Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu một số đặc tính hoá sinh dược của lá cây roi đỏ (Syzygium Samarangensen (Blume) Merr Et perry) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 58 trang )

Luận văn Thạc sĩ sinh học

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

HÀ VIẾT CƢỜNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC TÍNH HOÁ SINH

DƢỢC CỦA LÁ CÂY ROI ĐỎ
(SYZYGIUM SAMARANGENSE (BLUME)
MERR ET PERRY) Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : SINH HỌC THỰC NGHIỆM
MÃ SỐ : 60.42.30
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI - 2010

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh của kinh tế và khoa học kỹ thuật khiến


cho cuộc sống của con người ngày càng được đáp ứng đầy đủ cả về vật chất và tinh
thần. Nhiều bệnh tật xuất hiện, lan rộng khó có thể kiểm soát và điều trị triệt để.
Đồng thời, xu hướng ăn uống thiên về các thức ăn chế biến sẵn, giàu chất dinh
dưỡng, ít chất xơ đã dẫn đến một số bệnh rối loạn trao đổi lipit, gluxit. Đó là nguyên
nhân dẫn đến nhiều bệnh về chuyển hóa, đặc biệt là beosp phì và đái tháo đường.
Béo phì, đái tháo đường hiện có ở tất cả các vùng, lãnh thổ trên thế giới. Tổ
chức Y tế thế giới (WHO)

: số người béo phì trên thế giới

đã lên

đến hơn 1,7 tỷ người. Hàng loạt các loại thuốc tổng hợp có tác dụng nhanh, hiệu
quả đã được sản xuất nhưng chúng thường có nhiều tác dụng phụ. Xuất phát từ thực
tế đó, Ủy ban chuyên gia của WHO đã khuyến nghị nên phát triển và sản xuất các
thuốc có nguồn gốc từ thảo dược vì đây là nguồn dược liệu có sẵn, có giá thành rẻ,
dễ sử dụng, ít tác dụng phụ và ít độc.
Việt Nam là quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, hệ thực vật rất đa
dạng và phong phú. Nhiều loài cây không chỉ có giá trị kinh tế mà còn có tác dụng
dược lý, được sử dụng lâu đời trong y học dân gian như bưởi, cam, chanh, đinh
hương, hương nhu… Việc nghiên cứu, khảo sát về thành phần hóa học và tác dụng
y dược của cây thuốc Việt Nam đang trở thành một hướng đáng quan tâm. Trong
các công trình nghiên cứu gần đây, giá trị dược liệu của một số loài thuộc họ Sim
(Myrtaceae) như mãng cầu, hạt điều đỏ, đinh hương… rất được chú ý. Roi đỏ
(Syzygium samarangence (Blume) Merr et Perry) thuộc họ Sim (Myrtaceae) là một
cây ăn quả quen thuộc và phổ biến ở Việt Nam. Cây trồng chủ yếu lấy quả. Quả
chín ngọt, dùng ăn tươi, làm mứt hoặc ngâm. Thành phần hóa học trong quả chứa
90% nước khoáng, cacbonhydrat, xơ, vitamin A, B1, B2, C, tannin. Do đó các bộ
phận này được sử dụng trong y học cổ truyền có tác dụng kháng khuẩn.


Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

3

Trước đây, cây Roi đỏ chỉ được biết đến là một cây ăn quả và chữa một số
bệnh liên quan đến kháng khuẩn. Song những kết quả nghiên cứu mới nhất về thành
phần hóa học trong cây Roi lại thấy rằng các hợp chất tự nhiên từ lá, vỏ loài thực
vật này có khả năng tác động tích cực lên quá trình trao đổi gluxit, lipit và tính năng
hoạt động của bệnh “gut” [7]
Tuy nhiên những nghiên cứu về khả năng chống béo phì và tiểu đường của loài
thực vật này chưa được cụ thể. Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu đặc tính sinh hóa dƣợc của lá cây Roi đỏ (Syzygium samarangense
(Blume) Merr.et Perry) ở Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
+ Nghiên cứu một số đặc tính hóa sinh dược của lá cây Roi đỏ (Syzygium
samarangence (Blume) Merr et Perry).
+ Nghiên cứu tác dụng của các phân đoạn dịch chiết lá cây Roi đỏ đến trọng
lượng và một số chỉ số hóa sinh của chuột béo phì thực nghiệm (BPTN).
+ Nghiên cứu tác dụng của các phân đoạn dịch chiết lá cây Roi đỏ đến chỉ số
glucose huyết của chuột đái tháo đường mô phỏng type 2.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tách chiết các phân đoạn từ lá cây roi đỏ qua các dung môi hữu cơ.
+ Khảo sát thành phần hoá học của lá cây Roi đỏ (định tính, định lượng
polyphenol).
+ Gây các mô hình chuột BPTN, chuột ĐTĐ type 2
+ Đánh giá tác dụng của các phân đoạn dịch chiết đến trọng lượng, một số chỉ số
lipid máu của chuột BPTN, nồng độ glucose huyết trên mô hình chuột ĐTĐ mô

phỏng type 2.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng
4.1.1. Mẫu thực vật

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

4

Lá cây Roi đỏ (Syzygium samarangence (Blume) Merr et Perry) được lấy
vào tháng 11 năm 2009 tại Hiệp Hòa, Bắc Giang. Phân loại theo tài liệu của Võ Văn
Chi.
4.1.2. Mẫu động vật.
Chuột nhắt trắng là chủng Swiss 4 tuần tuổi (14-16g) và thức ăn chuẩn do
Viện Vệ sinh Dịch tễ TW cung cấp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đặc tính sinh dược học của một số phân đoạn dịch chiết từ lá cây
Roi đỏ (Syzygium samarangence (Blume) Merr et Perry) trên mô hình chuột BPTN,
chuột béo phì gây ĐTĐ mô phỏng theo type 2.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp định tính thành phần hoá học của lá cây Roi đỏ.
5.2. Phương pháp phân lập các hợp chất bằng kĩ thuật sắc kí lớp mỏng.
5.3. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin- Ciocalteau.
5.4. Gây mô hình chuột thí nghiệm: Chuột BPTN, chuột ĐTĐ type 2.
5.5. Phương pháp định lượng một số chỉ số hoá sinh.
5.6. Phương pháp xử lý thống kê.
6. Những đóng góp mới của đề tài:

+ Đưa ra quy trình chiết, tách các phân đoạn dịch chiết từ lá cây Roi đỏ.
+ Phân lập một số hợp chất bằng sắc kí lớp mỏng, định tính và định lượng
một số hợp chất tự nhiên từ lá cây Roi đỏ.
+ Đánh giá được tác dụng của một số phân đoạn dịch chiết từ lá cây Roi đỏ
đến trọng lượng, một số chỉ số hoá sinh của chuột BPTN và tác dụng hạ glucose
huyết của các phân đoạn dịch chiết đó trên mô hình chuột béo phì ĐTĐ mô phỏng
theo type 2 do chất độc STZ liều thấp.

