Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận cao học môn các chuyên đề kinh tế kinh tế tri thức và vấn đề đẩy mạnh công CNH hđh ở việt nam liên hệ với thực tế phát triển ở TP thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.38 KB, 21 trang )

MỞ BÀI
Nếu như thế kỷ XX trong lịch sử Việt Nam là “thế kỷ của những biến
đổi to lớn và sâu sắc, thế kỷ đấu tranh gian nan oanh liệt giành lại độc lập
tự do thống nhất Tổ quốc, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại” (1), thì bước vào thế kỷ XXI sứ mệnh thiêng liêng
của toàn dân tộc chúng ta là phải tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Là một quốc gia có truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời, có quá
trình liên tục đấu tranh để vươn lên làm chủ cuộc sống trước thiên nhiên
khắc nghiệt và nhiều thế lực ngoại xâm hung bạo, bản thân lịch sử dân tộc
Việt Nam chính là những bài học vô cùng quý báu để giáo dục cho thế hệ
trẻ lòng yêu nước, tinh thần tự lực tự cường, khát vọng vươn lên vượt khó
để xứng đáng với quá khứ hào hùng và vinh quang của thế hệ đi trước. Hơn
thế nữa, sức mạnh của tri thức lịch sử không chỉ giới hạn ở chỗ giúp cho
những thế hệ hôm nay, ngày mai có hiểu biết đầy đủ về qúa khứ, mà còn
làm cho người đang sống có ý thức về xã hội, biết suy nghĩ cảm thụ những
gì đã xảy ra trong qúa khứ để có trách nhiệm với hiện tại và trong tương lai.
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy
"từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như
công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... trong giai đoạn 2005 2010 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc
tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri
thức Vì vậy em quyết định chọn đề tài “Kinh tế tri thức và vấn đề đẩy
mạnh công CNH-HĐH ở Việt nam. Liên hệ với thực tế phát triển ở
TP.Thái Nguyên” để làm đề tài nghiên cứu của mình.

1


NỘI DUNG


Chương I. Kinh tế tri thức
1.1. Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau
ở mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng
mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời
tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai,
lao động thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện
và phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy
móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng
hóa của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan
trọng hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm
năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô
nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường
xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
xuất hiện và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất
mới và vô cùng phong phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết
tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành
dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với
máy móc thông minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán)
mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới
một hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri
thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động
lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất
cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri
thức và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính
2



thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản
xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng
vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là
động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản
xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế
tri thức là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX,
dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi
mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là
máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những
chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài
toán rất phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong
một số việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của
sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết
hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như:
công nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin
và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của
lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới
đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
1.2. Kinh tế tri thức và vấn đề công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
a). Định hướng của Đảng cộng sản Việt nam về phát triển kinh tế
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác về sự vận động và phát
triển xã hội bao gồm 4luận điểm cơ bản:
Thứ nhất: sản xuất vật chất là nền tảng cơ sở của đời sống xã hội
Thứ hai: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Thứ ba: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

3


Thứ tư: sự phát triển của các hình thái xã hội là luận điểm của lịch sử
tự nhiên
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986 cùng với việc từng bước
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng
lực lượng sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ
quan điểm mới về công nghiêp hoá, hiện đại hoá. Quan điểm mới cũng là
kết quả tổng kết thực tiễn rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước
đây kết hợp với sự nghiên cứu học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế
giới và thời đại. Cuối thế kỷ XX Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra CNH –
HĐH không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về cơ
bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau là một quá trình thống nhất có thể nói là
công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá.
Nghị quyết đại hội Trung ượng 7 Khoá 7 của Đảng ta (năm 1994)
chỉ rõ: “ CNH –HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản , toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao
Coi sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ( năm 1996) khi
thong qua đường lối CNH – HĐH Đảng ta nhấn manh: “ mục tiêu của
CNH – HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và

tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng văn minh”.Tại đại hội Đảng này, Đảng ta cũng xác định rõ mục
4


