Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN độc lập, tự CHỦ, tự lực, tự CƯỜNG, SÁNG tạo , ĐÚNG đắn TRUYỀN THỐNG và sức MẠNH của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM ý NGHĨA đối với sự NGHIỆP đổi mới ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.63 KB, 29 trang )

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, SÁNG TẠO, ĐÚNG ĐẮN- TRUYỀN
THỐNG VÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn được biểu hiện ở
đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, không lệ
thuộc vào bên ngoài, không bị các lực lượng chính trị bên ngoài chi phối quá
trình lãnh đạo cách mạng. Song, đường lối và phương pháp cách mạng đó không
phải là biệt lập, khép kín, mà độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng
đắn trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tiếp thu, tham
khảo những kinh nghiệm hay, quý báu của các nước khác trên thế giới, không
dập khuôn giáo điều máy móc đó là truyền thống và sức mạnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đây còn là bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã chứng minh lúc
nào, giai đoạn nào Đảng ta giữ được độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo,
đúng đắn thì cách mạng tiến lên và giành được thắng lợi, còn lúc nào, giai đoạn
nào bị chi phối không giữ được độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng
đắn thì cách mạng dậm chân tại chỗ, có lúc, có nơi, có lĩnh vực thất bại. Vì vậy,
cần nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về bài học kinh nghiệm độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta công việc cần thiết của mỗi cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta.
1. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn- truyền thống
và sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1 Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam là vấn đề khách quan của cách mạng Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của cách mạng vô sản, đây là cuộc cách
mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhất. Mục tiêu là giai cấp vô sản lãnh đạo
quần chúng lật đôe giai cấp thống trị, thiết lập quyền thống trị của giai cấp vô
sản xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nhưng vấn đề giành chính quyền mới chỉ là bước đầu vấn đề là tổ chức xây
dựng thành công xã hội mới thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,


giải phóng xã hội và giải phóng con người. Vì vậy đòi hỏi phải có độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn rất cao mới thực hiện được điều đó.
Mặt khác, cuộc cách mạng đó phải dựa trên một nền tảng lý luận tiên tiến.
Bởi vì, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Theo
Lênin: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả


2

năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” 1. Lý luận đó là chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ lý luận đó được vận dụng vào giải quyết các vấn đề
của thực tiễn cách mạng do đó đòi hỏi phải có độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,
sáng tạo, đúng đắn rất cao mới thực hiện được.
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn còn xuất phát từ
truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời, đây là quan điểm nhất quán của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn trên cơ sở chủ nghĩa
Mác- Lênin, truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại vận dụng,
giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời tinh thần đó
tập trung vào “lấy sức ta giải phóng cho ta”.
Lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước và thực tiễn thành
công của cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó.
1.2 Nội dung độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của
Đảng ta được thể hiện trong cách mạng Việt Nam.
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn không chỉ là truyền
thống mà còn là nét nổi bật thuộc về bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam, được thể hiện trên mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ của cách mạng rõ nhất ở
những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Nó được thể hiện tập trung ở việc
xác định: đường lối, con đường cách mạng Việt Nam; lực lượng cách mạng;
phương pháp cách mạng; trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng Việt

Nam với cách mạng thế giới; trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Những năm đầu của thế kỷ XX, giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục
con đường cứu nước theo lối cũ, thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành (Nguyễn Ái Quốc) với trái tim đầy nhiệt huyết đã ra đi tìm đường cứu
nước theo phương hướng mới. Người chọn con đường cứu nước khác với con
đường của những người đương thời, cũng không giống con đường duy tân của
những người trong khu vực. Người hướng sang phương Tây và bằng đôi tay lao
động, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của mình để tìm con đường cứu nước, cứu
dân. Người đã tìm thấy con đường cách mạng vô sản. Chỉ có con đường cách mạng vô
sản mới thực hiện được “Ba giải phóng”: đó là giải phóng dân tộc, xã hội và con
người. Chỉ có con đường cách mạng vô sản mới gắn được giai cấp với dân tộc, mới
gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, dân tộc với quốc tế. Người viết: “Muốn cứu

1

V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, Tập 6, tr.32.


3

nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”2.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03-02-1930) là sự kết hợp chủ
nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Khác với
sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản ở các nước tư bản (đó là sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân), từ trong bản thân sự ra đời của Đảng ta
đã có sự kết hợp chặt chẽ yếu tố giai cấp và dân tộc, tiêu biểu cho lợi ích,
nguyện vọng của giai cấp và dân tộc; gắn dân tộc với thời đại. Sự kết hợp chủ

nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong quá
trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện tính độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi ra đời, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận
cương chính trị tháng 10- 1930 đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo trào lưu
tiến bộ nhất của loài người trong thế kỷ XX. Đó là sáng tạo lớn nhất, là nền tảng
vững chắc cho những giai đoạn phát triển của đất nước sau này.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định con đường tiến lên của
cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc
dân chủ sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, mục tiêu cuối cùng của Đảng là chủ
nghĩa cộng sản- con đường đó đáp ứng nhu cầu của lịch sử và xu thế của thời
đại. Khi nói đến con đường đó mọi người đều hiểu và chấp thuận, con đường đó
phải do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong đó giai đoạn 1 tất yếu phải đi
qua, giai đoạn 2 là phương hướng phải đi tới. Hồ Chí Minh đã giải quyết mối
quan hệ giã hai giai đoạn một cách tài tình, khéo léo bởi vì mỗi giai đoạn có mục
tiêu, nhiệm vụ, lực lượng và phương pháp cách mạng khác nhau. Chỉ thực hiện
được điều đó cách mạng mới giành được thắng lợi. Đó là đường lối chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với người đảng viên Đảng cộng sản, điều đòi hỏi
đầu tiên về tư cách là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ lý
luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm được đường lối, chính sách
của Đảng. Đảng Cộng sản phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại
chúng ta”3. Điều đó, đã thể hiện tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo,
đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Tinh thần độc lập, tự chủ ra đời rất sớm trong lịch sử cách mạng nước ta.
Trong khi nhiều nhà cách mạng Châu Âu cho rằng, chỉ khi nào cách mạng ở
chính quốc thành công thì sự nghiệp giải phóng ở các nước thuộc địa mới có thể
hoàn thành. Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng, sự nghiệp giải phóng ở các nước
thuộc địa có thể chủ động dựa vào sức mình mà giành thắng lợi trước, hơn nữa
còn có thể giúp đỡ, ủng hộ nhiều cho sự nghiệp cách mạng ở chính quốc. Người
2

3

Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 9, tr.314.
V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, Tập 33, tr.33.


