Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.97 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến
lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Việt
Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và
thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các
cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp
cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức
trong quá trình hội nhập.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét
như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách
thương mại quốc tế; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách
thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương
mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại
quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam.
Vì vậy, việc xem xét và điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
mới của đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc góp phần đưa Việt Nam
hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công
nghiệp hoá vào năm 2020.

1


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm về Thương mại quốc tế và Chính sách thương mại quốc tế


Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các
quốc gia. Theo nghĩa rộng hơn, thương mại quốc tế bao gồm sự trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế bao gồm
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ.
Chính sách thương mại quốc tế là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công
cụ và biện pháp do nhà nước sử dụng để điều tiết và quản lý các hoạt động thương
mại quốc tế của quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của
quốc gia đó trong một thời gian nhất định.
1.2 Vai trò của chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội
của Nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Chính sách TMQT tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của đất nước, đến quy mô và phương thức tham gia của nền kinh tế
mỗi nước vào phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế.
Chính sách TMQT có vai trò to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so
sánh của nền kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy
mô tối ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt
động kinh tế .
Chính sách TMQT có thể tạo nên các tác động tích cực khi nó có cơ sở khoa học
và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới,
chú ý đến đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong nước, tuân theo các
quy luật khách quan trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường
xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến đổi mau lẹ của thực tiễn.
1.3 Đặc điểm thương mại của các nước đang phát triển.
Thương mại quốc tế của các nước phát triển trong những năm gần đây có một
số đặc điểm như sau:
Một là, thương mại quốc tế trong những năm gần đây có xu hướng tăng với
2



tốc độ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất thế giới, điều đó đưa đến
tỷ trọng của kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi quốc
gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở cửa gia tăng của nền kinh tế mỗi quốc gia ra
thị trường thế giới.
Hai là, tốc độ tăng trưởng của thương mại vô hình tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng của thương mại hữu hình, thể hiện sự biến đổi sâu sắc trong cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia,
Ba là, cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay đổi sâu sắc
với những hướng chính sau đây:
- Giảm đáng kể tỷ trọng của nhóm hàng lương thực và thực phẩm
- Giảm mạnh tỷ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của
dầu mỏ và khí đốt
- Tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế biến, nhất là máy móc
thiết bị.
Bốn là, Sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi
và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau, không những về mặt chất
lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao nhận, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán,
các dịch vụ sau bán hàng....
Năm là, Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc
đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ, đổi mới mẫu mã hàng hóa diễn ra liên tục, đòi
hỏi phải năng động, nhạy bén khi gia nhập thị trường thế giới. Các sản phẩm có
hàm lượng khoa học khoa học và công nghệ cao có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong
khi các sản phẩm nguyên liệu thô ngày càng mất giá, kém sức cạnh tranh.
Sáu là, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy phát
triển kinh tế xong mặt khác, giữa các liên kết kinh tế quốc tế cũng hình thành
những hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi hơn

3



CHƯƠNG 2
THỰC
TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
2.1 Thực trạng chính sách TMQT của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
2.1.1 Quá trình hội nhập TMQT của Việt Nam
2.1.1.1 Giai đoạn thăm dò hội nhập (1988-1991)
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá không rõ ràng
nhưng có xu hướng thay thế nhập khẩu và cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu, thực
hiện hoàn thiện các chính sách tài chính, thuế như mở cửa sàn giao dịch ngoại hối
vào năm 1991, ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh
thu, thuế lợi nhuận vào năm 1990.
Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại được thông thoáng
hơn theo đó các doanh nghiệp tư nhân được trực tiếp tham gia vào thương mại quốc
tế vào năm 1991 và thành lập các khu chế xuất. Tuy nhiên, một số hàng hoá vẫn bị
giới hạn xuất khẩu ở một số ít công ty và các tổng công ty xuất khẩu vẫn phải đăng
ký nhóm hàng hoá xuất khẩu với cơ quan quản lý nhà nước.
2.1.1.2 Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000)
Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế ở Việt
Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách thương mại quốc tế
của Việt Nam có xu hướng thay thế nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong việc hoàn
thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam ở giai đoạn này là không có một
lịch trình giảm thuế cụ thể.
Trong giai đoạn này, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ mậu
dịch của Việt Nam trong chính sách thương mại quốc tế không có nhiều thay đổi so
với giai đoạn thăm dò hội nhập. Việt Nam vẫn theo đuổi một chiến lược công
nghiệp hoá không rõ ràng. Việt Nam vừa muốn thực hiện công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu vừa muốn hướng vào xuất khẩu. Xu hướng hướng vào xuất khẩu được