tiêu: “ phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp” cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10
năm đổi mới, sự xác định rõ ràng về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi
cho nước ta đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Bước vào thế kỷ 21 bối cảnh trong nước và quốc tế có những thay
đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(năm 2001) của Đảng nhận định: “thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi,
khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò
ngày càng nổi bật, có vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy nhận thức của Đảng ta về CNH – HĐH
đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH –
HĐH ở nước ta có thể rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn 2001 – 2010 được thông qua tại đại hội IX xác định: “con đường
CNH – HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, phát triển những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công
nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều
hơn ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và
công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức”
Như vậy ngay từ khi tiến hành đổi mới thông qua các kỳ đại hội
Đảng ta đều xác định thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá phải gắn liền
với phát triển kinh tế tri thức. Điều này đã trở thành tôn chỉ định hướng rõ
ràng sự phát triển của nước ta.
b). Những quan điểm, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện vào những năm 60 - 70 của thế kỷ
trước tại các nước công nghiệp phát triển cao. Lúc đó tại những nước này
công nghiệp hiện đại công nghệ cao đã chiếm tỷ trọng với số lao động tri
thức đã vượt trên 50% tổng số lao động.
5


Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển,
tuy chưa có công nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội
nhập kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực
thích hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.
Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang
phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để
tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát
triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành
máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông, intermet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là
phát triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại
hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp và xây dựng, nông
nghiệp, dịch vụ. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu

tố quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức,
kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức
mới nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc
để xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công
nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
6


Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập
trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách
kinh tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu
quả những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh
nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả,
tránh phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần
tăng sức cạnh tranh.
Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và
chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh
tranh cao.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các
doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư
vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo
những mục tiêu đã xác định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho thông
tin, tri thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng
và thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng tạo ra công nghệ
cao mới.
Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và
truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn
đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri

thức.
c).Những đặc điểm chủ yếu của CNH - HĐH ở nước ta
CNH - HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung và hình
thức,quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc
thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm:
Thứ nhất: Quá trình CNH - HĐH ở nước ta là một quá trình rộng
lớn phức tạp, toàn diện, có nghĩa là nó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước
7


nhảy vọt,kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều
sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biến đổi về chất… của các tác nhân
tham gia quá trình. mục tiêu của CNH - HĐH mang tính bao trùm rất cao,
theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại,nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một
nước dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ, văn minh”
Thứ 2: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong công
nghiệp hoá rồi mớitiến hành hiện đại hoá,mà phải thực hiện đồng thời và
đồng bộ cnd và hđh như một quá trình thống nhất. về đại thể, riêng về mặt
kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thốngnhất với nhau: thứ
nhất đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại,cũng có nghĩa là
tạo nền tảng vật chất - kỹ thuật( lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; thứ
hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế,từ nền kinh
tế kế hoạc hoá tập trung,quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường hội
nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa
nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung
của khu vực và thế giới.

Thứ ba: quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được rút
ngắn,việc cần được rút ngắn ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ
thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. bên cạnh đó bối cảnh mới trong
nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá
trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta thực hiện được công nghiệp
hoá, hiện đại hoá rút ngắn bao gồm hai mặt: thứ nhất, đạt và duy trì một tốc
độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài
để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó(thực
chất là tăng tốc để đuổi kịp) và thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương
thức công nghiệp hoá , hiện đại hoá cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là
8


bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới nền kinh tế có trình độ phát
triển cao hơn( thực chất là lựa chọn con đường, bước đi và giải pháp công
nghiệp hoá để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể
thống nhất với nhau và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sang tỏ hơn
con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta
d). Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy
năng lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội
tiếp thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa.
Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế
tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực,
trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi nâng
cao trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng
thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng
tạo tri thức mới rất cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ

cao. Nhiều ví dụ trong công nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông
quốc gia, trong công nghiệp chế biến nông sản phẩm, trong chế tạo trang
thiết bị cơ - điện tử... đã cho thấy kết quả tốt và đạt bước tiến nhanh rõ rệt.
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết
với phát triển ứng dụng tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức
về công nghệ sinh học, tri thức về giống cây, con chất lượng và năng suất
cao, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung
cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông
thôn mới và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
gắn kết thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế
9


thị trường là rất hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc
thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết
kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng,
tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có.
Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh có
"nhúng" máy điện toán tự động hóa hoàn toàn hoặc robot, hoặc các dây
chuyền máy tự động hóa toàn phần.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây
dựng sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới
trong lĩnh vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ
trong hiện đại hóa nền công nghiệp và xây dựng kết cầu hạ tầng. Nhưng
nhìn chung vẫn còn tụt hậu về công nghiệp công nghệ cao. Gần đây, sau
khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), số dự án công nghệ cao
đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến

trên 70% GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận
lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ
quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục,
pháp luật... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng công nghệ
thông tin, mạng in-tơ-nét, viễn thông toàn cầu... Thời gian qua một số
ngành dịch vụ nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn
chung chưa khai thác hết tiềm năng, đáng lý còn có thể đóng góp cho tăng
trưởng kinh tế nhiều hơn nữa.
Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo
hướng kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như
nước ta, có định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cần tập trung vào dịch vụ hành
chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự
hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó, nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ,
sẽ khách quan bảo đảm được công khai, minh bạch, không tham nhũng,
10


công bằng, dân chủ, văn minh. Đáng tiếc là thời gian qua có quyết tâm cao,
nhưng dùng người chưa đúng nên kết quả yếu kém, cần rút kinh nghiệm để
sắp tới làm tốt hơn. Khi đó sẽ có một nền hành chính điện tử được hiện đại
hóa nhanh dẫn tới rút ngắn được thời kỳ quá độ
Thời đại chúng ta là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX (1917). Cũng không phải
ngẫu nhiên mà cách mạng khoa học công nghệ bùng lên từ khoảng giữa thế
kỷ XX dẫn đến sự khởi đầu kinh tế tri thức và trở thành đặc trưng của thời
đại. Phải chăng đây là phản ánh mối quan hệ biện chứng tất yếu giữa khoa
học và cách mạng, cơ bản tương tự như những lần biến động thay đổi hình
thái kinh tế - xã hội trước đây, nhưng phức tạp và dữ dội hơn nhiều.

11



Chương II. Giải pháp cho vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở
TP.Thái Nguyên
2.1. Chủ trương chung.
Phát triển kinh tế trí thức ở TP.Thái Nguyên không có nghĩa là chuyển
sang các ngành công nghệ cao để có cơ cấu kinh tế như các nước phát triển
đã đạt tới, mà là thực thi phát triển dựa vào tri thức, thực chất là vận dụng
tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm gia tăng nhanh giá trị của sản
phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Yếu tố
then chốt bảo đảm thành công cho chiến lược này là phát huy năng lực sáng
tạo và hệ thống đổi mới.
Để phát triển kinh tế trí thức ở TP.Thái Nguyên phải tiến hành đồng
thời và lồng ghép hai quá trình: quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế trí thức; trong khi đối với các nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp
nhau. Nền kinh tế Việt nam phải theo hai mô hình kinh tế tốc độ, kết hợp
các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao
động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát
triể sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặc khác đi thẳng vào hiện đại ở
các khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các
vùng kinh tế có mũi nhọn tạo thành đoàn tàu có sức lôi mạnh toàn bộ nền
kinh tế đi lên.
Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới của thời đại kết hợp với
sáng tạo, với tri thức mới để nhanh chóng chuyển dịch kinh tế theo hướng
tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ hàm lượng tri thức cao, giá
trị tăng cao:
2.1. Các giải pháp thực hiện.
− Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn: Ưu tiên phát triển công nghệ thông tin, đưa tri thức sản xuất kinh

doanh, tri thức khoa học công nghệ về tận người dân nông thôn, đồng thời
12


đẩy mạnh công tác đào tạo nhân lực, phục vụ cho đổi mới và hiện đại hóa
sản xuất nông nghiệp, tăng nhanh năng suất, hiệu quả, thay đổi bộ mặt
nông thôn, chuyển lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Xây
dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: sử dụng các công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin, kỹ thuật tự động hóa để điều khiển các
quá trình sản xuất nông nghiệp, đưa sản xuất hàng năm trên mỗi ha lên
nhiều trăm triệu đồng, hoặc hàng tỷ đồng.
Ứng dụng các công nghệ mới, đổi mới tổ chức quản lý sản xuất ở
nông thôn để phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, dịch
chuyển nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn. Phải khởi động
ngay ở nông thôn một khu vực khác năng động và hiện đại, đó là khu vực
công nghiệp. Từ một sự tích lũy ban đầu, khu vực này sẽ phát triển nhanh.
Đồng thời kết hợp tri thức truyền thống và tri thức hiện đại, với công nghệ
mới để hiện đại hóa, phát triển các làng nghề truyền thống để xây dựng
được một nền văn hóa kinh doanh lâu đời.


Đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp và dịch vụ:

Tăng nhanh các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến dựa vào công nghệ
mới, giá trị cao; phát triển những ngành sản xuất chủ bài có tính cạnh tranh
cao; giảm tối thiểu các sản phẩm xuất khẩu thô, ít chế biến, mà thực chất
chỉ là bán tài nguyên. Tăng giá trị xuất khẩu lên nhiều lần so với hiện nay.
Các ngành hiện có thể tiếp tục phát triển, nhằm tận dụng cơ sở vật chất và
lực lượng lao động, giải quyết việc làm, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
nhân dân, nhưng phải tiếp tục thu các tri thức mới để đổi mới công nghệ,

đổi mới sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Chỉ vận dụng
cơ sở vật chất hiện có chừng nào còn hiệu quả, đồng thời chú trọng sử dụng
tri thức mới. Kiên quyết xóa bỏ, chuyển đổi những cơ sở không còn hiệu
quả. Đã xây dựng mới, là phải sử dụng công nghệ mới nhất mà ta làm chủ
được. Các ngành dịch vụ: thương mại, du lịch, bưu chính, viển thông, tài
chính, ngân hàng…là những ngành có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri
13


thức, cần được phát triển, hiện đại hóa nhanh trở thành những ngành kinh
tế tri thức.
− Tập trung các điều kiện để phát triển có chọn lọc các ngành kinh
tế dựa vào tri thức và công nghệ cao: Thực hiên vấn đề này nhằm tạo những
bước nhảy vọt của toàn bộ nền kinh tế. Các ngành công nghiệp mới cần đi
thẳng và những công nghiệp tiên tiến nhất, để cho ra các sản phẩm để có tính
cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường thế giới. Ưu tiên phát triển các
ngành công nghiệp công nghệ cao, trước hết là công nghiệp công nghệ thông
tin và truyền thông, các ngàng công nghệ sinh học, các ngành cơ điện tử,
quang điện tử, các ngành vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ nano.
Những ngành công nghệ cao một khi ra đời là có thể theo kịp trình độ chung
của thế giới; đó là sự nhảy vọt, tốc độ cao. Phát triển nhanh các ngành này sẽ
có hai tác dụng lớn: thúc đẩy đổi mới trong tất cả các ngành, và chuyển đổi
nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta đòi hỏi phải tiến hành một cuộc
đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa - một cuộc đổi mới mới trên
tất cả các lĩnh vực:
+ Đổi mới căn bản cách thức phát triển kinh tế: chuyển đổi triệt để
từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, từ dựa chủ yếu vào
nguồn lực vật chất sang dựa chủ yếu vào nguồn lực trí tuệ, chuyển trọng
tâm đầu tư từ đầu tư hữu hình sang đầu tư vô hình. Coi tri thức là nguồn

vốn quan trọng. Coi quyền sở hữu trí tuệ là quan trọng nhất trong các
quyền sở hữu.
+ Đổi mới các doanh nghiệp: Doanh nghiệp là chủ thể quan trọng
nhất của kinh tế thị trường, là nơi biến tri thức thành giá trị. Doanh nghiệp
coi vốn tri thức là nguồn lực quan trọng nhất của mình.
+

Đổi mới giáo dục đào tạo: Cải cách triệt để nền giáo dục theo

chuẩn mực quốc tế, nhằm đào tạo những con người năng động sáng tạo,
thích nghi với sự phát triển kinh tế tri thức.
14


+ Đổi mới khoa học công nghệ: Nâng cao năng lực khoa học công
nghệ quốc gia, đồng thời xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia, gắn kết chặc
chẽ khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh, nhanh chóng biến tri thức
thành giá trị.
+ Đổi mới thể chế và chính sách tổ chức quản lý: Tạo môi trường
kinh doanh sôi động, thúc đẩy sự cạnh tranh. Chính sách pháp luật rõ ràng,
công khai, minh bạch thúc đẩy dân chủ, khuyến khích mạnh mẽ khả năng
sáng tạo. Nhận thức vai trò của nhà nước với kinh tế tri thức. Nhà nước từ
điều khiển chuyển sang giữ vai trò định hướng phát triển, tạo môi trường
thuận lợi và động viên mọi người, mọi lực lượng tham gia xây dựng nền
kinh tế tri thức.
Mọi cố gắng của chính phủ, doanh nghiệp, trường đại học và các tổ
chức khoa học nhằm thúc đẩy việc tạo ra tri thức, vận dụng tri thức, biến tri
thức thành giá trị; hỗ trợ đắt lực cho việc đổi mới công nghệ, dịch chuyển
nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
Trong các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức thì cần tập trung đưa

