LUẬN ĐIỂM BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
CỦA C. MÁC – PH. ĂNGGHEN. Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VIỆC
XÁC ĐỊNH BƯỚC ĐI, HÌNH THỨC KINH TẾ VÀ
PHƯƠNG PHÁP QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA
Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN)
là một trong những luận điểm cơ bản, nổi bật của học thuyết Mác – biểu hiện tập
trung quan niệm duy vật về lịch sử, cơ sở phương pháp luận của sự phân tích
khoa học, hòn đá tảng của khoa học xã hội. Lịch sử cách mạng thế giới đã, đang
và sẽ có nhiều biến đổi, nhưng tính cách mạng, khoa học của luận điểm này vẫn
còn nguyên giá trị.
Năm 1917, lần đầu tiên trên thế giới cách mạng XHCN được tiến hành
thắng lợi trước hết tại Nga, rồi sau đó hàng loạt các nước khác lần lượt giành
được độc lập và cùng với nước Nga vững bước trên con đường xây dựng CNXH.
Từ năm 1945 đến những năm 80 của thế kỷ XX, cách mạng XHCN hiện thực đã
trở thành một hệ thống quốc tế lớn mạnh. Lúc này, Liên Xô đã trở thành một
trong hai siêu cường thế giới, còn tại một số nước Đông Âu, Đông á, Mỹ la tinh,
Châu Phi vốn có nền kinh tế – kỹ thuật phát triển không cao, công cuộc xây
dựng CNXH cũng đạt được nhiều thắng lợi một phần nhờ sự ủng hộ quan trọng
của Liên Xô và phe XHCN. Đây chính là điều kiện khách quan cần thiết mà
Lênin đã chỉ ra, để các dân tộc lạc hậu có thể đi thẳng lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN.
Sau những năm 1989 – 1991 đến nay, tuy lâm vào thoái trào, CNXH thế
giới vẫn tiếp tục tồn tại. Nhưng trong hơn một thập niên qua, CNXH hiện thực
với quy mô quốc gia dân tộc chỉ hiện diện ở một số ít nước đang đi theo con
2
đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, mà Việt Nam là một
điển hình. Các nước XHCN này tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn sau
khoảng hơn nửa thế kỷ xây dựng xã hội mới, nhưng nhìn chung vẫn còn kém về
thực lực kinh tế – kỹ thuật, khoa học – công nghệ so với các nước TBCN. Thế và
lực của các nước XHCN không còn giữ được thế cân bằng chiến lược như đã
từng có trước đây đối với CNTB.
Trước tình hình ấy, đã xuất hiện một số quan điểm phủ nhận lý luận và
thực tiễn về con đường quá độ bỏ qua chế độ TBCN. Họ cho rằng, CNTB chưa
đi tới giới hạn phát triển cuối cùng, ngày nay nó đã chuyển sang hình thái mới
“CNTB hậu công nghiệp”; luận điểm về sự bỏ qua chế độ TBCN của Mác và
Ăngghen là một sai lầm, trái với quá trình lịch sử tự nhiên, không có khả năng
hiện thực, do vậy, con đường “phát triển rút ngắn” tại một số nước trên thế giới
hiện nay, trong đó có Việt Nam là thiếu cơ sở khoa học, không thể giành được
thắng lợi.
Chúng ta vừa tổ chức thành công Đại hội Đảng lần thứ X. Cùng với việc
tiếp tục quan điểm phát triển mạnh kinh tế thị trường định hướng XHCN;
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân không hạn chế về quy mô,
trình độ; Đảng ta có chủ trương cho các đảng viên được phép làm kinh tế tư
nhân. Trước tình hình ấy, đã có không ít quan điểm cho rằng, chúng ta đã xa rời
luận điểm “bỏ qua chế độ TBCN” mà Mác và Ăngghen đề cập.
Hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu, phân tích luận điểm “bỏ qua chế độ
TBCN”, chỉ ra tính biện chứng khoa học của nó là việc làm hết sức cần thiết,
nhằm đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, bảo vệ sự đúng đắn, cách mạng
của chủ nghĩa Mác. Đồng thời là cơ sở để tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên
CNXH ở nước ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
3
PHẦN 1
TÍNH CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ĐIỂM BỎ QUA
CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA MÀ MÁC VÀ ĂNGGHEN DỰ BÁO
Theo từ nguyên nghĩa, “bỏ qua” là bỏ bớt đi, không qua; là bỏ qua mất
đi, không cần lợi dụng; là làm ngơ, không cần biết và chú ý đến. Tuy nhiên, luận
điểm “bỏ qua chế độ TBCN” của Mác và Ăngghen không mang ý nguyên nghĩa
đó, mà phải được hiểu và xem xét một cách biện chứng. Nói một cách khác, “bỏ
qua chế độ TBCN” ở đây bao hàm tính cách mạng và khoa học.
* Tư tưởng “phát triển rút ngắn” của Mác và Ăngghen – Tính lôgich và
khoa học của nó
Xuất phát từ nghiên cứu đời sống xã hội hiện thực, kế thừa và phát triển
trên cơ sở duy vật lý luận về sự vận động và phát triển xã hội loài người của Hê
Ghen, Mác và Ăngghen đã đưa ra sơ đồ đầu tiên của sự phát triển lịch sử xã hội
loài người - đó là lịch sử thay thế lần lượt nhau của các hình thái kinh tế xã hội
từ thấp đến cao. Động lực của nó chính là quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác gọi đó là
quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự khái quát trừu tượng. Theo cách diễn đạt đó
thì lịch sử loài người đi theo một đường thẳng.