ưu tiên hơn thể hiện ở việc thông thoáng hơn thủ tục xuất khẩu và thủ tục nhập
khẩu như bãi bỏ hầu hết các giấy phép nhập khẩu chuyến vào năm 1995, dỡ bỏ
quyền kiểm soát buôn bán gạo vào năm 1997, khuyến khích các doanh nghiệp xuất
khẩu trong đó có doanh nghiệp FDI. Kể từ năm 1998, các doanh nghiệp FDI được
xuất khẩu những hàng hoá không có trong giấy phép đầu tư. Năm 1993, Chính phủ
cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu. Các lệnh cấm nhập khẩu tạm thời hàng tiêu
4


dùng hay cấm nhập khẩu đường vào năm 1997 trong chính sách thương mại quốc
tế của Việt Nam không hoàn toàn nhằm bảo hộ thị trường nội địa.
2.1.1.3 Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-nay)
Trong giai đoạn này, Việt Nam là có xu hướng hướng vào xuất khẩu. Tuy
nhiên, dường như mục tiêu và phương pháp công nghiệp hoá chưa được thống nhất
giữa các cấp, các ngành dẫn đến tình trạng đi theo chứ chưa chủ động hội nhập. Các
danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu chủ yếu ban hành theo các hiệp định mà
Việt Nam đã ký kết với EU (Châu âu), ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á), Hoa Kỳ, Canada. Một mặt, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu như cho phép xuất
khẩu không hạn chế theo ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh vào năm 2001,
ban hành danh mục biểu thuế ưu đãi hàng năm, đàm phán ASEAN và ASEAN mở
rộng cũng như ban hành quy trình xét miễn, giảm và hoàn thuế xuất khẩu và nhập
khẩu vào năm 2005, đẩy mạnh đàm phán và chính thức gia nhập WTO vào
11/01/2007. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết việc bảo
hộ thị trường nội địa cho một số ngành hàng như ô tô, sắt thép, điện tử…
2.1.2 Thực trạng hoàn thiện các công cụ thuế quan.
Đối với thuế nội địa, cam kết WTO cuả Việt Nam tập trung vào thuế tiêu thụ
đặc biệt (TTĐB). Quy định hiện hành có sự phân biệt đối xử nhất định đối với một
số mặt hàng chủ yếu hình thành từ hoạt động nhập khẩu. Điều này đòi hỏi Việt Nam
phải cam kết thay đổi những quy định liên quan để tuân thủ nghĩa vụ theo quy định
điều III cuả GATT 1994. Theo đó, sản phẩm bia, rượu đòi hỏi phải được điều chỉnh

theo lộ trình để phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc lựa chọn tiêu dùng, sản xuất loại
bia nào trở nên đơn giản với người tiêu dùng và nhà sản xuất, nhập khẩu cũng như
nhà quản lý trong vòng 3 năm tới vì Việt Nam sẽ áp dụng thống nhất thuế tiêu thụ
đặc biệt với tất cả các loại bia mà không phụ thuộc vào hình thức đóng gói. Với
rượu, tiêu chí để phân định mức thuế suất phân hoá theo nồng độ cuả rượu. Rượu
trên 20 độ cồn hoặc phải áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính trên lít hoặc một mức
thuế suất tỉ lệ đơn nhất. Những thay đổi này được thực hiện trong lộ trình 3 năm kể
từ ngày cam kết. Với cam kết này, những đối tượng khác chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
ngoài rượu và bia sẽ không có thay đổi nào về nghĩa vụ thuế TTĐB.
Đối với thuế nhập khẩu, câu trả lời tại sao hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn
và dễ tìm mua hơn là do Việt Nam cam kết ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu
thuế nhập khẩu với 10.600 dòng thuế sẽ có mức thuế bình quân giảm khoảng 3% từ 17,4% còn 13,4%. Lộ trình cắt giảm trong vòng 5-7năm kể từ thời điểm cam kết.
Đặc biệt là mặt hàng nông nghiệp đã từ lâu ta xem là mặt hàng chủ lực cuả Việt
5


Nam bị cắt giảm tương tự- từ 23,5% xuống còn 20,9% trong vòng 5 năm. Với hàng
công nghiệp là .từ 16,8% xuống còn 12,6% trong thời gian từ 5-7năm. Mức cắt
giảm bình quân thuế nhập khẩu Việt Nam tuân thủ mức cắt giảm thuế chung tại
vòng Urugoay là vào khoảng 27% (30% cho hàng nông sản, 24% co hàng công
nghiệp) đối với các nước đang phát triển.
Theo mức cam kết cụ thể thì có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế bị cắt giảm chủ yếu
là dòng thuế suất cao trên 20% chẳng hạn như sản phẩm thịt, sữa, bia, rượu, thuốc lá,
hoặc xe ôtô, xe máy, xi măng, máy điều hoà, máy giặt trong khoảng thời gian 2-12
năm tới đây sẽ có được mức giá rẻ nhất so với thị trường vào thời điểm hiện nay do
đạt đến mức thuế suất cam kết thấp nhất. Tuy nhiên những mặt hàng trọng yếu vẫn
được duy trì mức bảo hộ nhất định. Ngành có mức thuế suất được giảm nhiều nhất là
dệt may, cá, sản phẩm cá, gỗ và giấy, máy móc và thiết bị điện-điện tử. Bên cạnh đó
cũng có trường hợp Việt Nam cam kết mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng với
nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất và phương tiện vận tải.