4

viết: “Cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô
sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn
nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của
mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương
Tây”4 và “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn” 5. Luận điểm đó của Nguyễn
Ái Quốc đã góp phần làm phong phú thêm lý luận về cách mạng giải phóng dân
tộc thuộc địa, về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa.
Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời đã phát động được cao trào đấu
tranh rộng lớn trong phạm vi cả nước. Cao trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh
cao là Xô viết Nghệ Tĩnh là một sáng tạo của công nhân và nông dân khi được
giác ngộ đã dám “xông lên chọc trời”. Xô viết- một hình thức chính quyền cách
mạng của công- nông- lần đầu tiên xuất hiện ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh là một
độc đáo, sáng tạo so với các hình thức Xô viết đã xuất hiện trong phong trào
công nhân thế giới. Mặc dù chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn nhưng Xô
viết Nghệ Tĩnh đã thể hiện bản chất chính quyền cách mạng của dân và vì dân.
Sau cao trào cách mạng 1930- 1931, kẻ thù thực hiện chiến dịch đàn áp,
khủng bố khốc liệt, cách mạng bị dìm trong bể máu. Tình hình đen tối tưởng
như không có đường ra, song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng, mục
tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức quần chúng đấu tranh, nhanh chóng vượt
qua thoái trào tiến lên một cao trào mới, cao trào dân sinh dân chủ 1936- 1939
hiếm có ở các nước thuộc địa. Xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt sát hợp,

hình thức tổ chức vừa tầm, đa dạng, phong phú, phương pháp đấu tranh linh
hoạt, khéo kết hợp công khai hợp pháp với bán hợp pháp... “Đảng ta đã tổ chức
những hoạt động công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp với hoạt động bí
mật để động viên lực lượng các tầng lớp nhân dân trong phong trào đòi dân sinh,
dân chủ, đòi cơm áo, hoà bình”6, nhờ đó phong trào đấu tranh thời kỳ mặt trận
dân chủ 1936- 1939 phát triển mạnh mẽ. Đó là những sáng tạo nổi bật của Đảng
và quần chúng ở thời kỳ này.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả tổng hợp của những
nhân tố chủ quan và khách quan. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 là thắng lợi của tư tưởng, đường lối nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Năm 1928, Quốc tế Cộng sản cho
rằng, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến là đồng thời và song song, hơn
nữa còn coi cải cách là xương sống của các nước thuộc địa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta từ đầu đã nhận thức đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến và đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng
Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 1, tr.IX- tr X.
Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 1, tr.X.
6
Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 6, tr.643.
4
5


5

đầu, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra thực hiện từng bước, phục vụ và phục
tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Thực tiễn cách mạng nước ta, với những thắng
lợi giành được, chứng tỏ đường lối giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ chống đế
quốc lên hàng đầu là đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tinh thần chủ động tạo ra thời cơ và kịp thời nắm thời cơ để giành chính

quyền về tay nhân dân là một sáng tạo vô giá, một đóng góp to lớn vào thực tiễn
phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Từ kinh nghiệm lịch sử, Đảng
chủ trương khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc. Khéo kết hợp nhân tố dân tộc với nhân
tố quốc tế, tranh thủ điều kiện thuận lợi của thế giới- chiến tranh thế giới lần thứ
hai kết thúc. Nhật đầu hàng đồng minh. Đảng kịp thời phát động và lãnh đạo
toàn dân nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai của
Nhật(tháng 9 năm 1945).
Cách mạng Tháng Tám là một biểu tượng về tinh thần dũng cảm vô song
và trí sáng tạo phi thường của toàn Đảng, toàn dân. Nhiều nơi chưa nhận được
lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, song nhạy bén nhận thấy những chuyển
biến nhanh chóng của thời cuộc và căn cứ vào Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” của Đảng, các Đảng bộ cùng với đoàn thể Việt Minh
đã kịp thời lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng
Tám là một cuộc khởi nghĩa toàn dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”7.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng như “ngàn cân treo
sợi tóc”. Các thế lực đế quốc cấu kết với nhau định bóp chết chính quyền cách
mạng, tiêu diệt Đảng cộng sản Việt Nam, xoá bỏ thành quả cách mạng, thiết lập
chính quyền bù nhìn làm tay sai cho chúng. Bọn Việt gian phản động núp dưới
chân đế quốc từ nước ngoài về hoặc từ trong nước ngóc đầu dậy tìm mọi cách
chống phá, mưu toan lật đổ chính quyền cách mạng. Nền kinh tế tài chính kiệt
quệ... Lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những quyết sách táo
bạo, chính xác và kịp thời. Khi thì hoà với Tưởng ở miền Bắc để tập trung đối phó
với với thực dân Pháp xâm lược ở Nam bộ, khi thì hoà với Pháp để gạt gần 20 vạn
quân Tưởng về nước. Tránh cho nhân dân ta cùng một lúc phải đương đầu với
nhiều kẻ thù, có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng chuẩn bị cuộc chiến đấu lâu
dài. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó được coi như một mẫu mực tuyệt vời
trong sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Phải là một Đảng có
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mới có thể chèo lái đưa con thuyền cách
mạng vượt qua ghềnh thác, hiểm nguy đó. Đó là thể hiện tính độc lập, tự chủ, tự

lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 5 năm đầu ta còn bị bao
vây tứ phía, phải sau chiến thắng biên giới 1950 ta mới có điều kiện liên hệ với
7

Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 3, tr.554.


