra.
Thông qua thực tập sư phạm, sinh viên có dịp nhìn nhận, đánh giá lại những
kiến thức, kĩ năng mà mình đã học được, trên cơ sở đó tiếp tục tự học, tự bồi dưỡng
để hồn thiện trình độ, năng lực cũng như là nhân cách của một người giáo viên.
Thời điểm thực tập sư phạm cũng là thời điểm sinh viên hình thành rõ nhất tình cảm
và thái độ đối với nghề giáo.
1.2.3. Tự học, tự bồi dưỡng năng lực sư phạm trong thực tiễn dạy học
Nhiều giáo viên còn lúng túng khi mở đầu bài giảng, thậm chí bỏ hẳn khâu
mở đầu bài giảng và chính điều này làm giảm hiệu quả rất nhiều trong việc tiếp thu
tri thức của học sinh dưới góc độ tâm lý học, quy luật ghi nhớ và nhớ.
Giáo viên bối rối khi không biết làm thế nào để tập trung học sinh, điều
khiển và làm chủ lớp học, có khi trong lớp học mạnh thầy, thầy giảng; mạnh trị, trị

nói chuyện.
Giáo viên khó khăn trong việc tiếp cận với học sinh hiếu động, nghịch phá và
chưa có những kỹ năng thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ, động viên hay kỹ năng kết
nối để “lơi kéo” học sinh cá biệt về phía mình, gần gũi mình hơn...
Quá trình rèn luyện kỹ năng cho giáo viên hiện nay cịn xem nhẹ. Sinh viên
q ít cơ hội trải nghiệm thực tế vào các tình huống giáo dục. Sinh viên sư phạm
chủ yếu học trên lớp với các giảng viên. Thời gian thực tập sư phạm còn quá ít, sự
tương tác với giáo viên hướng dẫn thực tập còn nhiều hạn chế, nhất là về kinh
nghiệm thực tiễn.
Thực tế cho thấy kỹ năng sư phạm cần có sự trải nghiệm đích thực, rèn luyện
lâu dài, thường xuyên... Ðiều có giá trị bền vững là ở chính bản thân sinh viên sư
phạm phải ý thức được vai trò của kỹ năng sư phạm với nghề nghiệp để chính các
bạn có ý thức rèn luyện.
Bởi vai trị của giáo dục nhà trường bao giờ cũng vấp phải những giới hạn
nhất định, chỉ ở bản thân người học có nhận thức đúng, có sự chủ động thì hiệu quả
về mặt giáo dục mới được nâng cao và bền vững. Có khơng ít câu hỏi được đặt ra:
Sinh viên sư phạm hiện nay còn quá chủ quan về kỹ năng sư phạm?

12


Nguyên nhân nào khiến họ chủ quan? Phải chăng phần đánh giá thực tập sư
phạm hoặc kỹ năng sư phạm khơng mang tính quyết định đến kết quả học tập...
Ðiều này khiến chúng ta phải trăn trở bởi kỹ năng sư phạm là phần chủ chốt nhất
trong năng lực người giáo viên.
Cứ như thế, không hiếm thế hệ giáo viên này đến thế hệ giáo viên kế tiếp vẫn
chưa đáp ứng được những mong mỏi và kỳ vọng của xã hội đặt ra. Những sự việc
đau lòng trong ứng xử sư phạm vẫn tiếp tục nảy sinh...
Cần xem xét kỹ năng sư phạm như một phương tiện để người giáo viên hành
nghề, khơng có phương tiện sẽ khơng thể nào hành nghề. Kỹ năng sư phạm không

chỉ đặt trong yêu cầu về chuyên môn nghề nghiệp mà cần thiết trong phẩm chất,
nhân cách người giáo viên.
Quá trình đào tạo nghiệp vụ cho giáo viên tương lai cần chú trọng thêm về
mặt thời gian, sự cụ thể chứ không lồng ghép chung chung, học đi đôi với hành,
tương tác với thực tiễn và được học từ những tình huống hay ví dụ trong thực tiễn.
Điều này đòi hỏi người giảng viên giảng dạy nghiệp vụ sư phạm cần phải
đầu tư cho mình thêm kinh nghiệm thực tiễn và có sự liên kết với giáo viên trung
học để hiệu quả giảng dạy kỹ năng sư phạm đạt kết quả tốt nhất.