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

5

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Các hợp chất thứ sinh thực vật
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hợp chất thứ sinh thực vật
Hợp chất thứ sinh thực vật là các sản phẩm của các quá trình trao đổi chất
được sinh ra ở thực vật. Chúng là các chất hoá học được tổng hợp và chuyển hoá từ
các chất trao đổi bậc nhất như axit amin, axit nucleic, carbonhydrate, lipid, peptid,
hoặc từ các sản phẩm trung gian của chu trình đường phân, chu trình pentosephosphate, chu trình axit citric v.v... Khác với các chất trao đổi bậc nhất, giữ vai trò
trung tâm và tham gia trực tiếp vào các quá trình trao đổi chất của cơ thể, các hợp
chất thứ sinh thực vật không phải là các yếu tố đặc biệt cần thiết cho các quá trình
sinh trưởng, phát triển, quang hợp và sinh sản [11]. Chúng được tạo ra trong các tế
bào chuyên biệt với vai trò điều hoà mối quan hệ qua lại giữa các tế bào trong cơ
thể và là các hợp chất phòng thủ giúp thực vật chống chịu lại với các bệnh xâm
nhiễm thực vật đối với môi trường sống xung quanh [35].
Tuỳ thuộc vào cấu trúc hoá học và các thuộc tính lý học của chúng mà các
hợp chất thứ sinh thực vật được phân loại thành 3 nhóm chính là: nhóm tecpen,

nhóm các hợp chất phenolic và nhóm alkaloid.
1.1.1.1. Nhóm các hợp chất terpen
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình thành
từ quá trình polyme hoá các tiểu đơn vị isoprene 5 cacbon (C5H8), có công thức cấu
tạo chung là (C5H8)n. Trong thực vật terpen được tổng hợp thông qua con đường
trao đổi chất acetate/mevanolate hoặc con đường glyceraldehyde 3

-

phosphate/pyruvate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm hydrocacbon, tuy nhiên
chúng có thể bị khử hoặc bị oxi hóa để hình thành các hợp chất terpenoid khác nhau
như alcohol, ketone, acid và aldehyde. Vì vậy, một số tác giả sử dụng thuật ngữ
“terpen” để chỉ chung một nhóm lớn các hợp chất bao gồm cả terpen và terpenoid.
Terpen là thành phần chính của tinh dầu, được dùng trong công nghệ mỹ phẩm,

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

6

thực phẩm và dược phẩm. Những terpen bậc cao thường là các chất có hoạt tính
sinh học quan trọng.
1.1.1.2. Nhóm các hợp chất phenolic
Hợp chất phenolic là một nhóm lớn các hợp chất thực vật thứ sinh được tạo
ra thông qua các sản phẩm của con đường trao đổi chất shikimic acid, có chứa ít
nhất một vòng thơm mang một hoặc nhiều nhóm thế hydroxyl, phân bố rộng rãi
trong thực vật và có mặt ở khắp nơi trong tự nhiên [26]. Hiện nay đã có tới trên
8000 loại đã được nhận biết từ các nguồn khác nhau trong tự nhiên. Các hợp chất

phenolic có thể tồn tại ở dạng aglycon tự do, dạng ether, ester, dạng glycoside, dạng
phức hợp với protein, dạng carbohydrate hoặc các dạng khác.
Về phương diện hoá học, nhóm các hợp chất phenolic có thể được phân chia
thành 2 nhóm lớn là nhóm phenol đơn giản (simple phenol) và nhóm polyphenol.
Nhóm phenol đơn giản lại được chia thành 2 nhóm chính là nhóm phenolic acid và
nhóm coumarin. Nhóm polyphenol cũng được chia thành 2 nhóm chính là nhóm
flavonoid và nhóm tannin [23].
♦ Phân nhóm phenolic acid
Khái niệm phenolic acid trong thực vật để chỉ tất cả các hợp chất thực vật
thứ sinh có tối thiểu một nhóm hydroxyl phenolic, gần đây các nhà khoa học thường
giới hạn phân nhóm phenolic acid chỉ gồm các chất là dẫn xuất của acid benzoic
(C6-C1) và acid cinamic (C6-C3) [9].

Gallic acid

Procatechuic acid

Hình 1.1. Một số phenolic acid điển hình

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

7

♦ Phân nhóm coumarin
Coumarin là các dẫn chất của -pyrone có cấu trúc C6-C3, dị vòng chứa oxy
và có trong nhiều loại cây. Coumarin là những chất kết tinh không màu, hoặc có
màu vàng nhạt, vị đắng, một số lớn dễ thăng hoa, có mùi thơm giống như mùi thơm

của valinin hay của cỏ mới khô [6]. Về hoá học, coumarin có thể tồn tại trong cây ở
dạng aglycon tan nhiều trong các dung môi hữu cơ kém phân cực và dạng kết hợp
với đường glucose tạo thành glycoside dễ tan trong nước. Hiện nay đã có hơn 1500
loại coumarin khác nhau tồn tại trong tự nhiên trong 800 loài thực vật đã được nhận
dạng [5]. Trong cây, coumarin được coi là 1 trong số các chất “phòng thủ hoá học
hữu hiệu” giúp thực vật tránh được những bất lợi do môi trường và dịch bệnh gây
ra. Trong đời sống hằng ngày, coumarin được sử dụng làm nước hoa, hương liệu,
bán tổng hợp các chất hoá học khác nhau, đặc biệt là các chất chống đông máu và
chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học, tác dụng đáng chú ý của dẫn chất coumarin là
tác dụng chống co thắt, làm giãn nở động mạch vành, làm bền và bảo vệ thành
mạch. Nhiều chất coumarin có tính kháng khuẩn, một số khác có tác dụng kháng
viêm, kháng nấm, kháng khối u, trừ giun sán, giảm đau và hạ nhiệt.