6

Trung Quốc và một số nước khác. Tự lực, tự cường là một tất yếu. Ngay từ đầu
cuộc kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Quyết tâm: “Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”8. Với đường lối đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng trải qua 9 năm kháng chiến
anh dũng, quân, dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu. Việt Nam là nước đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Đó là thể
hiện tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với Hiệp định Giơnevơ, tháng 7- 1954 nước ta tạm thời chia cắt làm hai
miền. Đảng quyết định tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng đó có quan hệ mật thiết, tác động thúc
đẩy lẫn nhau. Cách mạng miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp sự nghiệp
giải phóng miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa quyết
định nhất sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của
cách mạng nước ta từ tháng 7- 1954 đến tháng 4- 1975. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Việt Nam diễn ra trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp
(tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, sự chiến tranh lan rộng; chỉ thấy cái mạnh, không

thấy điểm yếu của Mỹ; mâu thuấn giữa Liên Xô và Trung Quốc diễn ra gay gắt).
Nhân cơ hội đó, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, leo thang bắn phá miền Bắc
bằng không quân và hải quân. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn kiên định đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân phát triển mạnh
mẽ với nhiều hình thức, bao gồm chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc ở
miền Nam và chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc;
chiến tranh nhân dân tiến hành trên đất liền, trên biển, trên không. Cả nước một
lòng, toàn dân đánh giặc, đánh giặc bằng tất cả mọi thứ vũ khí có trong tay.
Chúng ta đã đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng phương pháp cách mạng khoa học,
sáng tạo là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, bao gồm hai lực lượng:
lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp đấu
tranh chính trị và đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa
của quần chúng và chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi
dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và
thành thị: đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết
8

Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1995, Tập 4, tr.480.


7

hợp ba thứ quân: quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; kết hợp
chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa và
đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm
vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm
thời cơ...Đường lối chính trị, quân sự, phương pháp tiến hành cách mạng và

chiến tranh cách mạng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn để nhân dân
ta thắng Mỹ. Đó là thể hiện tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng
đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đất nước hoà bình, thống nhất, cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước
trong bối cảnh đặc biệt. Thế giới trải qua một thời kỳ đầy biến động, cách mạng
thế giới đang tạm thời lâm vào thoái trào, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu tan rã, thị trường truyền thống bị đảo lộn. Đất nước đứng trước
những nguy cơ lớn: Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận đối với Việt Nam, các thế lực
thù địch tấn công từ nhiều phía mưu toan phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, phủ
định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Một số nước thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập làm cho
một bộ phận cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động. Đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế- xã hội. Hai năm sau Đại hội VI, đường lối đổi mới vẫn chưa đi
vào cuộc sống, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội càng trở nên gay gắt, nhiều
vấn đề xã hội càng trở nên nan giải.
Trong bối cảnh hết sức phức tạp đó, Đảng ta vẫn kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa, kiên trì đổi mới, đổi mới có nguyên tắc, không hoang mang dao
động, không bắt chước người khác, không vì sức ép từ bất cứ phía nào mà thay
đổi phương hướng mục tiêu đã định.Đảng ta hoạch định đường lối đổi mới toàn
diện, đồng bộ. Xét trên tổng thể, đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị thể
hiện trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Công cuộc
đổi mới trước hết tập trung vào kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế mà từng bước
đổi mới chính trị một cách vững chắc. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã giải
quyết thành công mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chủ trương đó là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, tìm tòi sáng tạo của Đảng và của quần chúng nhân dân ta. Cuộc sống
đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện đường lối xây

dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở,
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế vì độc lập
dân tộc, dân chủ, hoà bình và phát triển, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá


8

đã tạo được môi trường quốc tế thuận lợi cho hoà bình, ổn định xây dựng, vị thế
chính trị của Việt Nam được đề cao trên trường quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Chỉ có con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới
tránh được tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực. Đây là việc
làm hoàn toàn mới đối với một nước như nước ta. Với bản lĩnh chính trị độc lập,
tự chủ sáng tạo, chắc chắn Đảng ta sẽ hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó. Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã xác định: “Hai mươi năm qua, với sự
nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” 9. Đó là thể hiện tính
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta .
2. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay.
Thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đưa
cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới, thời kỳ cả nước thống nhất, độc lập
và đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chậm phát
triển; chiến tranh kéo dài và tàn phá nặng nề; hậu quả của chủ nghĩa thực dân đế
quốc; tàn dư của chế độ thuộc địa nửa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Mặt
khác, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (cả nước tiến hành từ 1976) Đảng
cộng sản Việt Nam có nhiều tìm tòi, thử nghiệm để phát triển đất nước.
Cuối những năm 70 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội trên thế giới bắt đầu

lâm vào khủng hoảng và thoái trào làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đông Âu sụp đổ (vào những năm 90 của thế kỷ XX), cách mạng thế
giới gặp khó khăn nghiêm trọng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam đã quan
niệm về mô hình về chủ nghĩa xã hội một cách cứng nhắc, “sao chép” một cách
máy móc giáo điều của các Đảng anh em (thời kỳ 1976- trước 1986), vì vậy, đã
đưa đất nước đến sự khủng hoảng trầm trọng. Cách mạng Việt Nam cũng phải
đương đầu với những thách thức mới trong đó khó khăn và thách thức lớn nhất
lúc này là làm sao tìm hướng đi và giải pháp có hiệu quả để đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội.
Trước thực trạng đó, Đảng cộng sản Việt Nam một lần nữa thể hiện tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn. Đảng quyết định “đổi
mới” toàn diện đất nước được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,Nxb.CTQG,HN,2006,tr.67.