Theo cam kết cắt giảm thuế tuân thủ một số hiệp định tự do theo ngành của
WTO yêu cầu giảm thuế xuống còn 0% hoặc ở mức thấp. Đây là hiệp định tự
nguyện nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Việt Nam
cam kết ngành đối với sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế và
tham gia một phần với thời gian thực hiện 3-5 năm đối với ngành thiết bị máy bay,
hóa chất và thiết bị xây dựng.
Hạn ngạch thuế quan không phải là thuế nhưng có mối quan hệ với việc xác
định tính hợp pháp của hàng nhập khẩu để đánh thuế. Việt Nam bảo lưu quyền áp
dụng đối với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Quy định này thực tế chỉ
liên quan đến số lượng hàng nhập khẩu trên thị trường.
Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến cam kết về việc xác định trị giá hải quan
(customs valuation). Xác định trị giá hải quan là căn cứ định giá tính thuế xuất
khẩu hoặc nhập khầu, từ đó xác định được số tiền thuế xuất khẩu hay nhập khẩu
tương ứng. Hiện nay Việt Nam quy định trị giá hải quan được xác định căn cứ vào
“giá hợp đồng”. Trên thực tế, quy định này không đồng nghĩa với việc xác định trị
“trị giá giao dịch” được quy định tại Thoả thuận bổ sung cuả Điều 7 (về trị giá hải
quan) trong Thoả thuận chung về thuế quan và thương mại 1994. Chính vì thế Việt
Nam cam kết sẽ có sự đổi mới để tương thích, trong đó có việc ban hành những
quy định về trình tự, thủ tục xác định trị giá hải quan.
Có vẻ như những cam kết trên không có liên quan gì đến thuế Giá trị giá tăng
(GTGT). Thực chất không hẳn như vậy. Bởi lẽ thuế GTGT cũng là một trong ba
nghiã vụ thuế hình thành khi thực hiện hành vi nhập khẩu. Giá tính thuế GTGT
6


trong trường hợp này là tổng của giá giao dịch (mua hàng) với thuế nhập khẩu và
thuế TTĐB (nếu đây là hàng chịu thuế TTĐB). Vì thế một khi thuế suất thuế nhập
khẩu giảm dẫn đến số tiền thuế NK tương ứng giảm, hệ quả là số tiền thuế TTĐB
(nếu có) và tiền thuế GTGT giảm theo do giá tính thuế thấp xuống tương ứng. Tất
cả những thuế này đều là thuế gián thu nên sẽ cấu thành trong giá bán trên thị

trường, vì thế thuế thấp sẽ kéo theo giá hàng hoá giảm.
Vậy là theo lộ trình mà Việt Nam cam kết thì với một khoảng thời gian nhanh
nhất là ngay sau khi gia nhập và chậm nhất là 12 năm kể từ khi gia nhập, chúng ta
có thể vui mừng vì người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua hàng nhập khẩu chất
lượng cao với giá rẻ. Ước lượng mức bình quân có thể rẻ hơn hiện nay khoảng
chừng gần 30% so với giá thị trường hiện tại (với điều kiện giá giao dịch không
đổi). Mặc dù bên cạnh đó còn nhiều nỗi lo chung quanh việc cắt giảm thuế sẽ khiến
cho hàng hóa sản xuất trong nước bị cạnh tranh quyết liệt bởi hàng nhập khẩu. Vấn
đề không nằm ở chỗ quy định về thuế, mà câu trả lời nằm chính ở việc định chuẩn
cho hàng hóa nhập vào thị trường Việt Nam, ở chỗ chúng ta không dung túng cho
việc coi thường người tiêu dùng do việc nhà sản xuất đưa ra thị trường những sản
phẩm kém chất lượng vì thiếu tính cạnh tranh. Nhìn xa hơn đó còn là bài toán cho
sự đổ bộ về công nghệ, nguồn nguyên liệu chất lượng cao, giá rẻ, từ đó có tác dụng
kích thích các giao dịch được xác lập nhiều hơn, đa dạng hơn, với quy mô lơn hơn,
nguồn thu thuế từ đó cũng dồi dào hơn.
Chính sách thương mại quốc tế của Việt nam đã chuyển từ thay thế nhập khẩu
sang hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng vào xuất khẩu là hoàn
toàn phù hợp vì Việt Nam cần thiết phải là một bộ phận của nền kinh tế thế giới và
phải tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới.
Trên giác độ công cụ của chính sách thương mại quốc tế, hệ thống thuế ở Việt
Nam có thể được đánh giá như sau:
Một là, hệ thống thuế được thay đổi phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt
Nam tham gia. Điều này thể hiện ở việc biểu thuế hàng hoá nhập khẩu của Việt
Nam ngày càng phù hợp hơn với Hệ thống phân loại hàng hoá và mã số của Tổ
chức hải quan thế giới và hệ thống biểu thuế quan hài hoà.
Hai là, thông tin về việc cắt giảm thuế ngày càng rõ ràng hơn. Thông tin về
việc cắt giảm thuế được cập nhật thường xuyên và phổ cập tới toàn bộ các doanh
nghiệp và những đối tượng quan tâm. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính và
áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước tại các ngành thương mại, tài
chính có tác động tích cực tới việc phổ cập thông tin về cắt giảm thuế.