Hình 1.2. Cấu trúc của Coumarin
♦ Phân nhóm Flavonoid
Flavonoid là một trong những nhóm hợp chất phenolic thường gặp trong tự
nhiên, chúng thường là những sắc tố, phần lớn có màu vàng (flavon, flavonol,
chancol), không màu (izoflavon, catechin), anthocyane thường có màu đỏ hoặc
vàng. Màu sắc của các flavonoid thay đổi theo pH của môi trường (Anthocyane có
màu đỏ trong môi trường acid, màu xanh trong môi trường kiềm). Trong cây,
flavonoid có thể tồn tại ở dạng tự do (aglycon) tan nhiều trong các dung môi hữu cơ
như ether, ethanol, acetone…, hầu như không tan trong nước và dạng liên kết với

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

8


đường gọi là các glycoside tan nhiều trong nước và hầu như không tan trong các
dung môi hữu cơ. Về hoá học, khung carbon của flavonoid là C6-C3-C6, gồm 15
nguyên tử carbon, 2 vòng benzene A và B nối với nhau qua vòng pyran C, trong đó
A kết hợp với C tạo thành khung chroman [21,22].
2'
8
7

9

1

10
5

2

B

1'

4'

C

A
6

3'


O

3

6'

5'

4

Hình 1.3. Flavan (2-phenyl chroman)
Flavonoid có thể tham gia vào nhiều phản ứng hoá học khác nhau như phản
ứng của nhóm hydroxyl (OH), phản ứng của vòng thơm (diazo hoá), phản ứng của
nhóm cacbonyl (phản ứng shinoza) và phản ứng tạo phức với kim loại [11 . Hiện
nay đã có hơn 4500 các loại flavonoid khác nhau tồn tại trong thực vật đã được
nhận dạng. Trong cây, flavonoid giữ rất nhiều vai trò mang chức năng sinh lý, sinh
thái có ý nghĩa sống còn như: điều chỉnh sự phân bố năng lượng ánh sáng ở lá cây
(flavonol, anthocyane), làm tăng hiệu quả quang hợp, bảo vệ cây tránh được những
bức xạ sóng ngắn, có tính kháng khuẩn, kháng nấm, giúp cây tránh được bệnh tật,
hấp dẫn động vật thụ phấn cho hoa…Trong y học, Flavonoid được sử dụng làm
thuốc để chữa trị nhiều loại bệnh khác nhau như: thuốc làm bền thành mạch, thuốc
chống oxy hoá, thuốc kháng viêm, chống nấm, chống dị ứng, chống ung thư v.v...
Ngoài ra còn rất nhiều các ứng dụng tiện ích khác phục vụ cho đời sống dân sinh.
Tuỳ theo mức độ oxy hoá của mạch 3 carbon, sự có mặt hay không có mặt
của nối đôi giữa C2, C3 và nhóm cacbonyl ở C4 mà Flavonoid có thể được chia
thành nhiều phân nhóm phụ khác nhau [38].

Hà Viết Cường - K12.SHTN



Luận văn Thạc sĩ sinh học

9

Hình 1.4. Một số nhóm flavonoid chính
♦ Phân nhóm Tannin
Tannin là những hợp chất phenolic rất phổ biến trong thực vật bậc cao.
Horvath (1981) đã đưa ra khái niệm về tannin như sau: “Tannin là những hợp chất
phenolic có trọng lượng phân tử cao, có chứa các nhóm hydroxyl và các nhóm chức
khác (như cacboxyl), có khả năng tạo phức với protein và các phân tử lớn khác
trong điều kiện môi trường đặc biệt” 6]. Về hoá học, tannin được cấu tạo dựa trên
acid tannic và acid gallic, phổ biến trong cây ở dạng tự do hoặc ở dạng glycoside
kết hợp với đường. Tannin thường là các hợp chất vô định hình, có màu trắng, màu
vàng nhạt hoặc gần như không màu, có hoạt tính quang học, có vị chát, dễ bị oxy
hoá khi đun nóng và khi để ngoài ánh sáng và có trọng lượng phân tử dao động từ
5.000 đến 20.000 [38]. Tannin tan nhiều trong nước (tốt nhất là trong nước nóng),
tan trong các dung môi hữu cơ như ethanol, hoà tan một phần trong axetone,
etylaxetat và hầu như không tan trong các dung môi kém phân cực như chloroform,
benzene …Tannin tạo phức màu đặc trưng với các kim loại nặng, tạo phức với
protein, tinh bột, cellulose và muối khoáng. Về tác dụng sinh học, tannin là các chất

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

10

bảo vệ cho cây trước sự tấn công của vi sinh vật gây bệnh, các loài động vật và côn
trùng ăn [33 . Về tác dụng y học, tannin được sử dụng làm thuốc cầm máu, thuốc

chữa đi ngoài, chữa ngộ độc kim loại nặng, thuốc chống ung thư, thuốc chữa trĩ,
viêm miệng, viêm xoang, điều trị cao huyết áp và chứng đột quỵ.

Procyanidin

Quebracho

Hình 1.5. Cấu trúc hoá học của tanin
1.1.1.3. Nhóm các hợp chất alkaloid
Alkaloid là những hợp chất chứa nitơ, không những chỉ có trong thực vật mà
còn có cả trong động vật. Nguyên tử nitơ có thể là một phần, hoặc không phải là
một phần của hệ thống dị vòng. Chúng có cấu trúc phân tử phức tạp, có hoạt tính
Sinh-dược rõ rệt và phân bố hạn chế trong giới thực vật. Hiện nay đã có hơn 12000
loại alkaloid khác nhau được phân lập. Trong cây, alkaloid tồn tại dưới 3 dạng:
dạng tự do, dạng muối của các axit phổ biến như citric, lactic, oxalic, axetic,
malic…và dạng oxit nitơ. Alkaloid không phổ biến rộng ở tất cả các loài thực vật
mà chỉ tập trung ở một số ít loài, chủ yếu được tìm thấy trong các loài thực vật có
hoa, nhưng chỉ có khoảng 20% số loài thực vật có hoa là có thể sản sinh ra alkaloid.
Đa số alkaloid không có mùi, vị đắng, một số ít có vị cay, ở dạng chất rắn có màu
trắng, trừ một vài chất có màu vàng (berberin, palmatin). Về vai trò sinh học, các
alkaloid được coi là một trong những “hàng rào phòng thủ hoá học hữu hiệu” bảo
vệ cây trước sự tấn công của vi sinh vật gây bệnh và các loại côn trùng, sâu bệnh ăn
lá [38]. Về y học, alkaloid được sử dụng rất đa dạng: làm thuốc gây ức chế, hoặc
kích thích hệ thần kinh trung ương, dùng làm thuốc điều hoà huyết áp, chữa loạn