ra các giải pháp để phát triển nền giáo dục và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao - yếu tố chi phối nhiều nhất đối với năng lực sáng tạo và tốc
độ đổi mới. Bên cạnh đó phải phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ
thông tin trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội - động lực mạnh mẽ thúc đẩy
đổi mới và phát triển, tiến lên kinh tế tri thức.
 Cải cách giáo dục và dào tạo: Con người phải biết tự đào tạo, luôn
tiếp thu tri thức mới, có năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách
nghĩ, cách làm thì mới có thích nghi và làm chủ được kinh tế tri thức.
Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức đồng thời góp phần quảng
bá tri thức. Vì vậy người ta coi giáo dục là ngành sản xuất cơ bản nhất
trong nền kinh tế tri thức.
Trong tình hình hiện nay, việc đầu tư suy ngẫm để hoạch định một
chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo cũng không thể tách rời việc tìm
15


kiếm các giải pháp đột phá nhằm khắc phục những yếu kém hiện tại và
cũng là dọn đường cho việc thực hiện việc chiến lược cho tương lai. Ngoài
giải pháp chung về cải cách kinh tế, cải cách hành chính để tạo môi trường
thuận lợi cho giáo dục, thì theo tôi nghĩ là phải có các giải pháp sớm cho
vấn đề cấp bách như sau: Cải thiện đời sống và bồi dưỡng năng lực chuyên
môn thường xuyên cho thầy giáo để họ có điều kiện toàn tâm ý cho việc
dạy học và tham gia các công tác giáo dục – đào tạo; Cải cách các chế độ
thi cử, tuyển chọn, tuyển dụng,… để khắc phục tình trạng học chỉ để thi,
học vì bằng cấp, nạn bằng giả, học vị rởm; Tổ chức chu đáo việc nghiên
cứu cải cách chương trình và nội dung dạy học, biên soạn sách giáo khoa
và tài liệu giảng dạy cho chất lượng một cách thích hợp cho các cấp học;
Tích cực ứng dụng công nghệ tin và sử dụng Internet trong giáo dục và đào
tạo, trong việc dạy và học, phát triển dần các hình thức tự học; Và để thực
hiện các giải pháp quan trọng nhất là phải tìm cách huy động mọi nguồn

đầu tư trong xã hội cho giáo dục đào tạo, ít nhất cũng phải được khoảng
23% - 25% như nhiều nước trong khu vực; Có những cải cách trong giáo
dục đại học để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đào tạo ra những
kỹ sư, kỹ thuật viên lành nghề,các cử nhân có tri thức vững vàng. Phát triển
giáo dục đại học từng bước hiện đại như các nước phát triển khác.
Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, thì trước hết nhà nước
phải có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi hiền tài là “nguyên khí
quốc gia”, tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những
cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, quản lý kinh
doanh, văn học-nghệ thuật. Đi đôi với năng cao chất lượng giáo dục.
Đẩy nhanh phổ cập giáo dục trung học, nâng cao số năm đi học bình
quân của người trong độ tuổi lao động lên 12 năm vào trước năm 2020.
Nhiệm vụ cấp bách là tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong
giáo dục:cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy học, hệ thống giáo dục. phương thức tổ chức quản lý giáo dục-đào tạo.
16


Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng
rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, thích nghi sự phát triển. Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống
sang mô hình giáo dục mới: hệ thống học tập suốt đời, phát triển nghề
nghiệp liên tục, theo đó nhà trường đào tạo những kỹ năng cơ bản để người
học ra trường vừa học tập vừa lao động suốt đời. Phát triển hệ thống học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để bồi bưỡng nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn dựa vào
tri thức. Xã hội hóa học tập và xã hội hóa thông tin là tiền đề cho nền kinh
tế tri thức.
 Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các lĩnh
vực kinh tế.:

Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào nền kinh tế tri thức. Ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin sẽ góp phần giải phóng sức mạnh
vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho
phát triển hệ thống đổi mới, phát triển nhanh và và hiện đại hóa các ngành
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh, hổ trợ hiệu quả quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an
ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa dựa trên tri thức.
Ứng dụng rộng rải công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh
vực để đổi mới và phát triển. Nhanh chóng phát triển chính phủ điện tử,
thương mại điện tử, tin học hóa các hoạt động tài chính ngân hàng, giáo
dục trên mạng, y tế từ xa…. Phấn đấu xây dựng xã hội thông tin trước năm
2015. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân truy cập thông tin. Thực hiện
sự hài hòa giữa việc kiểm soát với quyền tự do thông tin.Giữ gìn và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc,giữ gìn tính đa văn hóa và tính đa ngôn
ngữ. Có chính sách, biện pháp khắc phục sự khác biệt về thông tin giữa các
vùng, các đối tượng dân cư.
17