7


Ba là, việc thay đổi, điều chỉnh thuế suất còn đột ngột. Tình trạng này là do
thiếu sự phối hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp và các doanh nghiệp trong
ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và chuẩn bị cho việc ban hành, điều chỉnh
các chính sách còn kém. Mặc dù Bộ Tài chính và các Bộ chuyên ngành khẳng định
vai trò tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhưng trên thực tế khi
mà doanh nghiệp còn ít tham gia vào quá trình hoạch định chính sách của Chính phủ
thì khó tránh khỏi việc các chính sách bị xa rời thực tiễn kinh doanh.
2.1.3 Thực trạng hoàn thiện các công cụ phi thuế quan
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc sử dụng các biện pháp phi thuế
quan trong chính sách thương mại quốc tế không phải là một biện pháp lâu dài.
Chẳng hạn, trong khuôn khổ WTO, các chính phủ phải minh bạch hoá chính sách
và chuyển dần việc quản lý bằng các công cụ phi thuế quan sang thuế quan. Hiện
tại, ở Việt Nam, hệ thống các công cụ phi thuế quan chưa được Bộ Công thương
hay bất cứ cơ quan nào thống kê theo dõi và điều chỉnh.
Các công cụ phi thuế quan đang do các cơ quan khác nhau quản lý nhưng
không trực tiếp được sử dụng như một công cụ của chính sách thương mại quốc tế.
Ví dụ, Bộ Công thương quản lý hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, các biện pháp
hành chính. Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định tỷ lệ nội địa
hoá. Tín dụng xuất khẩu lại do Ngân hàng Phát triển và các ngân hàng thực hiện.
Thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu và cấp giấy chứng nhận xuất xứ còn tách rời dẫn
đến doanh nghiệp mất thời gian khi thực hiện thủ tục xuất khẩu. Quy chế hỗ trợ tín
dụng xuất khẩu chưa có định hướng ưu tiên cho các doanh nghiệp có uy tín, có tình
hình tài chính lành mạnh. Hơn nữa, diện các mặt hàng được hưởng ưu đãi về tín
dụng xuất khẩu còn dàn trải
Công việc theo dõi, điều chỉnh các công cụ phi thuế quan gặp khoá khăn do
quy định phải xem xét biện pháp đó có hạn chế thương mại hay không.

Thông tin về việc nước ngoài áp dụng các biện pháp phi thuế đối với hàng hoá
Việt Nam cũng chưa được thực hiện một cách hệ thống. Việt Nam chưa xây dựng
cơ sở dữ liệu thông tin về các biện pháp phi thuế cũng như chưa xây dựng danh
mục các mặt hàng dễ bị áp dụng các biện pháp phi thuế. Ví dụ, trong trường hợp
các hàng hoá của Việt Nam bị cáo buộc phá giá, Việt Nam đã lúng túng trong giải
quyết và phòng ngừa…
Việt Nam còn ít sử dụng các biện pháp như hạn ngạch thuế quan, các khoản
mua sắm của chính phủ. Việc sử dụng các khoản tín dụng xuất khẩu, thưởng xuất

8


khẩu… đang được điều chỉnh. Tuy nhiên, đối tượng chủ trì các chương trình xúc
tiến thương mại còn giới hạn ở một số ít cơ quan.
2.1.4 Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Về mặt nhận thức, Việt Nam chưa thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại
quốc tế một cách hệ thống. Bộ Thương mại xem xét dưới góc độ chính sách xuất
nhập khẩu. Bộ Tài chính xem xét dưới góc độ chính sách thuế. Bộ Công nghiệp
xem xét dưới góc độ chính sách cạnh tranh, chính sách ngành. Từ đó, chính sách
thương mại quốc tế của Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức
năng. Các cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo quyền hạn, nhiệm vụ do chính phủ quy
định. Những công việc mới phát sinh thường mất thời gian để quyết định ai sẽ thực
hiện và thực hiện như thế nào.
Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện
hội nhập cho thấy Việt Nam rất cần một cơ quan đầu mối (với đầy đủ quyền hạn,
nguồn lực và trách nhiệm) phối hợp hoạt động hoàn thiện giữa các bộ, ngành liên
quan. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước cần được tham gia nhiều hơn vào quá trình
hoạch định và thực hiện chính sách.
2.2 Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm gần đây.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong thời gian vừa qua tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước trong tháng 12/2015 đạt hơn 28 tỷ
USD, tăng 1,8% so với tháng trước; trong đó trị giá xuất khẩu là 13,73 tỷ USD,
giảm 1,1% và trị giá nhập khẩu là 14,4 tỷ USD, tăng 4,9%. Trong tháng
11/2015, cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu 563 triệu USD.
Năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 327,76 tỷ
USD, tăng 10% so với năm 2014, trong đó xuất hàng hóa đạt 162,11 tỷ USD, tăng
7,9% so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu hàng hóa là 165,65 tỷ USD, tăng
12% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa cả nước thâm hụt
3,54 tỷ USD (tương đương khoảng 2,2% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả
nước) và ngược lại so với xu hướng thặng dư 2,37 tỷ của năm trước.
Như vậy, so với năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm, kim ngạch xuất nhập
khẩu đã tăng hơn 124 tỷ USD (từ 203,7 tỷ năm 2011 lên 327,76 tỷ USD năm 2015)
nhưng xét về tốc độ tăng thì năm 2015 có tốc độ tăng thấp nhất cả giai đoạn và thấp
hơn nhiều so với mức tăng bình quân 15,8%/năm giai đoạn 2011-2015.