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học


11

nhịp tim, thuốc diệt ký sinh trùng, kháng khuẩn, chống ung thư và nhiều tác dụng
quan trọng khác [5], [21]. Dưới đây là 3 dạng alkaloid điển hình:

Caffeine

Morphine

Nicotin

Hình 1.6. Các dạng alkaloid điển hình
1.1.2. Vai trò của các hợp chất thứ sinh thực vật
Các hợp chất thứ sinh có rất nhiều vai trò quan trọng, mang chức năng sinh
thái đặc biệt, giúp cho thực vật sống sót, phát triển và tồn tại:
- Giúp cơ thể chống lại bệnh tật, ký sinh trùng, các vi sinh vật gây nhiễm bệnh.
- Giúp cơ thể chống lại các yếu tố bất lợi trong quá trình sinh tồn.
- Tạo lợi thế cạnh tranh giữa các loài khác nhau.
- Với quá trình sinh sản: Nhiều sắc tố flavonoid đóng vai trò là chất dẫn dụ
động vật và côn trùng tham gia vào thụ phấn và phát tán hạt. [5], [21].
1.1.3. Ứng dụng của các hợp chất thực vật thứ sinh
- Công nghệ Y- Dược: rất nhiều hợp chất thứ sinh được sử dụng để sản xuất
nhiều loại thuốc điều trị các bệnh khác nhau như: quinin dùng làm thuốc trị sốt rét,
quinidin dùng làm thuốc trợ tim, daizein dùng làm thuốc chống ung thư…
- Công nghệ hoá thực phẩm: dùng làm gia vị, phẩm mầu, hương liệu…
- Công nghệ hoá mỹ phẩm: dùng làm nước hoa, xà phòng, mỹ phẩm…
- Sản xuất hàng tiêu dùng: dùng làm dung môi, keo dán, hàng dệt may…
- Sản xuất thuốc bảo vệ thực vật: thuốc trừ sâu, diệt côn trùng.[5], [21]

Hà Viết Cường - K12.SHTN



Luận văn Thạc sĩ sinh học

12

1.2. Bệnh béo phì
1.2.1. Khái niệm và phân loại béo phì
Theo tổ chức Y tế thế giới thì béo phì được định nghĩa là bệnh béo phì
(obesity) là tình trạng tích luỹ mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ
thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khoẻ [30]. Béo phì là tình trạng
không bình thường của sức khỏe có nguyên nhân dinh dưỡng không điều độ. Tổ
chức Y tế thế giới thường dùng chỉ số khối cơ thể viết tắt là BMI (Body Mass
Index) để nhận định về tình trạng gầy béo. BMI được tính theo công thức:

Trong đó: + W: Khối lượng của một người (kg)
+ H: Chiều cao của người đó (m)
Chỉ số BMI được WHO thống nhất là một tiêu chuẩn để chẩn đoán mức độ
béo phì và thừa cân. Tiêu chuẩn này có thay đổi tùy theo các vùng địa lý ở các châu
lục khác nhau.
≤ 23 (bảng 1):
Bảng 1.1. Phân loại BMI của ngƣời trƣởng thành Châu Âu và Châu Á
Mức độ thể
trọng
Nhẹ cân
Bình thường
Quá cân

BMI
Châu Âu

< 18,5
18,5 – 24,9
≥ 25-29,9

Béo phì độ I
Béo phì độ II

30-34,9
35-39,9

Béo phì độ III

≥ 40

Hà Viết Cường - K12.SHTN

Đánh giá yếu tố nguy cơ bệnh

Châu Á
Thấp, nguy cơ suy dinh dưỡng và các
bệnh khác
18,5-22,9 Bình thường
Nguy cơ tăng cân
23
>23-24,9 Nguy cơ cao của bệnh béo phì
25-29,9 Nguy cơ nặng của bệnh béo phì
< 18,5

>30


Nguy cơ rất nặng của bệnh béo phì


Luận văn Thạc sĩ sinh học

13

1.2.2. Thực trạng béo phì trên thế giới và ở Việt Nam
Theo tổ chức y tế thế giới, hiện nay số người bị béo phì trên thế giới đã lên
tới 1,7 tỉ người. Còn theo Hiệp hội Béo phì Mỹ, hiện nay có khoảng 60 triệu người
dân Mỹ bị béo phì, tăng gần gấp 3 lần so với năm 1991 (25 triệu người). Ở châu
Mỹ, Braxin cũng là nước có tỷ lệ người dân bị béo phì cao (16%), trong đó tỷ lệ
người trên 20 tuổi chiếm 40% dân số.
Trong khi đó, ở châu Á, theo báo cáo của chính phủ Trung Quốc, tốc độ gia
tăng tình trạng béo phì đã lên tới 97% trong năm qua. Tổ chức dinh dưỡng chính
thức đầu tiên của Trung Quốc công bố có hơn 20% số người thừa cân và béo phì.
Điều tra mới nhất của Viện dinh dưỡng (2007) cho thấy tình trạng thừa cân,
béo phì ở người Việt nam đang tăng nhanh, trong đó tỷ lệ béo phì ở người trưởng
thành (từ 25-64 tuổi) lên tới 16,8%. Tỷ lệ bệnh béo phì ở nam giới tuổi ngoài 30 là
6- 8%, ở nữ giới trên 40 tuổi là 12%.Theo Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Nguyễn
Công Khẩn, kết quả khảo sát cũng cho thấy tình trạng thừa cân, béo phì tăng nhanh
nhất ở lứa tuổi từ 45 trở lên (chiếm 2/3 số người bị thừa cân, béo phì) và tỷ lệ béo
phì ở người dân thành thị cao gấp 3 lần so với nông thôn. Đây thật sự là mối đe doạ
tiềm ẩn trong tương lai, ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của mỗi người.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra béo phì
Yếu tố di truyền: yếu tố di truyền có thể có một vai trò nhất định đối với
những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo. Tuy nhiên nhìn trên đa số cộng đồng yếu
tố này không lớn mà chủ yếu do cách sống cũng như ăn uống của cha mẹ.[30]
Khẩu phần ăn và thói quen ăn uống: Năng lượng đưa vào cơ thể qua thức ăn,
thức uống được hấp thụ và được oxy hoá để tạo thành năng lượng. Năng lượng ăn

quá nhu cầu sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ. Chế độ ăn nhiều chất béo (lipit) có liên
quan chặt chẽ với gia tăng tỉ lệ béo phì. Thói quen ăn nhiều mỡ, nhiều đường, ăn
nhiều món xào, rán, ăn đồ ăn nhanh và đặc biệt là thói quen ăn nhiều vào bữa tối là
những nguyên nhân gây nên tình trạng béo phì.