9

VI của Đảng (đổi mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ và trên lĩnh vực kinh tế
được thực hiện từ tháng 8 năm 1979 đến trước tháng 12 năm 1986).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) của Đảng là
Đại hội đổi mới, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật. Đại hội chỉ ra những thành tựu của cách mạng đó là những nhân tố để
chúng ta tiếp tục tiến lên. Đồng thời Đại hội cũng nghiêm khứac chỉ ra những
khuyết điểm, sai lầm còn mắc phải: “Sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan
trọng trong kế hoạch 5 năm không đạt được, tài nguyên lãng phí, phân phối lưu
thông rối ren, nhiều lao động không có việc làm, hàng tiêu dùng thiếu nghiêm
trọng. Thiếu sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh

tế- xã hội, ổn định đời sống nhân dân” 10. Đại hội chỉ ra khuynh hướng tư tưởng
chủ yếu dẫn đến sai lầm, khuyết điểm. Đồng thời Đại hội rút ra các bài học kinh
nghiệm và nêu rõ quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới ở nước ta là:
Một là, đổi mới là khách quan, là yêu cầu bức thiết của cách mạng nước
ta. Đại hội chỉ rõ: “Chỉ có đổi mới, mới thấy đúng, thấy hết sự thật, thấy những
nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”11.
Hai là, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, đổi mới phải biết kế
thừa thành tựu, kết quả đã thu được trong quá khứ. “Đổi mới không có nghĩa là
phủ định những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ
biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn
sáng tạo đã được xác định, trái lại chính là sự bổ sung và phát triển những thành
tựu ấy”12.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế- xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi, cách làm thích hợp.
Bám sát thực tiễn và nguyên tắc của đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo cách mạng nước ta giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Trong quá trình đổi mới Đảng cộng sản Việt Nam luôn kiên trị mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong khi đó các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Đông Âu trong
quá trình cải tổ, cải cách đã làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa tan rã. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng ấy trong đó có nguyên nhân thiếu
tính độc lập, tự chủ sáng tạo, đúng đắn dập khuôn máy móc, giáo điều, cùng với
sự tấn công của kẻ thù trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội đã
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb QĐNV, H 2005, Tập 2, tr 82.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr, 26- tr
27.
12
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr, 125.
10

11


10

làm cho các Đảng Cộng sản tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ (đất nước
vẫn độc lập nhưng mất chủ nghĩa xã hội).
Đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của ý Đảng,
lòng dân. Do đó, đường lối đó sớm được hiện thực hoá, mang lại kết quả trong
cuộc sống. Điều đó chứng tỏ quá trình tìm tòi con đường thích hợp đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
xu thế của thời đại và hợp quy luật, thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta.
Bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta
có ý nghĩa to lớn trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Sự nghiệp đổi mới
là một quá trình tìm tòi, hình thức, bước đi thích hợp của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên cơ sở nhận thức một cách đúng đắn hơn về những quy luật của cách
mạng xã hội chủ nghĩa để vận dụng một cách cụ thể ở Việt Nam. Trong quá
trình đổi mới Đảng ta cũng gặp không ít khó khăn, chính trong khó khăn đó
càng thể hiện bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của
Đảng để đáp ứng với những thử thách gay go quyết liệt nhất của cách mạng.
Chính bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của
Đảng đã rèn luyện lòng trung thành, ý chí kiên cường, dũng cảm, đức hy sinh vì
lý tưởng, niềm tin vào mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc
ta. Bản lĩnh đó được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn chủ nghĩa MácLênin; nhận thức đúng đắn những quy luật khách quan vận dụng linh hoạt sáng
tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam do đó đã thành công. Vì vậy, đòi hỏi Đảng
cộng sản Việt Nam và mỗi đảng viên của Đảng phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh coi đó là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng theo đúng tinh thần
của Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì

không thể không có tư duy lý luận”13. Đồng thời, học tập những kinh nghiệm quý
báu của các nước có như vậy mới tránh được bảo thủ, trì trệ, lạc hậu để đối phó
với những tình huống xấu có thể xảy ra.
Bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng là
tiềm lực chính trị quý giá cần được bảo vệ, phát huy và cũng cần tiếp tục nghiên
cứu bổ sung phát triển phù hợp với tình hình mới để không lạc hậu với cuộc
sống. Theo Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”14. Đồng thời, Đảng cộng sản Việt Nam phải phát huy cao độ tinh thần
13

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 489.
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, Tập 4, tr.232

141


11

quốc tế vô sản. Vì đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng
Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính xuất phát từ vai trò sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu nguồn gốc, bản
chất của giai cấp công nhân Mác và Ăngghen đã nêu khẩu hiệu: “Vô sản tất cả
các nước, đoàn kết lại”. Lênin khẳng định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và
của nền sản xuất cho thị trường toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức
chặt chẽ giữa tất cả các dân tộc trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào
công nhân hiện đại phải trở thành và từ lâu đã trở thành một phong trào quốc
tế”15. Người nhấn mạnh: “Chỉ có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách

biệt giữa các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh
em giữa các dân tộc khác nhau”16. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là
bản chất của Đảng cộng sản. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ
Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết MácLênin; Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại; quan
tâm giáo dục đội ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân và “Liên minh với những người cách mạng trong các
nước tiên tiến và với tất cả các dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa
thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách đối ngoại của giai cấp vô sản” 17. Điều đó
Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang phát huy có hiệu quả.
Bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của
Đảng ta, nó được biểu hiện trên những vấn đề sau đây:
Một là, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta,
nó được biểu hiện trong việc xác định đường lối chính trị, đường lối kinh tế,
đường lối quân sự, quốc phòng, đường lối đối ngoại trong quá trình đổi mới.
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và thành công mối quan hệ giữa lý luận
với thực tiễn; không ngừng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để bổ sung lý luận.
Qua đó trong mỗi thời kỳ cách mạng Đảng ta đã xác định rõ hơn về đường lối
chính trị, đường lối kinh tế, đường lối quân sự, quốc phòng, đường lối đối ngoại
nhất là trong quá trình đổi mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc
của Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tếxã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, Tập 6, Tr.261
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1995, Tập 2, Tr.792
17
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, Tập 32, Tr.425

15
16


12

tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống những
quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”18.
Hai là, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta,
nó được biểu hiện trong việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội trong quá trình lối đổi mới.
Tiến bộ xã hội là thể hiện bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa của chế độ ta.
Đảng ta xác định giải quyết giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội giai đoạn từ 2006- 2010 gồm những nội dung như sau:
Thứ nhất, khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện có
hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo: Tạo điều kiện và cơ chế tiếp cận
bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn
lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo.
Khứac phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại.
Thứ hai, xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công
cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, chăm sóc
sức khoẻ, văn hoá- thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm: Xây dựng hệ thống
an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc
làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ
cao...Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.