Cần ưu tiên trợ giúp cho các vùng nông thôn, vùng xa xôi hẻo lánh
tiếp xúc với thông tin giá rẽ hoặc miễn phí. Mọi doanh nghiệp coi thông tin
là động lực hàng đầu cho đổi mới và phát triển. Sử dụng công nghệ thông
tin để đổi mới hệ thống tổ chức quản lý các nguồn lực hiệu quả hơn, sử
dụng thương mại điện tử để mở rộng thị trường, đổi mới cách sản xuất kinh
doanh, nâng cao cơ sở tri thức cho doanh nghiệp.
Đẩy mạnh hơn nữa đào tạo nhân lực cho công nghệ thông tin; đồng
thời tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, nhằm tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển và ứng dụng
công nghệ thông tin. Phát triển phần mềm mã nguồn mở phải coi là ưu tiện

quốc gia, đó là nhân tố quan trọng để phát triển công nghệ thông tin trong
nước.
Mạng thông tin điện tử là môi trường lý tưởng cho việc quảng bá tri
thức, nâng cao kỹ năng, phát triển trí sáng tạo, nó rút ngắn khoảng cách
giữa khoa học, sản xuất với tiêu dung, làm tăng nhanh tốc độ đổi mới.
Chính công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự chuyển đổi hệ thống đổi mới từ
mô hình tuyến tính sang mô hình tác động qua lại giữa các yếu tố.
Tóm lại, Việc phát triển kinh tế tri thức là một đòi hỏi mà tất cả các
thành phố trong cả nước luôn mong muốn vươn tới. TP.Thái Nguyên cũng
vậy, việc tiến lên kinh tế tri thức giúp cho TP.Thái Nguyên có thể nhanh
chóng phát triển, Góp phần làm cho TP.Thái Nguyên có sự tăng trưởng về
kinh tế, ổn định chính trị, phát triển văn hóa xã hội. Tuy còn gặp rất nhiều
khó khăn thách thức đặt ra cho TP.Thái Nguyên Nhưng với tiềm lực của
đất nước và nổ lực to lớn của Chính Phủ, và sự đóng góp tài năng, trí tuệ
của toàn dân thì việt tiến lên kinh tế tri thức của TP.Thái Nguyên sẽ thành
công trong tương lai./.

18


III KẾT LUẬN
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là chủ yếu, trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển đến nay
nền kinh tế của nước ta đã có những đổi thay đáng kể và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, đời sống dân cư
thấp Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế khá ổn định, tiếp
cận được với nhiều nền kinh tế phát triển mà đáng kể là việc trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là một bước tiến lớn lao khẳng
định sự phát triển của nền kinh tế nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách
thức đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để bắt kịp xu thế thời đại và để

không bị tụt hậu. Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Trong
điều kiện hiện nay việc đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với
phát triển kinh tế tri thức là một bước đi đúng đắn để tạo nội lực mạnh cho kinh
tế trong nước đồng thời tăng ngoại lực để chúng ta có thể hoà nhập với các nền
kinh tế trên thế giới.Nghị quyết đại hội IX đã chỉ ra: “ Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010 nhằm: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu
hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Chiến lược này đã được Đảng ta
vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của đất nước để vạch ra
đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự nghiệp
thúc đẩy nền kinh tế vươn lên mạnh mẽ mà không gì khác là phải : “công
nghiệp hoá hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức”.
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Giáo trình triết học Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
2 Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
3 Văn kiện đại hội đảng VI, VII,VIII, IX, X
4 Bài tham luận: “đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - vấn
đề giải pháp” – Thứ trưởng bộ thương mại: Lương Văn Tư
5 Bài tham luận: “Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam” – PGS.TS Trần
Nguyễn Tuyên.

6 “Tác động của việc gia nhập các tổ chức thương mại thế giới và hội
nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam – Một năm
nhìn lại” – Bộ trưởng bộ thương mại: Trương Đình Tuyển
7 “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững” – Lê Thế Giới,
Võ Xuân Tiến, Trương Bá Thanh / NXB hành chínhh quốc gia
8

Tạp chí kinh tế và phát triển - Số chuyên đề của kinh tế Mac-

Lênin (Tháng 11/2001)
9

Tạp chí Kinh tế và Phát triển - Số 48/2001

10

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX

11

Tạp chí Khoa học xã hội

20


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................20

21




×