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

14

Hoạt động thể lực kém: Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỉ lệ béo phì đi
song song với sự giảm hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian
dành cho xem tivi, đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại
nhiều hơn. Những người hoạt động thể lực nhiều thường ăn thức ăn giàu năng
lượng, khi họ thay đổi lối sống, hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ăn nhiều nên bị
béo phì. Điều này giải thích hiện tượng béo phì ở các vận động viên sau khi giải
nghệ và người lao động chân tay sau khi về hưu.
Yếu tố kinh tế xã hội: Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng
lớp nghèo thường thấp (thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó
khăn) và béo phì thường được coi là một đặc điểm của giàu có. Ở nhiều nước, tỉ lệ
người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung niên và chống béo phì trở thành
mục tiêu sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Ở Việt Nam tỉ lệ người béo có khuynh
hướng gia tăng nhanh nhất là ở các đô thị.
1.2.4. Tác hại và những nguy cơ của bệnh béo phì

. Một số tác hại và nguy cơ cụ thể như:

.


.

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

15

.

. Đồng thời tỷ lệ tử vong cũng
cao hơn, nhất là trong những bệnh kể trên.
1.2.5. Giải pháp phòng và điều trị béo phì
1.2.5.1. Phòng ngừa bệnh
Nguyên tắc cần thiết để tránh béo phì là thực hiện một chế độ ăn uống hợp lý
cũng như hoạt động thể lực đúng mức để có thể duy trì trạng thái cân nặng ở mức
ổn định. Cụ thể là:
+ Luôn duy trì một chế độ ăn cân đối giữa các chất đường, béo và chất xơ,
vitamin, ăn nhiều rau quả…
+ Duy trì một chế độ rèn luyện thể lực hợp lý kết hợp với lối sống năng
động.
1.2.5.2. Điều trị bệnh
Đối với bệnh nhân béo phì có thể kết hợp với sử dụng thuốc hoặc phẫu thuật.
♦ Sử dụng thuốc: đối với bệnh nhân có BMI lớn hơn 27 và có các vấn đề về
sức khỏe, cần phải giảm cân mới cải thiện được. Một số loại thuốc phổ biến hiện
nay như:
+ Metformin: giảm mỡ máu dẫn đến giảm trọng lượng. Tác dụng phụ: buồn
nôn, tiêu chảy, gây toan máu...

+ Orlistat: ức chế lipase và sự hấp thu mỡ ở ruột. Tác dụng phụ: làm suy
giảm khả năng hấp thụ vitamin tan trong mỡ.
+ Caffeine, ephedrine: ức chế sự thèm ăn...

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

16

♦ Phẫu thuật: đối với bệnh nhân có BMI trên 35, kèm theo các bệnh lý và rối
loạn liên quan. Phẫu thuật mang lại hiệu quả lớn (nhiều người giảm được 50% trọng
lượng sau 1-2 năm). Tuy nhiên nó cũng gây ra một số tác dụng phụ như suy nhược,
khô da, rụng tóc tạm thời.
1.2.6. Rối loạn trao đổi lipid máu

(cholestero

.

). Đã có những nghiên cứu
chứng minh rằng nhưng người béo phì có nguy cơ mắc các bệnh về rối loạn lipid
máu cũng như xơ vữa động mạch cao hơn so với người bình thường. Để xác định
tình trạng rối loạn lipid máu người ta thường dựa vào một số chỉ số hóa sinh cơ bản
như: cholesterol máu, TG (triglycerid), LDLc (low density lipoprotein- lipoprotein
có tỷ trọng thấp), HDLc (high density lipoprotein- lipoprotein có tỷ trọng cao).
Cholesterol máu có vai trò rất quan trọng đối với con người: là thành phần
cấu trúc của các màng tế bào và là tiền chất để tổng hợp acid mật và các hormon
steroid (hormon của tuyến thượng thận, hormon sinh dục …). Cholesterol được

cung cấp từ hai nguồn là từ gan sản xuất ra (khoảng 80% nhu cầu của cơ thể) và do
thức ăn cung cấp. Ở người bình thường, hàm lượng cholesterol máu luôn tương đối
ổn định. Khi vì một lý do nào đó khiến hàm lượng cholesterol tăng quá cao sẽ dẫn
đến hiện tượng tăng mỡ máu.
Thực chất cholesterol không thể hòa tan trong máu. Do đó khi lưu thông
trong cơ thể chúng được bao quanh bởi một lớp “áo” protein (gọi là lipoprotein). Có
hai loại lipoprotein quan trọng là lipoprotein tỉ trọng thấp gắn kết cholesterol
(LDLc) và lipoprotein tỉ trọng cao gắn kết cholesterol (HDLc). LDLc có vai trò vận

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

17

chuyển và phân phối cholesterol cho các tế bào, khi hàm lượng LDLc cao sẽ khiến
cho thành động mạch bị đóng mỡ gây xơ vữa thành mạch nên chúng được gọi là các
cholesterol “xấu”. Còn HDLc có vai trò lấy cholesterol ra khỏi mạch máu và ngăn
không cho chúng xâm nhập vào thành động mạch và được gọi là các cholesterol
“tốt” [20].
Ngoài cholesterol, một chỉ số khác cũng liên quan đến hiện tượng rối loạn
lipid máu là triglyceride (TG). Chúng được cung cấp từ thức ăn. Sự sinh tổng hợp
TG nội sinh diễn ra ở gan và mô mỡ. Trong các mô mỡ, chúng là nguồn năng lượng
dự trữ chính của cơ thể. Ở những người béo phì, nồng độ acid béo tự do và TG
thường tăng cao trong máu gây ra hiện tượng “nhiễm độc mỡ”.
1.3. Bệnh đái tháo đƣờng (Diabetse mellitus)
1.3.1. Khái niệm.
Đái tháo đường (ĐTĐ- Diabetes mellitus) là một căn bệnh liên quan đến rối
loạn chuyển hóa đường, đạm, mỡ, các khoáng chất với biểu hiện chung nhất là tăng