Thứ ba, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm cho sức
khoẻ mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ: Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để
nâng cấp các cơ sở y tế dự phòng, xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ cấp và
bảo hiểm y tế cho người hưởng chính sách xã hội và người ngèo trong khám,
chữa bệnh. Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao và ngoài công lập. Tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Thứ tư, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con
người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi: Tăng cường thể
lực của thanh niên. Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong
trào và thể thao thành tích cap, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù
hợp để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí
cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới ở những môn Việt
18

Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.


13

Nam có ưu thế...Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Thúc đẩy phong
trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em
được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hoà về thể chất,
trí tuệ và đạo đức; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Phòng chống
HIV/AIDS bằng các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả.
Thứ năm, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình:
Giảm tốc độ tăng dân số.Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh
thay thế, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dan số.
Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng
với những dòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia

đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế
bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và
giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp,
tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ sáu, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý
và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Ba là, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta,
nó được biểu hiện trong việc xác định hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình
đổi mới.
Nêu cao hội nhập kinh tế quốc tế là để xây dựng được một nền kinh tế độc
lập, không lệ thuộc vào bbất cứ tổ chức nào, nước nào. Chỉ có một nền kinh tế
độc lập mới không lệ thuộc về chính trị và mới độc lập về chính trị, chỉ có độc
lập mới hội nhập được. Đảng cộng sản Việt Nam đã tự lựa chọn đường lối,
chính sách kinh tế, mô hình, thể chế kinh tế riêng, từ đó đã tạo ra tiềm lực kinh
tế mạnh để có khả năng đáp ứng với tình hình và có sự phát triển. Đồng thời
tăng cường hiệu quả của kinh tế nhà nước và Nhà nước quản lý nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước biến động của thế giới nhưng chúng ta vẫn
ổn định về kinh tế và có sự phát triển.
Đại hội X đã xác định chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong
giai đoạn 2006- 2010 bao gồm:
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy
đủ hơn với kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu cao nhất.
Thứ hai, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù
hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020: Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước
ASEAN, các nước châu Á- Thái Bình Dương...Củng cố và phát triển quan hệ
hợp tác song phương tin cỵ với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các



14

cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức
Thương mại thế giới WTO.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy,
sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, nhất
quán, ổn định và minh bạch: Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn
FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác
định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải
tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch bảo đảm
trả nợ đúng hạn; duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn.
Thứ tư, phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế: Xúc tiến mạnh
thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu
mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh
nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Bốn là, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta,
nó được biểu hiện trong việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa đổi mới ,
ổn định và phát triển trong quá trình đổi mới.
Đổi mới phải ổn định, ổn định để đổi mới có hiệu quả mục tiêu của đổi
mới để đất nước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển toàn diện về mọi mặt của
đời sông kinh tế- xã hội cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ning và đối
ngoại. Trong từng lĩnh vực đó cũng đổi mới, ổn định và phát triển, và mỗi lĩnh
vực góp phần vào sự ổn định và phát triển chung của đất nước. Thực tiễn trong
quá trình đổi mới đất nước đã chứng minh điều đó.
Năm là, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của Đảng
ta, nó được biểu hiện trong việc luôn chăm lo đến củng cố quốc phòng an ninh
trong quá trình đổi mới.
Trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh có sự đổi mới cả về nhận thức, nội
dung và tổ chức thực hiện, mục tiêu là bảo vệ thành công công cuộc đổi mới.

Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã xác định: “Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã
hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”19. Như vậy,
bảo vệ Tổ quốc hiện nay bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
19

ĐCSVN, Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb CTQG, H. 2006, tr 175.


15

trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình
huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi để phát triển đất
nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ
Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh,
đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước. Trong đó nhiệm vụ xây dựng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau.
Các giải pháp để tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Đảng ta xác định là:
Thứ nhất, tiết tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, có
nội dung phù hợp với từng đối tượng và đưa vào chương trình chính khoá trong các
nhà trường theo cấp học, bậc học: Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối
tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong

thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Giữ vững an ninh nội địa; giải quyết kịp
thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng “thế trận lòng dân” làm
nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị
nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, địa phương,
cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường sức mạnh quốc
phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước: Xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Đẩy
mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển các khu
kinh tế- quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng- kinh tế với mục tiêu tăng
cường quốc phòng- an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến
lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo.Xây dựng công
nhiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý
điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa
phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh.
Thứ ba, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại: Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến
đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy,
yêu mến. Đổi mới tổ chức, nôi dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải
tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát
triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến


16

phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách phối hợp với các
tổ chức của nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