13


Kết luận chƣơng 1
Dạy học các môn chuyên ngành GDQP và AN ở Trung tâm giáo dục quốc
phòng Hà Nội 2 nhằm hình thành cho sinh viên những tri thức cơ bản về nghiệp vụ
sư phạm, về nghề dạy học. Trên cơ sở đó để sinh viên tự hồn thiện trình độ tay
nghề trong quá trình học tập cũng như trong công tác giáo dục sau này.
Hoạt động dạy học là hoạt động có mục đích, có đối tượng, phương pháp…
cụ thể. Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy, giữ nhiệm vụ là người hướng dẫn,
chỉ đường, là “chất xúc tác” của q trình học tập tích cực của sinh viên. Dạy học
với mục đích cuối cùng là giúp người học hình thành và phát triển nhân cách theo
mục tiêu đào tạo.
Học dưới bất kì hình thức nào người học cũng phải tự học. Tự học là quá
trình cá nhân tập trung chú ý, tự giác, tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức
để đạt được mục đích học tập của mình.
Tự học, tự bồi dưỡng là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Tự học,
tự bồi dưỡng là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và hình thành tình cảm, thái độ nghề nghiệp
của sinh viên dưới vai trò chủ đạo của người dạy. Tự học, tự bồi dưỡng có thể diễn
ra ở trên lớp hoặc trong quá trình tự học ở nhà và trong các hoạt động ngoại khóa.

Tổ chức hoạt động tự học, tự bồi dưỡng cho sinh viên là quá trình tiến hành
các biện pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của sinh viên trong mọi
hoạt động chính khóa, ngoại khóa nhằm góp phần hình thành năng lực sư phạm của
người thầy giáo, cô giáo tương lai cho sinh viên ngành GDQP và AN. Nhưng trong
thực tế vấn đề này chưa được cán bộ giảng dạy trong trung tâm quan tâm một cách
triệt để, đặc biệt là vấn đề tự học ở nhà của sinh viên và vấn đề tổ chức hoạt động
ngoại khóa để rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, vì vậy mà sinh viên chưa
hiểu hết được ý nghĩa của môn học, chưa biết cách tổ chức hoạt động tự học, tự bồi
dưỡng năng lực sư phạm.

14


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỰ HỌC, TỰ BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC SƢ PHẠM
CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2
2.1. Khái quát quá trình xây dựng, phát triển Trung tâm GDQP Hà Nội 2
2.1.1. Quá trình xây dựng và phát triển
Trung tâm GDQP Hà Nội 2 thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 được
thành lập theo quyết định số 2630/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 27 tháng 7 năm 1999
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm là cơ sở giáo dục quốc phịng và
an ninh cho sinh viên, có nhiệm vụ thực hiện quản lý tổ chức học tập, rèn luyện
toàn diện đối với sinh viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trung tâm Giáo dục quốc phịng Hà Nội 2 có đội ngũ sĩ quan biệt phái thuộc
Bộ Tư lệnh Thủ đơ Hà Nội, ln có bản lĩnh chính trị vững vàng, được đào tạo cơ
bản, chính quy tại các học viện, nhà trường quân đội và các nhà trường trong và
ngoài nước.
Trải qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, mặc dù gặp không ít khó khăn,
đến nay Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hiện

nay Trung tâm đã có một lực lượng cán bộ, giảng viên, nhân viên mạnh về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu. Tổng số sỹ quan, viên chức có 37 người, trong đó sĩ quan
biệt phái là 22 người: Đại tá 03, Thượng tá 08, Trung tá 07, Thiếu tá 01, Đại 03;
cán bộ có trình độ thạc sỹ 08, đang NCS 02.
Về cơng tác đào tạo, Trung tâm ln tích cực chủ động, phối hợp chặt chẽ
với các đơn vị chức năng của nhà trường, sử dụng tối đa quỹ thời gian, cơ sở vật
chất, giảng đường, ký túc xá, đồng thời chủ động liên kết chặt chẽ với các nhà
trường, cơ quan, đơn vị quân đội trên địa bàn để tổ chức đào tạo GDQP và AN cho
học sinh, sinh viên. Trong hơn 15 năm qua Trung tâm đã hồn thành 170 khóa học
GDQP và AN, cấp chứng chỉ cho 220.590 sinh viên của 24 trường đại học, cao
đẳng trong khu vực. Cùng với việc đào tạo cấp chứng chỉ môn học GDQP và AN,