nồng độ glucose huyết mãn tính do tình trạng thiếu hụt insullin tuyệt đối hay tương
đối. Những rối loạn về chuyển hóa này có thể dẫn đến những biến chứng cấp tính
hay mãn tính như hôn mê và tử vong trong một thời gian ngắn hoặc có thể gây ra
những biến chứng như tổn thương mạch máu, biến chứng thần kinh, tim mạch …
1.3.2. Phân loại.
Theo phân loại của tổ chức Y tế thế giới (1997), bệnh đái tháo đường được
chia thành ba loại sau:
+ Đái tháo đường type 1: là dạng đái tháo đường phụ thuộc vào insulin, thông
thường xuất hiện ngay từ khi trẻ tuổi. Đây là dạng bệnh tự miễn, hệ thống miễn dịch
của cơ thể sinh ra các kháng thể chống lại và phá hủy tế bào β của đảo tụy sản xuất
ra insulin làm ngừng trệ hoàn toàn khả năng sản xuất insulin của cơ thể. Sự thiếu
hụt insulin dẫn đến tăng glucose máu và thường dẫn đến các biến chứng lâu dài.
Bệnh thường gặp ở người gầy còm, trẻ tuổi, đặc biệt là có thể ở cả trẻ em trên 2 tuổi

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

18

do yếu tố di truyền. Để tồn tại người bệnh bắt buộc phải tiêm insulin hàng ngày và
phối hợp chế độ thuốc với chế độ ăn hằng ngày và mức độ hoạt động thể lực.
+ Đái tháo đường type 2: là dạng đái tháo đường không phụ thuộc vào insulin.
Nguyên nhân của bệnh có thể là do sự kháng insulin (tế bào đích không thể tiếp
nhận được tín hiệu của insulin do sai hỏng trong thụ thể) hoặc có thể do suy giảm
chức năng của tế bào β của đảo tụy. Trong đái tháo đường type 2 người ta có chia
thành đái tháo đường type 2 thể béo phì và đái tháo đường type 2 không béo phì
+ Đái tháo đường thai kì: Do mang thai nên có biểu hiện như đái tháo đường.
Bệnh này có thể khỏi sau khi đẻ.

1.3.3 Thực trạng ĐTĐ trên thế giới và Việt Nam
Theo công bố của Tổ chức y tế thế giới WHO, năm 1985 trên thế giới mới có
khoảng 30 triệu người mắc bệnh đái tháo đường nhưng đến năm 1994 con số này đã
lên đến 98.9 triệu người và theo dự báo, đến năm 2010 thế giới sẽ có khoảng 215.6
triệu người mắc phải căn bệnh này và đến năm 2020 con số này có thể lên đên 300350 triệu người, chiếm 5% dân số thế giới [1]. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở châu Á vượt
xa châu Âu, trong khi có khoảng 5% số người trưởng thành ở châu Âu mắc bệnh thì
ở châu Á là từ 10-12%, và ở những những quốc gia thuộc khu vực Thái Bình
Dương thì tỷ lệ này là 30-40%.
Ở Việt Nam hiện đã có những tài liệu công bố về dịch tễ học của bệnh đái tháo
đường trên phạm vi toàn quốc. Năm 1991, tỉ lệ người mắc bệnh đái tháo đường ở ở
Hà Nội là 1.1%, Huế là 0.96% trong khi ở thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ này là
2.3%. Đến năm 2002, tỷ lệ bệnh ĐTĐ trên cả nước là 2,7%; riêng tại các thành phố,
tỷ lệ mắc bệnh là 4,4%; và hiện nay có khoảng 2 triệu người mắc bệnh ĐTĐ những
có đến 65% trong số đó không biết mình bị mắc căn bệnh này. Trong 10 năm qua,
số bệnh nhân ĐTĐ đã tăng 3-4 lần ở khu vực thành thị, còn ở khu vực nông thôn
trước đây thường rất ít thì nay bệnh đã trở nên phổ biến.

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

19

1.3.4. Cơ chế sinh bệnh ĐTĐ
1.3.4.1. Cơ chế sinh bệnh ĐTĐ type 1
Nguyên nhân chính của ĐTĐ type 1 là do tế bào

của đảo tuỵ Langerhan bị


phân huỷ mất khả năng sản xuất insulin, một hormon điều hoà nồng độ glucose
máu. Quá trình huỷ hoại các tế bào

này là do cơ chế bệnh tự miễn dịch. Khoảng

18 vùng gene có liên quan đến nguy cơ tiểu đường type 1. Mỗi vùng ở những vùng
này có thể chứa vài gene được gắn nhãn hiệu IDDM1 đến IDDM18. Ngoài ra, các
yếu tố môi trường cũng đóng vai trò khởi động quá trình bệnh lý [24] như virut
(Coxsackie B, Cytomegalovirut, Echo, Epstein – Bar…), thức ăn (sữa bò, cafein…)
điều kiện sống (stress, thường xuyên tiếp xúc với các độc chất với tế bào

như

vascor..)
Khi tác nhân môi trường tác động, lúc này hệ thống miễn dịch được hoạt
động hoá, tấn công vào các tiểu đoạn tuỵ [1, 5]. Mặc dù diễn biến lâm sàng yên
lặng, nhưng bên trong cơ thể, các tiểu đạo đã bị thâm nhiễm các bạch cầu đơn nhân,
các đại thực bào và các tế bào lympho T độc hoạ hoá. Quá trình thâm nhiễm này gọi
là viêm đảo tuỵ (insulintis), diễn tiến kéo dài. Khi tế bào

tuyến tuỵ chưa bị phá

huỷ nhiều, lượng insulin máu vẫn đủ cho nhu cầu hoạt động cơ thể, thì lâm sàng
chưa biểu hiện gì, đây gọi là giai đoạn ĐTĐ. Giai đoạn này có thể ngắn hoặc dài tuỳ
từng cá thể. Khi tế bào

bị phá huỷ càng nhiều, lượng insulin sản xuất ra không

đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động cơ thể, glucose huyết sẽ tăng lên, và lúc này biểu
hiện bệnh rõ ràng.