Thứ tư, xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với hoạt động quốc phòng, an ninh: Thực hiện chế độ một người chỉ huy
gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên, tăng cường công tác đảng, công
tác chính trị trong quân đội. Bổ sung cơ chế phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an
ninh, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm
tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện. Bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
3. Những nhân tố bảo đảm cho đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam đúng đắn.
Một là, phẩm chất chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam- Đảng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Phẩm chất và bản lĩnh Hồ Chí
Minh là độc lập, tự chủ và sáng tạo đã trở thành phẩm chất của Đảng và luôn
được Đảng giữ vững và phát huy. Phẩm chất chính trị của Đảng ta là trung thành vô
hạn với giai cấp và dân tộc, một lòng vì nước vì dân, gắn bó mật thiết với nhân dân.
“Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”20. Đó cũng
là thể hiện phẩm chất độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta.
Hai là, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng một cách độc lập, sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn chúng ta học chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập không giáo điều,
không phải để “thuộc sách lầu lầu”, để biết “cụ Mác nói thế này cụ Lênin nói thế
kia”, mà là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với
bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để
áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta” 21. Đó cũng là thể
hiện phẩm chất độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng hoạt động thực tiễn
và tổng kết thực tiễn, qua thực tiễn mà bổ sung đường lối. Đảng cộng sản Việt
Nam muốn giữ được vai trò lãnh đạo thì phải có lý luận đúng đắn như Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ ra là lý luận từ tổng kết thực tiễn. Mác và Ăngghen viết: “Lý

luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự giải thích quá trình
phát triển, quá trình này bao hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế
tiếp nhau”22. Lênin đã chỉ ra: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 250.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 9, tr 292.
22
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, tập 36, tr 785.
20
21


17

luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu
đối với cuộc sống”23. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nói cách khác chủ nghĩa
Mác sẽ còn đúng cả ở đó. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch
sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời
mình không thể có được”24. Đó cũng là thể hiện phẩm chất độc lập, tự chủ và
sáng tạo của Đảng ta.
Bốn là, về phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và coi đó là sự nghiệp
của quần chúng.
Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân của mối liên hệ
giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kiên quyết đấu
tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Quần
chúng tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng, đồng thời
Đảng làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo không bao giờ
cạn của quần chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với nhân dân,
cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của

Đảng. Lênin viết: “Để không trở thành đảng của quần chúng chỉ trên lời nói,
chúng ta phải thu hút quần chúng ngày càng rộng rãi tham gia vào tất cả những
công việc của đảng”25. Mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển
và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm
cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu không liên hệ với quần
chúng thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết tiếp: “Đội tiền phong chỉ làm tròn
được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực
sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người
không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác
nhau, thì không thể nói tới một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa cộng sản cả”26. Củng cố mối liên hệ này là vấn đề thuộc bản chất của
Đảng ta, thiếu điều kiện này không những không thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến nguy cơ mất chính quyền. Trong giai đoạn
Đảng lãnh đạo chính quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề củng cố và tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng
hơn bao giờ hết. Vì bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước vào một cuộc
cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó nó cũng gay go
nhất, phức tạp nhất trong lịch sử loài người. Đó là thời đại rung chuyển vũ bão
về chính trị và kinh tế, thời đại đấu tranh giai cấp cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách
mạng này đòi hỏi Đảng phải động viên và phát huy cao nhất tính tích cực và
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, Tập 1, tr 466.
25
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, Tập 8, Tr.106
26
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, Tập 45, Tr.28
23
24



18

sáng tạo của quần chúng nhân dân, không như thế thì không thể có chủ nghĩa xã
hội được. Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sinh động sáng tạo là sự
nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân” 27 và “một trong những nguy hiểm
lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng” 28, nếu những ai
quên mất những mối quan hệ khăng khít giữa đội tiên phong và toàn thể quần
chúng nhân dân thì đó sẽ là một tai hoạ.
Đảng ta đã phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và coi sự nghiệp cách
mạng là của quần chúng. Bằng việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
trong sự nghiệp xây dựng đất nước, lại một lần nữa khẳng định tính đúng đắn sáng
tạo của Đảng trước tình hình mới. Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng
ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là đường lối chiến lược
đúng đắn, là nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và của toàn xã hội. Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp,
tầng lớp, các thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, miền của đất
nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân
tộc, thống nhất, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm
điểm tương đồng. Đảng ta đã xác định: “Có những nhận thức mới về đại đoàn kết
dân tộc với tinh thần phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tiếp tục khẳng định đại
đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khẳng định đúng yếu tố lợi ích, đáp
ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích thống nhất quyền lợi
và nghĩa vụ công dân, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân;
xem dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, thực hiện dân chủ và
phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thuận xã hội là mẫu số chung nhằm đạt tới sự

cố kết xã hội và chống sự phân biệt xã hội, áp bức giai cấp; vai trò giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân được xem như là những nhân tố
mới nhằm mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; nhận thức tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và sẽ tồn tại cùng nhau trong
cuộc hành trình đổi mới, tiến lên dưới lá cờ đại nghĩa của dân tộc” 29. Đó cũng là
thể hiện phẩm chất độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta.

. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, Tập 35, Tr.64
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, Tập 44, Tr.426
29
“Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006,
tr 3.
27

28


19

Năm là, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng củng cố và chỉnh đốn
Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn tiên phong cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Ngay từ khi thành lập Đảng đến nay và bằng chính thành tựu Đảng đem
lại qua hai mươi năm đổi mới đã nói thay điều đó.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn tăng cường
xây dựng và chỉnh đốn đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng để thực hiện vai trò lãnh
đạo cách mạng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “việc cần làm trước
tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và

nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” 30. Đảng
ta cũng xác định: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị tư
tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong
sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với
nhân dân”31. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên quan tâm củng cố,
chỉnh đốn Đảng. Đảng đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nhìn đúng sự thật, tự
phê bình và phê bình nghiêm khắc và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Có lúc
phạm sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng nhưng điều đặc biệt có ý nghĩa là
với tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật, phê bình nghiêm khắc trước nhân dân và có kế hoạch,
biện pháp kiên quyết sửa chữa. Có thể nói trong thời khắc hết sức quan trọng
của đất nước, chúng ta lại tự hào, có Đảng biết vận dụng cơ hội, vượt qua thách
thức đề ra được Đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo. Đảng ta đã nhìn thẳng
vào sự thật, sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm sai lầm, đáp ứng được với
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới: “Trong hai mươi năm đổi
mới, Trung ương các khoá đã tập trung lãnh đạo công tác xây dựng Đảng và đổi
mới hệ thống chính trị. Những vấn đề mới về xây dựng Đảng thể hiện ở các báo
cáo tổng kết, ở tinh thần đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nhằm chống nguy cơ sai
lầm về đường lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, sai lầm về lựa
chọn và bố trí cán bộ; tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu xa rời nhân dân, xa rời
thực tế; xây dựng đạo đức, nhân cách đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; giữ vững ổn
định chính trị; giải quyết một bước vấn đề đảng viên làm kinh tế” 32. Vì vậy, cần
nắm vững và làm tốt các yêu cầu sau:
30
31


Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1995, tập 12, tr.497,498,503.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,Nxb.CTQG,HN,2006,tr.279.