Bằng cách tiếp cận này, khi mổ xẻ, phân tích nhưng mâu thuẫn nội tại
của CNTB, Mác và Ăngghen đã dự báo cách mạng XHCN sẽ nổ ra cùng một lúc
ở những nước tư bản phát triển nhất, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức. Lịch sử đã không
diễn ra như vậy, do đó mà nhiều người đặt nghi nghờ vào những quy luật mà
chính Mác và Ăngghen đã nêu ra.
4
Song thực ra, Mác và Ăngghen còn nêu ra sơ đồ thứ hai về con đường
phát triển của lịch sử loài người để bổ sung cho sơ đồ thứ nhất. Việc xác định sơ
đồ này là kết quả của cả một quá trình phát triển tư duy khoa học của cả hai ông.
Chúng ta có thể thấy, bắt đầu quá trình ấy bằng việc Mác khẳng định sơ
đồ thứ nhất là một sơ đồ trừu tượng, chỉ có ý nghĩa một khái quát lôgích đối với
lịch sử toàn thế giới. Mác đã cảnh cáo những mưu toan “sử dụng chiếc chìa khóa
vạn năng dưới hình thức là một lý luận triết học lịch sử chung nào đó mà tính
chất cao nhất là tính siêu lịch sử của nó”. Còn Ăngghen thì khẳng định, “những
gì không đúng theo ý nghĩa hình thái kinh tế lại có thể đúng theo lịch sử toàn thế
giới”. Hiểu rõ tính biện chứng của lịch sử, Ăngghen đã nêu ra tính hai mặt của
nó, “một mặt, sự phát triển cụ thể như nó đã diễn ra trong hiện thực và mặt khác
là kết cấu của toàn bộ hệ thống”.
Trên cơ sở khoa học ấy, Mác và Ăngghen đã nêu ra sơ đồ thứ hai về sự
phát triển của xã hội loài người. Hai ông gọi đó là “sự phát triển rút ngắn” hay là
con đường đi tắt của lịch sử. Theo sơ đồ này thì lịch sử các dân tộc không diễn
ra tuần tự qua các hình thái kinh tế xã hội, mà thường bỏ qua giai đoạn này hay
giai đoạn khác trong khuôn khổ sơ đồ chung của lịch sử toàn nhân loại. Khẳng
định sơ đồ này, Mác đã phê phán gay gắt những quan điểm cho rằng lịch sử các
dân tộc phải đi theo tuần tự quá trình lịch sử tự nhiên như là một định mệnh,
rằng CNTB Tây Âu là con đường chung mà tất cả các dân tộc nhất thiết phải đi
theo.
Thực tế cho thấy, vào những năm cuối đời (1881), Mác chú ý nhiều đến
phong trào cách mạng Nga và đã từng phân tích khả năng nước này có thể
chuyển thẳng lên CNCS, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Nhưng thực ra, sớm
hơn rất nhiều, Mác đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề này ở dạng tổng quát của nó.
5
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846), Mác đã đề cập tới một số
trường hợp cụ thể như: “Người Giéc Manh sau khi xâm chiếm Đế quốc La Mã
đã bỏ qua chế độ nô lệ, chuyển hẳn lên chế độ phong kiến; Nước Anh sau khi bị
người Noóc Măng Đi chinh phục, lại có được chế độ phong kiến hoàn bị hơn so
với quê hương của họ; Bắc Mỹ sau khi có những người di cư từ Châu Âu tới,
cũng đã phát triển CNTB nhanh hơn so với cựu lục địa”.
Từ nghiên cứu thực tiễn cách mạng nước Nga và của lịch sử, Mác và
Ăngghen đã nêu ra những luận điểm như: những nước lạc hậu có thể bước vào
con đường phát triển rút ngắn, có thể chuyển thẳng lên hình thức sở hữu cộng
sản chủ nghĩa bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa, có thể rút ngắn một cách
đáng kể quá trình phát triển của mình lên chủ nghĩa xã hội và có thể tránh được
phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà Tây Âu đã phải trải
qua.v.v.
Cùng với việc đưa ra sơ đồ thứ hai – phát triển rút ngắn, Mác đã nêu ra
một quan điểm rất quan trọng: “Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy
luật tự nhiên của sự vận động của nó,…cũng không thể nhảy qua các giai đoạn
phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó”. Điều muốn
nói ở đây của Mác là, không bao giờ được dùng ý chí và sắc lệnh của chủ quan
để tước bỏ đi hoặc nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó đang bị quy định
bởi những điều kiện và quy luật khách quan xác định.
Theo Mác, bỏ qua chế độ TBCN ở đây là “bỏ qua những đau khổ của chế
độ đó”, bỏ qua những cái đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát
triển của lịch sử loài người và dân tộc. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu cứ chủ quan duy
ý chí, bất chấp quy luật. Rõ ràng đây là tư tưởng hết sức biện chứng và khoa học
của Mác và Ăngghen, mà trước đó trong lịch sử chưa có một nhà lý luận nào đạt
6
được. Mác còn cho rằng: “loài người bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những
vấn đề mà mình có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng
thấy rõ ràng bản thân vấn đề đó đã có hay ít ra cũng đang hình thành”. Nói một
cách khác, mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản ánh và thực hiện những
nhu cầu dã chín muồi của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ mà con người phải
giải quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra và quy định nội dung, biện pháp
giải quyết. Chúng ta đạt được những thành công trong việc cải tạo hiện thực là
do phản ánh được hiện thực mà có, chứ không phải do những ảo tưởng tùy tiện
của bản thân con người mà có. Hoạt động chính của con người là phát hiện và
vận dụng những quan hệ tất yếu của khách quan để tạo ra những hoàn cảnh và
điều kiện cần thiết cho đời sống xã hội.