1.3.4.2. Cơ chế sinh bệnh của ĐTĐ type 2
Mặc dù ĐTĐ type 2 thường gặp hơn (chiếm 80 – 90% tổng số bệnh nhân
ĐTĐ) cà có tính quy tụ gia đình [25]. Hai yếu tố đóng vai trò quan trọng trong cơ
chế sinh bệnh của ĐTĐ type 2 là khiếm khuyết chức năng tế bào

tuyến tuỵ và

hiện tượng kháng insulin [21, 34]. Kháng insulin và khiếm khuyết chức năng tế bào
tuyến tuỵ là hai yếu tố tác động qua lại lẫn nhau. Khiếm khuyết chức năng bài

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

20

tiết insilin có thể làm xuất hiện hiện tượng kháng insulin, hoặc ngược lại [29, 38].
Giữa hai yếu tố này, yếu tố nào chiếm ưu thế và yếu tố nào xuất hiện trước cho đến
nay vẫn chưa xác định được. Cùng với yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, sinh
hoạt, béo bệu… thúc đẩy làm phát sinh và phát triển bệnh [28]
Sinh bệnh học của ĐTĐ type 2 diễn tiến qua 3 giai đoạn [9]:
+ Giai đoạn 1: Mặt dù nồng độ glucose trong máu vẫn có mức bình hường, nhưng
có hiện tượng kháng insulin vì mức insulin tăng cao hơn mức bình thường trong máu.
+ Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần và xuất hiện
tăng gluocse sau bữa ăn.
+ Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi, nhưng bài tiết insulin suy
giảm và gây tăng glucose huyết lúc đói, bệnh ĐTĐ biểu hiện ra bên ngoài.
Béo phì là một trong những yếu tố môi trường đóng vai trò thúc đẩy sự
phát triển bệnh được đề cập nhều nhất, chính béo bệu làm gia tăng tình trạng kháng

insulin [28, 29]. Nhiều bằng chứng cho thấy các biện pháp giảm béo bệu cũng làm
giảm đáng kể tình trạng kháng insulin và kiểm soát tốt glucose huyết.
1.3.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ đã được các chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới
đưa ra lần đầu tiên năm 1965. Sau nhiều lần sửa đổi, năm 2005, Tổ chức y tế thế giới
và Tổ chức ĐTĐ quốc tế đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ mới nhất như sau [1]:
Bảng 1.2. Tiêu chí của Tổ chức y tế thế giới WHO về chẩn đoán ĐTĐ

Kết luận
Đái tháo đường

Đƣờng huyết
lúc đói
>7 mmol/l

Đƣờng huyết 2 giờ sau
khi làm nghiệm pháp
tăng đƣờng huyết

Đƣờng huyết tại
thời điểm bất kì

>11,1 mmol/l
>11,1 mmol/l

Rối loạn dung
nạp đường

>5,6 mmol/l


>7,8 mmol/l

và <7 mmol/l

và <11,1 mmol/l

Bình thường

< 5,6 mmol/l

<7,8 mmol/l

Hà Viết Cường - K12.SHTN

kèm triệu chứng
uống nhiều, đái
nhiều và gầy sút.


Luận văn Thạc sĩ sinh học

21

1.3.6. Các thuốc điều trị ĐTĐ
Dựa vào tác dụng và cơ chế tác dụng, các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ được chia
thành 3 nhóm chính:
- Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như sulfonylurea, nateglinid
- Các thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: các biguanid,
các thuốc nhóm thiazolidinedion.
- Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn, thuốc ức chế enzyme


-

glucosidase như: acarbose.
1.3.7. ĐTĐ với y học cổ truyền
Theo quan niệm của Đông y thì bệnh ĐTĐ thuộc phạm vi chứng tiêu khát,
với ba triệu chứng chủ yếu là ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều. Do ăn nhiều các
chất cay, béo, ngọt làm mất cân bằng âm dương trong cơ thể, tạo thành hoả nhiệt,
uất nhiệt, làm phần âm của phủ tạng như âm, vị, thận bị hao tổn. Hoả nhiệt làm phế
hư gây chứng tiêu khát, vị âm gây chứng gầy đói, thận âm hư gây tiểu nhiều và tiểu
ra đường. Xuất phát từ quan niệm trên nên phương pháp điều trị chủ yếu là dưỡng
âm, thanh nhiệt sinh tân dịch làm cơ sở để lập lại cân bằng âm dương trong cơ thể.
Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ của Đông y chủ yếu là các thuốc có nguồn gốc từ
dược liệu như Sinh địa, Cỏ ngọt, Mướp đắng, Hoàng kỳ, Huyền sâm [2,12]…
1.4. Vài nét về cây Roi đỏ (Syzygium samarangense)
1.4.1. Đặc điểm sinh học
Cây Roi đỏ có tên khoa học là Syzygium samarangense thuộc họ Sim
Myrtaceae. Cây gỗ cao 5-15m, nhánh non hơi vuông, dẹp. Lá có phiến to hình bầu
dục, dài 10-25cm, rộng 6-12cm; gốc tròn hay hơi tim; gân mép 2; cuống 4-8cm.
Ngù hoa 3-30 hoa ở ngọn hay ở nách lá rụng; hoa có đường kính 3-4cm; đài có ống
đài 10-15mm, màu vàng trắng; nhị nhiều; bầu dưới; vòi nhụy xanh dài. Quả mọng,
màu đỏ tới trắng dài 3,5-5,5cm; hạt 1-4, màu nâu; ra hoa quanh năm. Cây phổ biến

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

22


ở vùng Đông Nam Á. Ở nước ta, chúng thường được trồng ở các vùng đồng bằng,
trồng lấy quả [2, 12].

Hình 1.7. Lá và quả cây Roi đỏ
1.4.2. Thành phần hóa học và công dụng
Trong 100g quả roi ăn ta có được: 90% là nước khoáng, 0,3g protein, 3,9g
cacbonhydrat, 1g xơ, vitamin A 253IU, vitamin B1 và B2 vết, vitamin C 0,1mg.
Nhiều bộ phận của cây (lá, vỏ, rễ) có tannin. Cây trông lấy quả ăn. Quả chin ngọt,
thường dung ăn tươi, làm mứt hoặc ngâm. Nhiều bộ phận của cây (lá, rễ, vỏ) được
dùng trong y học cổ truyền có tác dụng kháng khuẩn.