20

Một là, phải kiên định lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; trong Đảng phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh theo lập trường, quan
điểm của giai cấp công nhân, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê bình và
phê bình nhằm giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Phải phát huy dân chủ
đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Tăng cường củng cố mối quan hệ gắn
bó mật thiết với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời sống của
nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để
lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu quả
ngày càng cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối. Nhà nước thể chế hoá,
cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến
pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn; xây dựng Nhà nước
thật sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao
biện, làm thay Nhà nước.
Ba là, phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ gắn
bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, thông

qua phong trào cách mạng của quần chúng để làm tốt công tác xây dựng Đảng.
Việc phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng, hai mặt này gắn bó
chặt chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển Đảng có ý nghĩa thiết thực góp
phần củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu chuẩn, đúng phương hướng, qua
đó nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm cần thiết để nâng cao sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời “Phải đuổi ra khỏi Đảng những
kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu
nhược”33. Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, có đủ
năng lực lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một mặt
kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những
phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất.
“Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006,
tr 3.
33
. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, Tập 44, Tr.154.
32


21

Vì vậy, phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên, hướng vào việc nêu cao phẩm chất cách mạng, nêu cao ý thức phục
vụ nhân dân, thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân;
rèn luyện phong cách làm việc khoa học, thiết thực cụ thể, bám sát cơ sở và
quần chúng. Đồng thời, phải nâng cao trình độ kiến thức khoa học xã hội, tự
nhiên, năng lực quản lý và tổ chức thực hiện; tăng cường công tác tổ chức, kiểm
tra việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Các cấp lãnh đạo, cán bộ
lãnh đạo phải thực sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân,
có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia
giám sát và các công việc của Đảng, khắc phục lối làm việc quan liêu, xa thực

tế, xa dân. không nắm chắc tình hình mọi mặt của cuộc sống, của cơ sở, tổ chức
bộ máy cồng kềnh, nặng giấy tờ, hình thức, cửa quyền, mệnh lệnh, tham nhũng,
lãng phí.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng mối
liên hệ giữa Đảng và quần chúng. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” 34. Vì
vậy, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường vận động
quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng là người lãnh đạo quần chúng và
phong trào cách mạng của quần chúng, nhưng cũng chính từ quần chúng và
phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng cũng mạnh và trưởng thành lên.
Hiện nay, mối liên hệ trên cần có sự bổ sung nội dung, yêu cầu mới cao hơn, phải
thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy đó làm động lực
thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; quan tâm đến lợi ích của quần
chúng, chăm lo đến đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; giáo dục quần
chúng, làm cho quần chúng tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách đó có hiệu quả.
Bốn là, phải bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ
sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng của công tác xây dựng
Đảng hiện nay nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Cần có phương thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân, xây dựng một hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và
hiệu quả, Phương châm đổi mới là tiến hành đồng bộ đổi mới tư duy với đổi mới
tổ chức, cán bộ, quá trình đổi mới phải tiến hành thận trọng, từng bước. Cách
làm phải thực sự dân chủ, chống sự áp đặt, chủ quan, hình thức. Để bảo đảm vai
trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng
34


Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tập 8, tr. 276


22

đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành bằng nhiều biện pháp, trong đó, phải
thường xuyên kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Mỗi tổ chức cơ sở đảng
phải có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản
lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo
đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các hiện tượng tiêu cực
trong Đảng. Phải căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng mà tăng cường, đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, lý luận nâng cao trình độ
trí tuệ, xây dựng lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên, củng cố
sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng.
Năm là, phải giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm sâu sắc đến đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người
đã thực sự trở thành tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh: “Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó
là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” 35. Đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp hài hoà giữa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam với tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo Mác- Lênin.
Đạo đức cách mạng thể hiện ở mục tiêu cách mạng. Mục tiêu cao cả nhất của
Đảng cũng như của mỗi đảng viên là giải phóng dân tộc, đồng thời các tiêu chí
đó cũng chỉ đạo hoạt động của Đảng, tư cách đạo đức cách mạng của đảng viên
phải được thể hiện trên thực tế thì Đảng mới có sức mạnh. Theo Bác lợi ích của

dân tộc, của Tổ quốc cũng là lợi ích của Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam không
còn lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc.
Đạo đức cách mạng đó là phải sống, chiến đấu, lao động và học tập vì lợi
ích chung của Đảng, của Tổ quốc, của toàn thể nhân dân lao động; phải biết đặt
lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Đạo đức
cách mạng có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, nó là cái “gốc”, là “nền tảng”, là
cái “căn bản” của người cách mạng, “Cũng như sông có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”36. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: “Học tập, quán triệt
làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh” 37. Bởi vì:
“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 252.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 252.
37
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 286.
35
36