Để thực hiện được con đường “phát triển rút ngắn” trong quá trình phát
triển, Mác và Ăngghen đã nghiên cứu, chỉ ra những điều kiện cần thiết đảm bảo
cho quá trình đó. Mác khẳng định: “không một hình thái xã hội nào diệt vong
trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy
đủ cho phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ
xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi”. Còn Ăngghen thì cho rằng: “chỉ khi nào nền kinh tế TBCN đã bị
đánh bại trên quê hương của nó, chỉ khi nào mà những nước lạc hậu qua tấm
gương ấy mà biết rằng…những lực lượng sản xuất, công nghiệp hiện đại với tư
cách là sở hữu công cộng, đã được sử dụng như thế nào để phục vụ toàn xã hội,
thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn”.
Những điều kiện cần phải tạo dựng ở đây theo hai ông chính là vai trò của các
chủ thể trong việc tạo ra các tiền đề vật chất của kinh tế - xã hội cả trong và
ngoài nước –mà trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ăngghen viết:
7
“chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc
cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”. Vì “CNTB như một cơ
thể, nó chỉ có thể chết dần từ đầu ngón chân, ngón tay, còn tim óc sẽ chết sau
cùng”.
Trung thành và phát triển với lý luận của chủ nghĩa Mác, thông qua
thực tiễn tiến hành cách mạng ở nước Nga, Lênin đã chỉ ra rằng: “ở một nước
kém phát triển có thể và cần phải tạo ra những điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNXH bắt đầu bằng một cuộc cách mạng thiết lập chính quyền công nông, thông
qua chính quyền ấy mà tiến lên đuổi kịp các dân tộc khác”.
Từ những lý giải trên đây, có thể thấy rằng, Mác và Ăngghen là những
người đầu tiên nêu lên khả năng bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH ở các
nước phát triển tiền tư bản – một tư tưởng chứa đựng trong nó tính biện chứng,
khoa học. Và như vậy, Mác và Ăngghen đã hoàn chỉnh sơ đồ thứ hai của sự phát
triển của lịch sử loài người. Nếu sơ đồ thứ nhất – phát triển tuần tự cho ta thấy
lịch sử loài người trên phạm vi toàn thế giới là lịch sử tự nhiên, thì sơ đồ thứ hai
– phát triển rút ngắn lại cho thấy lịch sử các dân tộc cụ thể bỏ qua giai đoạn này
hay giai đoạn khác của lịch sử. Mác khẳng định, đây cũng là quá trình lịch sử tự
nhiên. Trong quan niệm coi sự vận động xã hội như một quá trình lịch sử tự
nhiên, cần phải hiểu rằng:
Thứ nhất, mỗi hình thái kinh tế xã hội được coi như một cơ thể xã hội, tự
phát triển theo những quy luật vốn có, một xã hội riêng biệt có những quy luật
riêng về sự ra đời và hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên một hình thái
cao hơn, tức nó biến thành một cơ thể xã hội khác.
Thứ hai, các quy luật xã hội, mà nói riêng là các quy luật kinh tế, xét về
bản chất thì nó khác với quy luật của tự nhiên. Mỗi một thời kỳ lịch sử đều có
những quy luật riêng của nó, “một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ lịch sử
8
nhất định, đã từ giai đoạn này bước sang giai đoạn khác, thì nó cũng bắt đầu bị
các quy luật khác chi phối”.
Thứ ba, những quy luật của xã hội đều thể hiện xu hướng vận động của
xã hội xét trong phạp vi rộng và trong thời gian dài, tức là xét dưới dạng khái
quát, trừu tượng hóa. Vì thế, sự vận động cụ thể của một xã hội cụ thể trong
những thời gian và không gian nhất định thường có những biểu hiện dường như
không trùng khớp với những quy luật phổ biến. Lê nin cũng đã từng chỉ ra rằng,
tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ
mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc
về hình thức hoặc về trình tự của sự phát triển đó.
Lịch sử loài người đã diễn ra theo hai sơ đồ đó của Mác: chế độ chiếm
hữu nô lệ đạt đến đỉnh cao ở La Mã và Hy Lạp, đã không chuyển sang được chế
độ phong kiến, đến khi những bộ lạc Giéc – manh đạp đổ nó mới lập nên ở đó
chế độ phong kiến. Các chế độ phong kiến điển hình như Trung Quốc (phương
Đông) và Đức (phương Tây) đã không kịp chuyển sang chế độ tư bản trước khi ở
các nước phong kiến lạc hậu như Hà Lan, Anh, Pháp, người ta làm cuộc cách
mạng tư sản. Cách mạng XHCN đã nổ ra ở một nước tư bản trung bình là nước
Nga và sau đó một loạt nước XHCN ra đời từ những nước lạc hậu trong khuôn
khổ CNTB đã thống trị về mặt lịch sử toàn thế giới. Tất nhiên, nếu nghiên cứu
kỹ các cuộc cách mạng xã hội, sẽ thấy sự thay thế các hình thái khác nhau cũng
có những điểm khác nhau, đúng như Ăngghen nhận định, mỗi loại sự vật có một
loại phủ định riêng của nó.