9


Biểu đồ 1: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và cán
cân thương mại giai đoạn 2006-2015

Nguồn: Tổng cục Hải quan
2.2.1 Xuất nhập khẩu theo loại hình doanh nghiệp
Tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp trong
nước đều thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của khối doanh nghiệp FDI. Khu vực
các doanh nghiệp FDI tiếp tục đóng vai trò lớn trong tăng trưởng xuất nhập khẩu
của Việt Nam khi tỷ trọng của khu vực các doanh nghiệp này trong tổng kim ngạch
của cả nước đạt trên 63%, ngày càng chiếm ưu thế so với khối các doanh nghiệp
trong nước.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI trong năm 2015 đạt 207,85 tỷ
USD, tăng 16,7% so với năm 2014 (trong đó xuất khẩu đạt 110,59 tỷ USD tăng
17,7%, nhập khẩu đạt 97,26 tỷ USD tăng 15,5%). Trong khi đó khu vực các doanh
nghiệp trong nước chỉ đạt 119,91 tỷ USD, tương đương với tổng xuất nhập khẩu của
năm 2014 (trong đó xuất khẩu đạt 51,52 tỷ USD và nhập khẩu đạt 68,39 tỷ USD).

Biểu đồ 2: Một số mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước
10


Xuất khẩu

Nhập khẩu

Nguồn: Tổng cục Hải quan
2.2.2 Thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa
Trong năm 2015, Việt Nam có trao đổi hàng hóa với hơn 200 quốc gia, vùng
lãnh thổ. Trong số các thị trường trên, số thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD
của xuất khẩu là 29 thị trường với tổng kim ngạch là 147,36 tỷ USD, chiếm gần
90,9% tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Số thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD của nhập khẩu là 19 thị trường với
tổng trị giá là 150,42 tỷ USD, chiếm 90,8% tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của cả
nước.

Bảng 1: Số lượng thị trường theo mức kim ngạch năm 2015
Mức kim ngạch

Xuất khẩu


Nhập khẩu
11


Từ 1 tỷ USD trở lên
Từ 500 triệu USD- dưới 1 tỷ USD
Từ 100- dưới 500 triệu USD
Từ dưới 100 triệu USD

Số thị

Trị giá

Số thị

Trị giá

trường

(Tỷ USD)

trường

(Tỷ USD)

29

147,36

19


150,42

7

4,34

8

5,94

34

7,37

28

6,93

162

3,04

155

2,40

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Tổng trị giá trao đổi hàng hóa của Việt Nam với châu Á năm 2015 đạt 214,9
tỷ USD, tăng 8,9% so với năm 2014 và là châu lục chiếm tỷ trọng cao nhất (65,6%)

trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước.
Tiếp theo là xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước châu Mỹ với kim
ngạch 55,42 tỷ USD, tăng 18,6% so với năm trước và là châu lục đạt mức tăng
trưởng xuất nhập khẩu cao nhất.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với châu Âu đạt 46,55 tỷ USD, tăng
9,4%; châu Phi là 5,11 tỷ USD, tăng 9,8%; riêng với châu Đại Dương chỉ đạt 5,79
tỷ USD, giảm tới 16,2%.

Biểu đồ 3: Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với các Châu
lục năm 2015
12


Xuất khẩu

Nhập khẩu

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong năm 2015, Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng
hóa cho Việt Nam với trị giá nhập khẩu hàng hóa từ thị trường này đạt 49,52 tỷ
USD tăng 13.9% so với năm 2014. Các mặt hàng chính nhập khẩu từ Trung Quốc
trong năm 2015 là: máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 9,03 tỷ USD, tăng
15% so với năm 2014; điện thoại các loại và linh kiện: 6,9 tỷ USD, tăng 8,7%; vải
các loại: 5,22 tỷ USD, tăng 12,1%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: 5,21
tỷ USD, tăng 13,9%...
Năm 2015 hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ Hàn Quốc vào Việt Nam là
27,63 tỷ USD, tăng 27% so với năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 5,1%
của năm 2014. Các mặt hàng chính nhập khẩu từ Hàn Quốc trong năm là: máy vi
tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: 6,7 tỷ USD, tăng 33,5% so với năm 2014; máy
móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: 5,11 tỷ USD, tăng 62,6%; điện thoại các loại và

linh kiện: 3,02 tỷ USD, tăng 76%; sản phẩm từ chất dẻo: 1,07 tỷ USD, tăng 33,7%;
sản phẩm từ sắt thép: 1,03 tỷ USD, tăng 28,8%...