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

23

CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Mẫu thực vật
Lá cây Roi đỏ (Syzygium samarangense) được thu vào tháng 11 năm 2009
tại Hiệp Hòa, Bắc Giang, được phân loại theo tài liệu của Võ Văn Chi.
Xử lý mẫu: Lá được đem sấy khô, nghiền nhỏ. Tiến hành ngẫm mẫu với
ethanol 900 ở nhiệt độ phòng (quá trình chiết được lặp lại ba lần). Hỗn hợp này
được lọc qua giấy lọc. Phần nước lọc được li tâm ở 10.000 vòng trong 10 phút để
loại bỏ cặn. Dịch chiết ethanol được cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được
cao ethanol, sau đó được xử lý tiếp tục với các loại dung môi hữu cơ khác nhau như
n-hexan, chloroform, ethylacetate để thu được các cao phân đoạn khác.
2.1.2. Mẫu động vật

Chuột nhắt trắng là chủng Swiss 4 tuần tuổi (14-16g), do Viện Vệ sinh Dịch
tễ TW cung cấp. Chuột được nuôi trong phòng điều hoà nhiệt độ ở 22 20C với chu
kì ngày 12h và đêm 12h.
2.1.3. Hoá chất và dụng cụ thí nghiệm
Các dung môi tách chiết (n-hexan, chloroform, ethylacetate) của hãng hoá
chất Trung Quốc, các dung môi và hoá chất phân tích (STZ, bản mỏng Silicagel...)
của hãng hoá chất Sigma (Mỹ), Merk (Đức).
Máy cô thu hồi dung môi, máy đo quang phổ UV-vis 1000 (Mỹ), máy ly tâm
(Sigma, Mỹ), máy đo đường huyết (Onetouch Ultra, Mỹ)... và các dụng cụ thí
nghiệm cần thiết khác.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phƣơng pháp tách chiết mẫu nghiên cứu
Lá cây Roi đỏ được thu hái, rửa sạch và sấy khô và ngâm kiệt 3 lần trong
ethanol 80%. Dịch chiết thu được lọc qua giấy lọc rôi cô loại dung môi thu được

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

24

cao ethanol. Từ cao ethanol, hòa trong nước cất nóng rồi chiết lần lượt qua các dung
môi có độ phân cực tăng dần là n-hexan, CHCl3, EtOAc thu được dịch chiết các
phân đoạn tương ứng. các dịch chiết này được cô đuổi dung môi thu được cao cá
phân đoạn: n-hexan, CHCl3, EtOAc, và cao phân đoạn nước.
2.2.2. Khảo sát thành phần hóa học của lá cây Roi đỏ.
Để bước đầu đánh giá thành phần hoá học có trong dịch chiết từ lá cây Roi
đỏ, làm cơ sở cho các bước thí nghiệm tiếp theo, chúng tôi tiến hành các phương
pháp phân tích như định tính thành phần hoá học các hợp chất tự nhiên bằng các

phản ứng hoá học đặc trưng, và sắc kí bản mỏng
2.2.2.1. Định tính thành phần hoá học các hợp chất tự nhiên bằng các phản
ứng hóa học đặc trƣng
- Định tính flavonoid: Pha mẫu thử trong ethanol với một lượng thích hợp, thêm
vài giọt HCl đặc vào, ta có dung dịch mẫu.
+ Phản ứng Shinoda: cho dung dịch mẫu vào hai ống nghiệm: ống 1 làm đối
chứng, ống 2: cho một vài mảnh Mg, đun trên nồi cách thủy vài phút. Phản ứng
dương tính khi trong ống nghiệm xuất hiện màu hồng, đỏ hay da cam.
+ Phản ứng với acid sunfuric đặc: cho dung dịch mẫu vào hai ống nghiệm:
ống 1 làm đối chứng, ống 2: cho vài giọt H2SO4đ. Phản ứng dương tính khi trong
ống nghiệm xuất hiện màu vàng đậm (flavon hoặc flavonol), màu đỏ hoặc nâu
(chalcon hoặc auron).
- Định tính tannin: mẫu thử cũng pha như trên.
+ Phản ứng với gelatin/NaCl: Cho vài giọt thuốc thử vào 1ml dung dịch mẫu,
phản ứng dương tính khi trong dung dịch xuất hiện tủa.
+ Phản ứng với acetate chì: cho vài giọt dung dịch acetate chì 10% vào dung
dịch mẫu, phản ứng dương tính khi xuất hiện kết tủa.
- Định tính các pholyphenol khác: mẫu thử cũng pha như trên

Hà Viết Cường - K12.SHTN


Luận văn Thạc sĩ sinh học

25

+ Phản ứng với dung dịch kiềm: cho dung dịch mẫu vào hai ống nghiệm: ống
1 làm đối chứng, ống 2: cho vài giọt NaOH 10%. Phản ứng dương tính khi trong
ống nghiệm xuất hiện màu vàng hoặc da cam.
+ Phản ứng với FeCl3: cho dung dịch mẫu vào hai ống nghiệm: ống 1 làm

đối chứng, ống 2: cho vài giọt dung dịch FeCl3 trong HCl 0,5N. Phản ứng dương
tính khi trong ống nghiệm xuất hiện màu lục, tía, xanh đen hay đen.
- Định tính glycoside (Phản ứng Keller-Killian)
+ Thuốc thử: Dung dịch A: 0,5ml FeCl3 5% + 50ml axit acetic 10%
Dung dịch B: 0,5ml FeCl3 5% + 50ml axit sunfuric đặc
+ Phương pháp: Cho cặn dịch chiết vào ống nghiệm. Thêm 1ml dung dịch A
lắc cho tan hết mẫu, nghiêng ống nghiệm từ từ cho dung dịch B vào. Phản ứng
dương tính khi xuất hiện vòng nâu đỏ giữa 2 lớp chất lỏng.
- Định tính alkaloid: Mẫu thử được pha trong dung dịch axit acetic 2% với một
lượng thích hợp để làm các phản ứng
+ Phản ứng với thuốc thử Bouchardat (hỗn hợp KI và I2 trong dung dịch
HCl): Phản ứng dương tính khi cho kết tủa mầu nâu sẫm
+ Phản ứng với thuốc thử Vans-Mayer (10g HgCl2 +40g KI trong 1000ml
nước cất): phản ứng dương tính khi cho kết tủa mầu trắng hay vàng nhạt
+ Phản ứng với thuốc thử Dragendorf (hỗn hợp của Bi(NO3)3 và KI trong
dung dịch acid acetic): phản ứng dương tính khi cho kết tủa màu da cam hoặc đỏ.
2.2.2.2. Sắc ký lớp mỏng.
Để cụ thể hóa kết quả định tính, chúng tôi tiến hành sắc ký trên bản mỏng
tráng sẵn Silicagel 60F254. Hệ dung môi chạy sắc ký là TEAF (toluen/ ethylacetate/
aceton/acid formic = 5/3/1/1). Hiện màu bằng dung dịch H2SO4 10% .
Xác định hệ số Rf theo công thức: Rf = a/b
Trong đó: a: khoảng di chuyển của chất nghiên cứu

Hà Viết Cường - K12.SHTN


×