* Biện chứng của thời kỳ quá độ
Tiếp cận sơ đồ thứ nhất – phát triển tuần tự, Mác và Ăngghen nêu ra
quan niệm về CNXH tương đối thuần nhất. Đó là một xã họi kế thừa đỉnh cao
9
của CNTB – một xã hội nói cách ngắn gọn “xóa bỏ tư hữu”, một nền sản xuất xã
hội hóa cao, không tồn tại quan hệ hàng hóa – tiền tệ, một nền sản xuất có tính
kế hoạch cao. Vì vậy, thời kỳ quá độ (TKQĐ) chính là thời kỳ cải biến cách
mạng nhằm xóa bỏ các quan hệ TBCN.
Tiếp cận bằng sơ đồ thứ hai, Mác và Ăngghen đã hình dung một CNXH
đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Dường như Mác và Ăngghen đã dự đoán đến sự
biến dạng nhất định của CNXH do tính biện chứng của lịch sử. Vào những năm
cuối đời, Mác và Ăngghen tập trung phê phán cách hiểu thô kệch về CNCS, về
xóa bỏ chế độ tư hữu. Ăngghen đã phân tích những hình thức công hữu giống
với CNXH nhưng không phải là công hữu CNXH. Phân tích biện chứng của lịch
sử, Mác đã đi đến kết luận: không bao giờ và ở đâu có “CNTB” thuần khiết,
nghĩa là trong CNTB hiện thực pha tạp nhiều mối quan hệ của quá khứ và tương
lai. Thậm chí lịch sử đã chứng minh, có những sự biến dạng ghê gớm trong
CNTB. Sự lặp lại chế độ chiếm hữu nô lệ ở châu Mỹ khi CNTB đã thống trị, sự
tồn tại của các thế lực quân phiệt phong kiến ở các nước tư bản phát triển. Sự
biến dạng trước hết do các quan hệ ở các hình thái trước để lại, do cơ chế kinh tế
xã hội mới chưa hoàn chỉnh và do tác động của tình trạng song song tồn tại giữa
các hình thái.
Từ sự phân tích ấy, Mác đã dự đoán sẽ tồn tại và biến dạng những quan
hệ cũ trong lòng xã hội mới. Mác cho rằng, ở vào thời kỳ quá độ, thậm chí ở giai
đoạn đầu của CNXH vẫn “có sự bóc lột của tư bản mà không có phương thức
sản xuất TBCN”. Theo đó, trong giai đoạn này, việc phân phối được thực hiện
theo nguyên tắc phân phối sản phẩm tiêu dùng theo số lượng và chất lượng lao
động. Còn Ănghghen khi dự báo các hình thức hợp tác xã trong TKQĐ lên
10
CNXH đã nhận định, khi quan hệ sản xuất XHCN chưa thống trị thì các hợp tác
xã đó chưa thể mang tính chất XHCN.
Dự báo con đường phức tạp của lịch sử như vậy, Mác và Ăngghen đã
hình dung CNXH ra đời trên cơ sở vật liệu của xã hội cũ để lại và không thể
hoàn chỉnh ngay được, cả về phương diện kinh tế, đạo đức và tinh thần. Mác
viết: “sự phát triển của nó hướng tới chỗ hoàn chỉnh để chi phối tất cả các yếu tố
của xã hội hoặc từ xã hội mà xây dựng lên những cơ quan nó còn thiếu”. Cả Mác
và Ăngghen đều cho rằng, TKQĐ bao gồm “những cơn đau đẻ dài”, có nghĩa là,
tiến trình quá độ không dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều khúc
quanh co, nhiều quãng cách, mới đi tới kết quả cuối cùng. Tuy nhiên nội dung
của TKQĐ như thế nào, nó có những nhiệm vụ cụ thể và những hình thức gì thì
lại tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể, điều này, cho đến cuối đời hai ông vẫn chưa
đưa ra được câu trả lời. Ăngghen viết: “các hình thức quá độ lên xã hội cộng
sản…đó là vấn đề khó khăn nhất trong tất cả các vấn đề tồn tại, vì các điều kiện
biến đổi không ngừng”.
Những dự báo của Mác và Ăngghen đã được lịch sử chứng minh. Lênin,
người kế tục sự nghiệp của Mác, phân tích sự phát triển không đồng đều của chủ
nghĩa đế quốc đã khẳng định cách mạng XHCN sẽ bùng nổ ở khâu mắt xích yếu
nhất trong dây truyền của chủ nghĩa đế quốc. Khâu yếu nhất đó phải tập trung
những mâu thuẫn gay gắt nhất của chủ nghĩa đế quốc. Và đó chính là nước Nga,
nước tư bản trung bình và đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng tháng Mười vĩ
đại. Sau những vấp váp và thất bại trong chính sách Cộng sản thời chiến, Lê nin
đã nêu ra lý luận về các hình thức quá độ lên CNXH bằng việc áp dụng CNTB
nhà nước và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
11
Hơn 80 năm trôi qua kể từ cách mạng tháng Mười Nga. Thế giới đã có
nhiều biến đổi. “CNTB sau khi bị chọc thủng một mảng lớn” đã tìm cách thích
ứng với điều kiện lịch sử, ra sức lợi dụng cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hịen đại và tìm cách giải quyết các vấn đề xã hội. CNTB với bộ mặt hiện nay
không khắc phục nổi những mâu thuẫn nội tại đang ngày thêm sâu sắc và không
tránh khỏi sự diệt vong tất yếu. CNXH đã ra đời trên quy mô thế giới, đã chứng
tỏ sức sống trong hơn 80 năm với tư cách là người thay thế CNTB. Đó là sự thật
lịch sử, không thể lấy những sai lầm chủ quan, những biến dạng, những cuộc
khủng hoẳng ở các nước XHCN để bác bỏ quy luật lịch sử đó.