13


Tiếp theo là các thị trường: Nhật Bản với trị giá đạt 14,37 tỷ USD, tăng
11,15% so với năm 2014, Đài Loan với trị giá gần 11 tỷ USD giảm nhẹ 0,78%,
Thái Lan với trị giá là 8,28 tỷ USD tăng 16,79%,…
Ở chiều ngược lại, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam với 33,48 tỷ USD tăng 16,9% so với năm 2014, và là thị trường mà Việt Nam
đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 25,68 tỷ USD. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu
sang Hoa Kỳ là hàng dệt may với trị giá gần 11 tỷ USD tăng 11,72% và chiếm
32,72% trị giá hàng hóa xuất khẩu sang thị trường này, tiếp theo là giày dép các
loại với trị giá trên 4 tỷ USD tăng 22,49%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện đạt 2,83 tỷ USD tăng 33,68% so với năm 2014,…
Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc và Hàn Quốc lần lượt là 16,6
tỷ, (tăng 11,2%) và 8,93 tỷ (tăng 25.03%) so với năm 2014. Bên cạnh đó xuất khẩu
sang Nhật Bản giảm 3,8%, tương đương giảm 556 triệu USD so với năm 2014.

Bảng 2 : Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu
của Việt Nam theo châu lục,thị trường/khối thị trường năm 2015

14


Thị trường

Xuất khẩu
Trị giá

(Tỷ USD)

Nhập khẩu

So với
2014
(%)

Trị giá
(Tỷ USD)

Xuất nhập khẩu

So với
2014
(%)

Trị giá
(Tỷ USD)

So với
2014
(%)

Châu Á

79,88

5,4


135,02

11,1

214,90

8,9

- ASEAN

18,16

-3,7

23,83

3,7

41,99

0,4

- Trung Quốc
- Nhật Bản
- Hàn Quốc
Châu Mỹ
- Hoa Kỳ
Châu Âu
- EU (27)
Châu Phi


17,14
14,14
8,93
41,51
33,48
34,25
30,94
3,14

14,8
-3,8
25,0
17,4
16,9
7,7
10,9
5,9

49,53
14,37
27,63
13,91
7,80
12,30
10,45
1,97

13,3
11,2

27,0
22,6
23,8
14,4
17,8
16,6

66,67
28,51
36,56
55,42
41,28
46,55
41,39
5,11

13,7
3,2
26,5
18,6
18,1
9,4
12,5
9,8

3,33

-22,9

2,45


-4,9

5,79

-16,2

Châu Đại Dương

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Dù đã phát triển tương đối nhanh trong thời gian vừa qua nhưng nhìn chung
nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển. Doanh nghiệp trong nước
vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với nước ngoài. Nhà nước chưa tạo ra những môi
trường thật sự thuận lơi cho xuất khẩu, nhiều quy chế còn chậm đổi mới. Hoạt động
xuất khẩu không chính ngạch tăng, các hoạt động buôn lậu vẫn chưa được ngăn
chặn cụ thể.

15


CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
3.1 Quan điểm và Định hướng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
3.1.1 Quan điểm
Một là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế phải chủ động gắn liền với mục tiêu công nghiệp hoá và các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Hai là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế là một trong các hoạt
động góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Việt Nam.
Ba là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo tuân thủ
các nguyên tắc chung, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức
khu vực và quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng không bó buộc trong một lịch
trình nhất định.
Bốn là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo sự tham
gia của không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước (hoạch định và thực thi chính
sách) mà cả các đối tượng khác như cộng đồng doanh nghiệp (các hiệp hội, các
doanh nghiệp) và giới nghiên cứu. Sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước,
cộng đồng doanh nghiệp, và giới nghiên cứu thể hiện bằng việc chia xẻ trách
nhiệm, nguồn lực và lợi ích trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế.
Năm là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo khai thác
được lợi thế của nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc tế
3.1.2 Định hướng
Mô hình thương mại mang tính chất: phát triển kinh tế theo định hướng xuất
khẩu, cụ thể là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu
những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô, đẩy
mạnh xuất khẩu dịch vụ và theo xu hướng tự do hóa thương mại hạn chế bảo hộ
mậu dịch đến mức tối đa.

16


3.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
3.2.1 Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự
do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự

do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách thương mại quốc tế là công
việc liên quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan
liên quan, đặc biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là
thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên
thị trường thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của
Việt Nam cần chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như
cách thức hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo việc duy
trì ổn định các chính sách hỗ trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt trong một hệ
thống được theo dõi, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương
mại (song phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số mặt hàng.
3.2.2 Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
3.2.2.1 Tiếp tục minh bạch hóa và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho
hàng hóa của Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp
với các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia
cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thay đổi biên thuế trong trường hợp khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và
bán phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế của Việt Nam đang được
thay đổi theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là
một công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong thực hiện các
cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này.
Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hóa
thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để
tăng tính dự đoán được trong việc điều chỉnh thuế. Đây là những nội dung được ưu
tiên trong số các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam. Trước hết, việc cập nhật văn bản mới nhất về những điều chỉnh thuế cần