15


Trung tâm đã phối hợp với Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Trường
Quân sự tỉnh Hải Dương, Trường Quân sự tỉnh Ninh Bình đào tạo ngắn hạn 10 khóa
giáo viên GDQP và AN (470 giáo viên GDQP và AN) cho các địa phương, đào tạo
7 khoá hệ chính quy ghép mơn với GDQP và AN (531 giáo viên). Thực hiện quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo giáo viên GDQP và AN, hiện nay Trung
tâm đang đào tạo 4 khóa (hơn 300 sinh viên) hệ chính quy 4 năm ngành sư phạm
GDQP và AN.
Hơn 15 năm xây dựng và phát triển, Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã từng
bước khẳng định vị thế vững chắc trong hệ thống các Trung tâm GDQP và AN trên
toàn quốc, được Hội đồng GDQP và AN Trung ương, các cơ quan của Bộ Quốc
Phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội ghi nhận và đánh giá
cao, đồng thời Trung tâm cũng tạo được sự tín nhiệm cao là địa chỉ đáng tin cậy để
các trường đại học, cao đẳng đưa sinh viên đến học tập môn học GDQP và AN.
Trong thời gian tới nhiệm vụ của Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ngày càng
nặng nề, khó khăn hơn do số học sinh, sinh viên học tập môn GDQP và AN ngày

càng gia tăng. Chất lượng đào tạo giáo viên ngành GDQP và AN ngày càng địi hỏi
cao hơn; cơng tác nghiên cứu khoa học cần đẩy mạnh hơn nữa để đáp ứng với yêu
cầu, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
2.1.2.1. Về thực hiện nhiệm vụ giáo dục quốc phịng
Qua điều tra chúng tơi nhận thấy, thời gian qua Trung tâm luôn thực hiện
đúng quy chế tổ chức dạy và học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Quốc phịng về
cơng tác GDQP và AN. Tổ chức GDQP và AN cho sinh viên gần 20 trường đại học,
cao đẳng khu vực Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này, Trung tâm đã đề nghị và được
tăng cường đội ngũ cán bộ, giảng viên về cả số lượng, chất lượng; Trung tâm ln
chủ động, tích cực đưa giảng viên đi đào tạo sau đại học, phấn đấu đến năm 2016 có
60% giảng viên Trung tâm có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Thường xuyên bồi dưỡng
trình độ chuyên môn GDQP và AN, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng giảng
dạy cho đội ngũ giảng viên.

16


Trung tâm thường xuyên phối hợp với các trường đại học cao đẳng bố trí,
sắp xếp thời gian học tập GDQP và AN cho sinh viên từng trường hợp lý, tránh
chồng chéo ảnh hưởng đến kế hoạch chung. Tổ chức GDQP và AN cho sinh viên
chặt chẽ, bảo đảm đúng số lớp học lý thuyết và thực hành.
Công tác đào tạo luôn được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ tổ chức dạy, học, kiểm tra, thi, công nhận kết quả
học tập và cấp chứng chỉ GDQP và AN cho sinh viên.
Thực hiện đúng quy chế tổ chức hoạt động của Trung tâm GDQP; quy chế tổ
chức dạy và học, đánh giá kết quả của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tăng cường công tác quản lý, rèn luyện sinh viên, thực hiện nghiêm túc các
chế độ trong ngày, trong tuần; xây dựng mơi trường văn hố qn sự; tổ chức các

hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao sơi nổi trong sinh viên; chống các
biểu hiện tiêu cực trong thi cử; chống các tệ nạn xã hội; bảo vệ an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội.
Bảo đảm an toàn tuyệt đối các hoạt động của cán bộ, giảng viên, sinh viên
khi tiến hành công tác GDQP và AN trong Trung tâm.
Đầu tư cơ sở vật chất cho dạy và học, nhất là cơ sở vật chất chuyên dùng
thiết bị hiện đại. Xây dựng thao trường kỹ thuật, chiến thuật phù hợp với tính chất,
đặc điểm và đối tượng đào tạo.
2.1.2.2. Về dạy học môn giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên.
Qua khảo sát bằng phỏng vấn trực tiếp, chúng tôi nhận thấy, thời gian qua
việc tổ chức dạy học môn GDQP và AN cho sinh viên được Trung tâm luôn coi
trọng, xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Trung tâm. Vì vậy lãnh
đạo, chỉ huy Trung tâm đã tiến hành nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và
học môn học GDQP và AN.
Lãnh đạo, chỉ huy Trung tâm xác định vấn đề then chốt quyết định tới chất
lượng, hiệu quả dạy học môn GDQP và AN là phải đổi mới phương pháp giảng dạy
theo hướng phát huy tính tích cực của người học. Thực tế, ngay từ đầu mỗi năm
học, Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã luôn quán triệt, triển khai thực hiện chỉ thị số 15

17


×