Thực tế cũng cho thấy, cùng với những thích nghi, điều chỉnh của
CNTB, sự thoái trào của CNXH trên thế giới, thì phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế hiện đang phục hồi mạnh mẽ, CNXH đang được nhận thức đúng
hơn. Thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc, sự tồn tại và
phát triển của một số nước XHCN đã chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa
Mác – Lênin và đang sáng tạo ra những hình thức quá độ mới, những quan điểm
mới về CNXH theo bước đi của thời đại. Đúng như Mác đã nhận định: “trong
quá trình phát triển của lịch sử, hệ thống trở thành chỉnh thể. Việc hệ thống trở
thành chỉnh thể sẽ tạo ra một giai đoạn mới của hệ thống, của quá trình của sự
phát triển của nó”.
Tóm lại, luận điểm “bỏ qua chế độ TBCN” của Mác và Ăngghen khẳng
định giá trị to lớn và bền vững của nó không thể lạc hậu. Quán triệt tính khoa
học đó đòi hỏi những người cách mạng cần nghiên cứu và vận dụng một cách
sáng tạo, không dập khuôn máy móc, giáo điều. Đó là thái độ cách mạng của
những người cộng sản khi tiếp nhận và thực hiện chủ nghĩa Mác.
12
Nghiên cứu luận điểm “bỏ qua chế độ TBCN”, cho chúng ta hiểu biết sâu
sắc hơn về bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác, đồng thời giúp
chúng ta có một phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức thế giới và cải tạo
xã hội hiện thực.
PHẦN 2
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI VIỆC
XÁC ĐỊNH BƯỚC ĐI, HÌNH THỨC KINH TẾ
VÀ PHƯƠNG PHÁP QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là vấn đề tất yếu đối với cách mạng
Việt Nam và hợp với quy luật phát triển khách quan của thời đại ngày nay. Song
không vì thế mà chúng ta tiến lên CNXH một cách nóng vội, chủ quan duy ý chí
trong điều kiện xuất phát thấp với những đặc điểm hết sức đặc thù. Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là
sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN…tất yếu phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội có tính chất quá độ”. Vì vậy, nói cụ thể, trên cơ sở định hướng XHCN,
nếu không có bước đi, hình thức kinh tế, phương pháp quá độ đúng thì cũng
chưa thể nói là đã có được quan niệm về con đường quá độ lên CNXH phù hợp
và hiệu quả.
Dù đạt được một số thành tựu nhất định về mọi mặt, đã làm cho “con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”; dù cho bối
cảnh quốc tế và đất nước hiện nay tạo điều kiện cho phép chúng ta rút ngắn, tăng
tốc hoặc đi tắt, đón đầu trong hành trình tới mục tiêu CNXH; song, điều đó
không có nghĩa là, chúng ta không tiếp tục nhận thức đúng đắn, cơ bản và không
13
ngừng hoàn thiện trên một trình độ cao hơn về con đường XHCN bỏ qua chế độ
TBCN ở nước ta, mà nó lại càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn lúc nào hết, nhất
là trong bối cảnh hiện nay, khi mà hệ thống XHCN thế giới lâm vào thoái
trào,CNTB đang có những biến đổi thích nghi với điều kiện mới, trên thế giới lại
chưa có một dân tộc nào xây dựng thành công CNXH.
Trên phương diện này, luận điểm “bỏ qua chế độ TBCN” của Mác và
Ăngghen - đã được trình bày ở trên, có một giá trị đặc biệt to lớn và hữu ích, là
lời chỉ dẫn, cơ sở hết sức cách mạng và khoa học trong nhận thức về con đường
đi lên CNXH, mà cụ thể là việc xác định những bước đi, hình thức kinh tế và
phương pháp quá độ ở nước ta hiện nay. Với ý nghĩa ấy, chúng ta cần phải hiểu
và quán triệt một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng phải tôn trọng quá
trình lịch sử tự nhiên, nhất là quá trình phát triển kinh tế, không nóng vội, chủ
quan, duy ý chí.
Đây là một trong những nội dung rất quan trọng cần phải được nhận thức
một cách đầy đủ trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Có một thời gian dài, chúng ta đã từng hiểu “bỏ qua” một cách chủ quan,
duy ý chí theo nghĩa đốt cháy giai đoạn, vô hình dung, đã vi phạm quy luật của
quá trình tự nhiên. Chúng ta đã xem nhẹ, thậm chí nhiều lúc đã phủ nhận trên
thực tế sự tồn tại khách quan của TKQĐ, chưa nhận thức đầy đư rằng TKQĐ lên
CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường,
bước đi khó khăn vất vả…nên muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, như Đảng
ta thừa nhận.