17


được tiếp tục đưa lên các trang web của Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại,
Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Tiếp theo, việc áp dụng và điều chỉnh các loại
thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi nhuận cần được rà soát để đảm
bảo phục vụ mục tiêu phát triển của ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cho
việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các hiệp hội cần đóng vai trò là cầu nối
giữa các bộ ngành và doanh nghiệp để đảm bảo nguyên tắc lấy doanh nghiệp làm
trung tâm trong quá trình hoàn thiện. Để đảm bảo thực hiện giải pháp này, các hiệp
hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn và hình thức trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ
Thương mại, Bộ Công nghiệp và các bộ ngành liên quan. Các bộ ngành cần tích
cực tham gia; đảm bảo có phân công trách nhiệm cho các bộ phận liên quan; và tiến
hành theo dõi đánh giá công tác phối hợp này.
3.2.2.2 Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan
Trong khuôn khổ của WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn
ngạch thuế quan. Bộ Thương mại cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này. Sự
khác biệt giữa mức thuế trong và ngoài hạn ngạch rất lớn (thường là gấp đôi). Tuy
nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể
chỉ phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện hữu đơn giản. Do đó, khi
quyết định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Thương
mại cũng cần dựa trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ doanh
nghiệp trong ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập khẩu và
lệnh cấm nhập khẩu. Lý do được đưa ra là các quy định này không phù hợp với các
quy định của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, kinh
nghiệm thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này.
Malaysia thậm chí tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành thành
viên của WTO. Việt Nam không nên vận dụng kinh nghiệm “tăng cường” này của
Malaysia nhưng cũng không nên loại bỏ hoàn toàn việc cấp giấy phép nhập khẩu,

đặc biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành trong nước. Các mặt
hàng nên được áp dụng giấy phép nhập khẩu và lệnh cấm nhập khẩu bao gồm một
số mặt hàng nguyên vật liệu như thép xây dựng và tiêu dùng như hoa quả, thực
phẩm, đồ chơi trẻ em.
Các thành viên của WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép và lệnh cấm với
nhiều lý do như bảo vệ ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng, bảo vệ các di sản và truyền thống văn hoá. Để sử dụng
hiệu quả việc cấp giấy phép nhập khẩu, Bộ Thương mại cần phối hợp với Bộ Công
nghiệp, các bộ chuyên ngành, và cộng đồng doanh nghiệp.
18


Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu, chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt
Nam trong thời gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp
xuất khẩu và thương mại liên quan đến đầu tư (TRIMs) và yêu cầu của đối tác
trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thưởng xuất
khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm trong khuôn khổ WTO nên trong tương lai không
thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ trợ các hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại)
được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy nhiên, khi trở thành thành viên của
WTO, Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi
Những quy định về mua sắm của Chính phủ cần được xem như một công cụ
của chính sách thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua
sắm của Chính phủ sẽ bị coi là hàng rào phi thuế quan nếu tạo ra sự phân biệt đối
xử giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các nước
đang thực hiện công nghiệp hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể là
một công cụ tốt để Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất trong nước.
3.2.2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản
thương mại đầy đủ và dễ truy cập
Đây là công việc không chỉ của Bộ Thương mại mà cả các bộ ngành khác và

đặc biệt là các hiệp hội ngành hàng. Việt Nam phải sẵn sàng đương đầu với các tranh
chấp thương mại. Việt Nam không thể tránh khỏi việc tham gia vào các tranh chấp
thương mại như trợ cấp, chống bán phá giá, biên tính thuế,... khi gia tăng hội nhập
kinh tế quốc tế. Cụ thể là Bộ Thương mại cần xây dựng một hệ thống thông tin về
các biện pháp phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá; xây dựng cơ chế cảnh báo
về khả năng tranh chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giá (trực thuộc Bộ
Thương mại), dự kiến những mặt hàng có khả năng bị các quốc gia bạn hàng áp
dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây dựng cách thức tận dụng
có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO cũng
như thủ tục ở các quốc gia bạn hàng. Chẳng hạn, khi bị áp dụng thuế chống bán phá
giá, quốc gia bị áp thuế có thể tăng giá hàng hoá của mình để chịu mức thuế chống
bán phá giá thấp hơn ở giai đoạn xem xét lại hành vi phá giá. Việc Nam cũng cần
tích cực tham gia vào các diễn đàn của các nước đang phát triển để xây dựng một cơ
chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với các bộ ngành hoàn thiện cơ sở dữ
liệu thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào cản thương mại ở các thị
trường được lựa chọn.

19


3.2.3 Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các
bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của doanh nghiệp và các hiệp
hội doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần được
thay đổi . Các doanh nghiệp tham gia rất có hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính
sách thương mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn Việt Nam
cho thấy, Việt Nam hiện đã có sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình
hoạch định và hoàn thiện chính sách song tồn tại dưới các hình thức khác nhau như
gặp mặt Thủ tướng với doanh nghiệp, gặp mặt Bộ trưởng với doanh nghiệp, thư

trao đổi giữa Bộ trưởng với doanh nghiệp và doanh nghiệp với Bộ trưởng, các
cuộc hội thảo, đào tạo do các bộ, ngành và hiệp hội chuyên ngành tổ chức. Tuy
nhiên, kết quả thu được từ các kênh này không hệ thống và không hướng đích.
Trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự
tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Những doanh nghiệp này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến
từ các kết quả nghiên cứu và gợi ý chính sách cho Bộ Thương mại và các bộ ngành,
cho Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế

20


KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, sau những năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó
khăn trước mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách thức,
rút ra được những bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Gia nhập WTO,
các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng, công
nghệ hiện đại, vật tư, nguyên liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm do thị trường được
mở rộng và không bị phân biệt đối xử. Môi trường kinh doanh được cải thiện một
cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách,
không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về việc
tham gia WTO đã có sự chuyển biến tích cực. Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành như điện tử, tin học, dệt may, luyện và
cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ... Bên cạnh những kết quả
tích cực đó, trong ba năm đầu tiên gia nhập WTO, các khó khăn, thách thức đối với
nền kinh tế Việt Nam cũng đã hiện ra dần rõ nét. Tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính, tiền tệ thế giới đến kinh tế Việt Nam đã cho chúng ta thấy mức độ
dễ bị tổn thương của nền kinh tế nước ta. Đây là dịp để chúng ta nhìn nhận lại một
cách nghiêm túc những hạn chế của chúng ta trong một loạt các vấn đề liên quan

đến chính sách kinh tế và hoạt động quản lý nhà nước, để qua đó phấn đấu thực
hiện tốt hơn trong năm 2016, từ công tác phân tích, dự báo tình hình biến động của
thị trường hàng hoá, dịch vụ, giá cả; tới công tác điều hành quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu; từ chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với lạm phát, nhưng không
gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn; công tác xây dựng
chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế; tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng thời khai thác có hiệu quả
những cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư; thực hiện chính sách phát triển
kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội… Để nền kinh tế Việt Nam có thể hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới tạo nền tảng để kinh tế Việt Nam phát triển
bền vững trong tương lai thì chính sách phát triển thương mại của Việt Nam cũng
cần phải có nhiều sự thay đổi tích cực hơn nữa.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Quốc tế của Trường Đại học KTQD, đồng chủ biên
GS.TS Đỗ Đức Bình; PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, nhà xuất bản trường
ĐHKTQD, 2008.
2. Giáo trình Thương mại quốc tế, tác giả Nguyễn Thành Danh, nhà xuất bản
Lao động xã hội, 2008.
3. Kinh tế học quốc tế - lý thuyết và chính sách tập 1 (những vấn đề về thương
mại quốc tế), bản dịch, nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1996.
4. Sách “toàn cầu hóa kinh tế”, tác giả Dương Phú Hiệp và các tác giả khác,
nhà xuất bản khoa học xã hội, 2001.
5. Bài báo “Hoạt động thương mại quốc tế và những ảnh hưởng của nó đối với
DN Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Trung Chính, ngày 11/06/2006 trên
trang web: Vietbao.vn
6. Bài báo “ Thương mại Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO những tồn tại

cần khắc phục để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp” (Vinanet)
7. Bài báo “Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO” của tác giả Nguyễn Văn
Long trên Tạp chí cộng sản.

22


MỤC LỤC
1.1 Khái niệm về Thương mại quốc tế và Chính sách thương mại quốc tế-------------------------2
1.2 Vai trò của chính sách thương mại quốc tế ----------------------------------------------------------2
1.3 Đặc điểm thương mại của các nước đang phát triển.----------------------------------------------2
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHÍNH

SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI---------------------------------------------------------------------------------- 4
2.1 Thực trạng chính sách TMQT của Việt Nam sau khi gia nhập WTO -------------------------4
2.1.1 Quá trình hội nhập TMQT của Việt Nam ---------------------------------------------------------4
2.1.1.1 Giai đoạn thăm dò hội nhập (1988-1991) ---------------------------------------------------------------4
2.1.1.2 Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000) -------------------------------------------------------------4
2.1.1.3 Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-nay) -------------------------------------------------------------5
2.1.2 Thực trạng hoàn thiện các công cụ thuế quan. ---------------------------------------------------5
2.1.3 Thực trạng hoàn thiện các công cụ phi thuế quan -----------------------------------------------8
2.1.4 Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế ------------------------------------------------------------------------------- 9
2.2 Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm gần đây. ------------------9
2.2.1 Xuất nhập khẩu theo loại hình doanh nghiệp----------------------------------------------------10
2.2.2 Thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa-------------------------------------------------------------11
CHƯƠNG 3 --------------------------------------------------------------------------------------------------- 16

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.16
3.1 Quan điểm và Định hướng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ----------------------------------------------------------------------------------------- 16
3.1.1 Quan điểm ---------------------------------------------------------------------------------------------- 16
3.1.2 Định hướng --------------------------------------------------------------------------------------------- 16
3.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam -----------------17
3.2.1 Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương
mại và bảo hộ mậu dịch ------------------------------------------------------------------------------------ 17
3.2.2 Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế -----------------------17
23


3.2.2.1 Tiếp tục minh bạch hóa và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan-------------------------------17
3.2.2.2 Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan----------------------------------------18
3.2.2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản thương mại đầy đủ và
dễ truy cập--------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 19
3.2.3 Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ ngành và
cộng đồng doanh nghiệp------------------------------------------------------------------------------------ 20
KẾT LUẬN---------------------------------------------------------------------------------------------------- 21

24



×