23

nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ,
công chức diễn ra nghiêm trọng”38. Cho nên, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt các nội dung sau đây:
- Phải xây dựng lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Sự trung thành đó trước hết phải có sự giác ngộ sâu sắc lý tưởng, mục tiêu cách
mạng của Đảng, lấy đó làm mục đích hoạt động của mình. Sự trung thành đó thể
hiện trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng quyết tâm phấn đấu để thực hiện
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; hết

lòng, hết sức phụng sự nhân dân, thương yêu giúp đỡ nhân dân, kiên quyết
chống bệnh quan liêu, thói gia trưởng, cửa quyền, ức hiếp nhân dân và thói kiêu
ngạo.
- Phải xây dựng tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng cho cán bộ, đảng viên,
làm cho họ luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cộng đồng lên trên
lợi ích cá nhân; biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chung của Đảng; có lối
sống “mình vì mọi người”; gương mẫu trước quần chúng.
- Xây dựng lối sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, nhân hậu, thuỷ
chung, đoàn kết, thương yêu, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bằng chính những hành
động của mình trong cuộc sống hàng ngày; có thái độ nghiêm khắc đối với chính
bản thân mình; khoan dung, độ lượng và tôn trọng đối với mọi người.
- Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên có đức tính: cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư, có nghĩa là phải tận tuỵ trong công việc, không lười biếng,
không tham ô lãng phí, sống trung thực thẳng thắn đối với mọi người, hết lòng,
hết sức phục vụ sự nghiệp chung, tránh lối sống vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân.
- Phải xây dựng cho cán bộ đảng viên có lòng dũng cảm, ý chí kiên cường
trong đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện sai trái, tiêu cực trong cuộc sống và
những hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đã chứng minh, Đảng ta đã không ngừng xây dựng, chỉnh đốn
tự đổi mới, vươn lên về mọi mặt, đủ sức đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt
Nam:
Ngay từ khi mới ra đời (tháng 3-1931), Đảng ta đã tiến hành Hội nghị phê
phán những biểu hiện sai lầm ở một số đảng viên: quan điểm, nhận thức khác
nhau về mục tiêu và bản chất giai cấp của Đảng, về sự kiên định chủ nghĩa MácLênin, đấu tranh chống mọi biểu hiện tả khuynh và hữu khuynh trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên.
38

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr 65.



24

Thời kỳ mặt trận dân chủ (1936-1939), Đảng ta lại mở cuộc vận động tự
phê bình và phê bình để uốn nắn những lệch lạc về quan điểm, nhận thức giai
cấp, hẹp hòi, thoả hiệp những biểu hiện đó khiến cho Đảng xa cách quần chúng,
một số đảng viên dao động trước tình hình, lãng quên chủ nghĩa Mác- Lênin.
Năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn
gay go, quyết liệt, Đảng ta mở cuộc vận động xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh tinh thần tự phê bình và phê bình, coi đó là cuộc cách mạng tư tưởng
để khắc phục những biểu hiện tiêu cực, ngại khó, ngại khổ, nôn nóng, thiếu ý
thức tổ chức kỷ luật, quan liêu xa rời quần chúng, tham ô, lãng phí.
Mùa xuân năm 1961, Đảng ta đã phát động “Cuộc chỉnh huấn mùa xuân”,
tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng để khắc phục chủ nghĩa cá nhân,
chống biểu hiện tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Cuộc chỉnh huấn lần này được xác định là đợt sinh hoạt chính trị lớn trong
toàn Đảng nhằm duy trì sự thống nhất của Đảng, phát huy dân chủ nội bộ, xây
dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân, “nâng cao sức chiến đấu mới,
tiến lên dành những thắng lợi mới trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng ” 39.
Sau cuộc vận động đó, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường và củng cố,
sức mạnh và uy tín của Đảng được nâng lên, sự kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng ngày càng được vững vàng hơn.
Đảng ta lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình nghiêm túc, Đảng “Phải đổi mới
và chỉnh đốn Đảng để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi
lĩnh vực”40. Hội nghị Trung ương 6 lần 2- khoá VIII (tháng 10- 1998) quyết định
mở cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hai năm 1999- 2001; đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng; chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống. Đảng ta đã chủ trương: Toàn Đảng tiến hành cuộc

vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ
niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm
thành lập Đảng. Cuộc vận động này tiến hành từ ngày 19/5/1999 đến ngày
19/5/2001, sau đó trở thành nền nếp, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, kiên
quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng lần này có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với vận mệnh của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa
do Đảng lãnh đạo. Chỉ có như vậy mới có thể “nâng cao uy tín và thanh danh
Hồ Chí Minh. Toàn Tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1995, tập 10, tr.309
Đỗ Mười, Về xây dựng Đảng, Nxb. CTQG, HN, 1994, tr.20

391
40


25

Đảng, thực hiện quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng- dân một ý chí”; “Toàn
Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi
cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân”.41
Tóm lại, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, có đường lối chính trị độc lập tự chủ đúng đắn, phải luôn coi trọng công
tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tăng cường giáo dục đạo đức lối sống
xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

Đó cũng là thể hiện phẩm chất độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta.
* Từ bản lĩnh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, đúng đắn của
Đảng trên đây, đặt ra yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị, đó là vấn đề cơ
bản, là gốc, là cơ sở cho nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, đồng
thời là nhân tố bảo đảm cho sự lãnh đạo thắng lợi của Đảng cộng sản Việt
Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là nhằm làm cho Quân
đội ta thực sự là công cụ sắc bén chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta sẵn sàng đối
phó với mọi tình huống; góp phần ổn định chính trị, giữ vững định hướng chính trị
của đất nước. Phải giữ vững bản chất, mục tiêu chiến đấu cho Quân đội ta. Vô hiệu
hoá âm mưu “diễn biến hoà bình” của kẻ thù đối với Quân đội ta. Vì vậy, cần thực
hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đây là nội dung cơ bản xuyên suốt, nó thấm nhuần vào mọi hoạt động của
Quân đội ta, nó thực sự trở thành đội quân cách mạng, quân đội của giai cấp vô
sản. Bản chất giai cấp của Quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân
Việt Nam, trong đó thống nhất tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc.
“Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân.
Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất Tổ quốc, để bảo vệ tự do hạnh phúc
của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào
khác”42. Giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị, tinh
thần chiến đấu cho quân đội để “Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và
Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân; chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực; tiết
kiệm, cần cù, khiêm tốn giản dị; đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân
41
42

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.CTQG,HN,2001,tr.139.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, Tập 6, tr 426.


×