Cần phải thấy rằng, cách mạng XHCN ở nước ta có những đặc thù, đặt ra
nhiều vấn đề lý luận chưa từng có sẵn câu trả lời trong các tác phẩm kinh điển,
14
nhiều vấn đề thực tiễn chưa có tiền lệ giải quyết. Một nước lạc hậu kiểu phương
Đông đi thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng lại cần sự phát triển của
kinh tế tư nhân TBCN, cần kinh tế thị trường hiện đại để thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Một đất nước đi lên CNXH sau thắng lợi triệt để của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống đế quốc, trải qua hai cuộc
kháng chiến kế tiếp nhau trong 30 năm làm cho cách mạng Việt Nam vứa có nội
dung giai cấp, vừa có nội dung dân tộc, đồng thời cũng phải giải quyết nhiều vấn
đề phức tạp do hoàn cảnh cuộc cách mạng trước để lại. Một đất nước xây dựng
CNXH khi hệ thống XHCN không còn, thế giới đang trong xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế, trong sự chi phối của các thế lực tư bản tài chính, quân sự
hùng mạnh…Tất cả điều đó một mặt quy định tính gián tiếp của sự quá độ, mặt
khác, làm cho quá trình đi lên CNXH của nước ta là một quá trình phát triển có
nhiều mâu thuẫn.
Chính vì vậy, nếu nói “tiến thẳng” lên CNXH thì cũng không thể hiểu là
tất thảy mọi hình thức và biện pháp của sự quá độ đều phải và phải có ngay lập
tức tính chất và nội dung hoàn toàn XHCN. Nói “tiến thẳng” có nghĩa là, trong
thực tiễn phải bao hàm cả bước “quanh co, quá độ” như Lê nin nói; “từ từ”,
“thận trọng từng bước một” và “vững chắc”như Bác Hồ căn dặn; “Tiến thẳng” ở
đây là không trải qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách là một hình thái
kinh tế xã hội thống trị – tức là, trong lịch sử cách mạng Việt Nam sẽ không có
một giai đoạn mà trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất
TBCN giữ địa vị thống trị. Trong thời kỳ đó, nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ
phát triển sức sản xuất của lao động xã hội, tự tạo lập các điều kiện vật chất của
sản xuất và những quan hệ sản xuất tương ứng với điều kiện sản xuất ấy. Vì vậy,
thực hiện sự rút ngắn nhưng tuyệt nhiên không phải là đốt cháy giai đoạn, vi
15
phạm quá trình lịch sử tự nhiên, vi phạm các quy luật khách quan, mà rút ngắn ở
đây chính là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển, nhất là tăng trưởng kinh
tế. Theo đó, không thể bỏ qua những vấn đề có tính quy luật chung của quá trình
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Lịch sử xác nhận, để chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN,
giai cấp tư sản đã phải giải quyết những vấn đề cơ bản là: phát triển sản xuất
hàng hóa, tiến hành cách mạng kỹ thuật theo sự phát triển biện chứng của kỹ
thuật – hiệp tác giản đơn, công trường thủ công đến đại công nghiệp cơ khí - để
chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, mở rộng giao lưu
quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến.v.v. Nước ta từ
sản xuất nhỏ đi lên CNXH, do đó phải xây dựng nền sản xuất lớn, tất nhiên trong
đìeu kiện mới và chủ thể mới. Lẽ đương nhiên, muốn vậy thì không thể không
phát triển kinh tế hàng hóa gồm nhiều thành phần và sử dụng chúng trên con
đường xây dựng CNXH. Đã thừa nhận quan hệ hàng hóa – tiền tệ thì không thể
không thừa nhận sự tồn tại khách quan của thị trường với cả mặt tích cực và mặt
tiêu cực của nó. Vì vậy, chúng ta thực hiện cơ chế thị trường nhất định phải có
sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
nó.
Ở đây cần đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất giữa mục tiêu và phương
tiện là yêu cầu cốt lõi phải được xem xét và cân nhắc thận trọng trên con đường
phát triển vì CNXH. Đó là, việc xác định các chính sách kinh tế – xã hội không
chỉ căn cứ vào mục tiêu với mức độ thành công mà còn phải tính đến phương
thức thực hiện và các hệ quả của chúng. Việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN phải được xem là “một quá trình có tính chính trị và văn hóa
trước khi là một quá trình kinh tế và công nghệ để tránh cái quy luật cá lớn nuốt
16
cá bé, kinh tế vì kinh tế”. Đó là lợi thế so sánh tuyệt đối giữa chế độ XHCN với
bất kể chế độ nào khác cùng tiến hành kinh tế thị trường. Và những năm tới, vấn
đề này cần phải được hoạch định một cách khoa học và hiệu quả trong việc tính
toán các phương thức mà chúng ta thực hiện.
Hai là, đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN bằng cách thông qua những
khâu trung gian, những hình thức quá độ gắn với việc xây dựng các tiền đề cần
thiết.
Đây là việc làm cần thiết không chỉ đúng với quan điểm của Mác và
Ăngghen đã được nêu ở trên, mà còn phù hợp với chính điều kiện, hoàn cảnh
thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay.
- Những khâu trung gian, hình thức quá độ tất yếu phải sử dụng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – lênin đã từng chỉ ra rằng: “chúng
ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần
thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản lên CNXH”. Với nghĩa đó, sự “quá
độ bỏ qua” chính là bỏ qua bằng các khâu trung gian. Nói cách khác, đó là sự
quá độ lên CNXH từ một xã hội tiền tư bản, phổ biến là sản xuất nhỏ phải trải
qua một loạt các khâu trung gian, những hình thức quá độ, coi đó là những nấc
thang, bắc những “chiếc cầu nhỏ” nối tiếp trên con đường quá độ.
Chúng ta biết rằng, vào những năm đầu của chính quyền Xô Viết, Lê nin đã chủ trương đưa nước Nga quá độ trực tiếp lên CNXH bằng cách thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong điều kiện nội chiến và sự can thiệp
của nước ngoài. Người đã thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến”, áp dụng
những biện pháp cưỡng bức, phi kinh tế. Chính sách này đã mang lại nhiều thắng
lợi cho nước Nga trong nội chiến. Nhưng sau nội chiến, tình hình nước Nga gặp
rất nhiều khó khăn (năm 1921 lâm vào khủng hoẳng trầm trọng). Qua kinh
17
nghiệm thực tiễn, Lê - nin đã rút ra kết luận là, không thể xây dựng CNXH trên
cơ sở cưỡng bức kinh tế, coi thường lợi ích của người sản xuất. Theo đó, cuối
năm 1922, Người quyết định chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế mới
(NEP). Nội dung chủ yếu của chính sách này là thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần, triệt để lợi dụng CNTB nhà nước, mở cửa với bên ngoài cho các
nước tư bản đầu tư trực tiếp và tô nhượng. Kết quả là, nền kinh tế Nga đã phục
hồi và phát triển mạnh mẽ.
Ở nước ta,Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã khẳng định, trên thực tế
còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và “phải coi trọng những hình thức
kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”. Tiếp
tục tư tưởng ấy, 20 năm qua, Đảng ta nhất quán một quan điểm xuyên suốt: phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật,
từ sản xuất nhỏ lên CNXH. Đây cũng chính là sự tiếp tục tư tưởng của Mác Ăngghen và Lê - nin trong việc phát hiện những nấc thang trung gian, tìm cách
“bắc những chiếc cầu nhỏ” nối tiếp trên con đường quá độ.
18
Trên con đường xây dựng CNXH, phải phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Nói cụ thể, phải là phát huy vai trò tích cực của kinh tế
nhiều thành phần trong việc làm tăng sức sống và tính năng động của nền
kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hóa – tiền
tệ và tự do buôn bán, sản xuất kinh doanh nhất định sẽ nảy sinh khuynh
hướng tự phát đi theo CNTB. Vì vậy, ở đây, nhà nước không chỉ có sự
hướng dẫn, kiểm soát nó, mà phải có cơ chế chính sách phù hợp để điều tiết
nền kinh tế vĩ mô, nhất là kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân khiến cho
chúng “tự giác” phục vụ công cuộc xây dựng CNXH. Muốn vậy, chúng ta
không thể không “sử dụng CNTB làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản
xuất CNXH, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để
tăng lực lượng sản xuất lên”. Theo đó, cùng với việc tập trung xây dựng và
phát triển thành phần kinh tế nhà nước và tập thể, trong giai đoạn hiện nay,
cần tôn trọng và có chiến lược phát triển lâu dài thành phần kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thực sự
coi đó là một bộ phận không thể thiếu trong cấu thành nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Bên cạnh đó, cần chú trọng sử dụng, mở rộng
các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu,
giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và nước ngoài. Đặc
biệt, trong tình hình hiện tại, cần chú ý, phát triển mạnh hình thức tổ chức
kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư toàn xã hội,
qua đó, nâng cao trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh cũng như khả năng
cạnh tranh của hành hóa nội địa.
- Những điều kiện, tiền đề cần thiết
19
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN là công cuộc hoàn toàn mới mẻ
và vô cùng khó khăn, phức tạp, diễn ra lâu dài quanh co. Triển vọng thành công
của tiến trình này hiện phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, phẩm chất và bản lĩnh
của chính chủ thể tại những địa bàn mà nó đang được tiếp tục triển khai, đẩy
mạnh. Ở đây các nhân tố chủ quan có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật là: Đặc
trưng, sức sống của các bản sắc văn hóa vật chất tinh thần của dân tộc; tính ổn
định và bền vững của những mối liên kết giai cấp và dân tộc bên trong mỗi quốc
gia; tính ưu việt của các thiết chế kinh tế xã hội, chính trị xã hội mới; tính năng
động sáng tạo của giai cấp tiên phong cũng như hạt nhân lãnh đạo chính trị của
nó là Đảng cộng sản; quy mô hiệu quả của quá trình hội nhập quốc tế.v.v. Với ý
nghĩa đó, đối với nước ta, trước hết cần phải tạo dựng cho được các điều kiện,
tiền đề sau đây:
Thứ nhất, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về cả chính
trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, có phương thức lãnh đạo khoa học,
xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; có đủ trình độ
và năng lực đề ra chiến lược và các chính sách đúng đắn, dẫn dắt toàn dân tộc
vững bước trên con đường đi lên CNXH.
Thứ hai, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân
và vì dân. Con đường quá độ lên CNXH ở nước ta là khó khăn, phức tạp. Do
vậy, đòi hỏi phải có một nhà nước không những có quyết tâm, trung thành với
con đường đã lựa chọn, mà còn phải có kiến thức đầy đủ để xác định những
bước quá độ, những mục tiêu, bước đi biện pháp thích hợp để thực hiện trong
mỗi bước quá độ và kịp thời chuyển từ bước quá độ này sang bước quá độ khác.
20
Nếu không như thế thì những sai lầm tả khuynh hoặc hữu khuynh sẽ không tránh
khỏi, gây tác hại đối với tiến trình cách mạng.
Thứ ba, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế. Trên cơ sở những tiền đề chính trị đã có, chúng ta cần huy động mọi
khả năng của các thành phần kinh tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, tận dụng
khai thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của đất nước, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi; tiếp
thu, sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ mới, nguồn vốn
và kinh nghiệp quản lý tiên tiến của nước ngoài.
Thứ tư, Đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH trên cả quy mô bề rộng lẫn
chiều sâu, tạo đường băng để đất nước “cất cánh” một cách hiện thực hướng tới
năm 2020 trở thành một nước công nghiệp, chứ không dừng lại ở những phương
hướng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chương trình khả thi cho tất cả công
nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, ưu tiên cho nông nghiệp, cho các
vùng kinh tế – xã hội trọng điểm, cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng…
Ba là, đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng phải tiếp thu, kế thừa và
phát triển những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới CNTB, nhất là về
khoa học công nghệ.
Thực chất đó là sử dụng những thành tựu nhiều mặt của xã hội loài người
mà CNTB với địa vị lịch sử của nó đã thâu tóm, lợi dụng và phát triển chúng.
Đây là vấn đề rất quan trọng đối với nước ta khi tiến hành xây dựng
CNXH. Trên phương diện này, lời chỉ dẫn của Ăngghen đặc biệt có giá trị: “phủ
định trong phép biện chứng, không phải chỉ có nghĩa là nói không, hoặc giả là
tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy một cách nào đó”.
21
Ở đây sự bỏ qua được hiểu không phải là đơn thuần là sự phủ định toàn bộ (như
cách hiểu và làm như trước đây của chúng ta), mà như là sự phủ định có giữ lại
những nội dung phù hợp, những vật liệu cần thiết để xây dựng CNXH đã được
giai đoạn tồn tại trước đó tạo nên về mặt lịch sử.
Định hướng và tiến hành xây dựng CNXH tất yếu phải kế thừa và sử
dụng lực lượng sản do nhân loại tạo ra và phát triển trong điều kiện của xã hội
TBCN. Chẳng hạn, đó là thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ; là cơ chế thị
trường với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển kinh tế, nhất
là những mặt tích cực của nó. Tất nhiên, như vậy không có nghĩa là lặp lại hoàn
toàn quá trình xây dựng lực lượng sản xuất đó trong lịch sử.
Về lực lượng sản xuất, ở nước ta, cần phát triển song hành hai phương
thức: tuần tự (từ thủ công đến nửa cơ khí rồi cơ khí) và nhảy vọt theo lối đi tắt
đón đầu (từ thủ công đi thẳng vào hiện đại) đối với một số ngành, lĩnh vực then
chốt, sao cho trong một thời gian ngắn, thậm chí rất ngắn chúng ta đạt được trình
độ với các nước tiên tiến trong khu vực. Đặc biệt chú trọng đúng mức việc phát
triển công nghệ cao để tạo sự đột phá và ứng dụng công nghệ dùng nhiều lao
động để giải quyết việc làm.
Còn đối với quan hệ sản xuất, thì “bỏ qua” là bỏ qua quan hệ sản xuất
TBCN với tư cách là quan hệ sản xuất giữ vai trò thống trị trong toàn xã hội, chứ
không phải là xóa sạch các hình thức kinh tế TBCN khi nó chưa hết tác dụng tích
cực , ngay trong TKQĐ. Đây chính là những “cây cầu nhỏ”, những bước trung
gian quá độ đưa chúng ta tới “phòng chờ” trực tiếp đi vào CNXH như lời chỉ dẫn
của các nhà kinh điển Mác – Lênin: Chúng tôi vẫn đang tiến lên bằng cách theo
con đường tư bản nhà nước. Mà chính đó là con đường dẫn chúng tôi tiến lên
phía trước, tiến lên CNXH và CNCS. Nghĩa là trong điều kiện hiện nay, trên
22
phương diện này, CNXH không phải là cái gì khác hơn là chế độ tư bản nhà
nước được áp dụng để phục vụ toàn thể nhân dân. Theo nghĩa đó, chúng ta
không thể xóa ngay lập tức chế độ tư hữu mà xác lập ngay chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Việc làm này phải căn cứ vào sự phát triển của lực lượng sản xuất
hiện có. Trong TKQĐ tất yếu phải sử dụng đa dạng các hình thức sở hữu; thực
hiện nhiều hình thức phân phối (như phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế, theo vốn đầu tư và tài năng, theo cổ phần, theo lượng tư bản và giá cả sức lao
động…).
Về kiến trúc thượng tầng của CNTB, cũng không phải chỉ có “bỏ qua”
mà không có kế thừa có chọn lọc. Nói cách khác, dưới chế độ XHCN, “không
những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn nhà nước kiểu tư sản nhưng
không có nhà nước tư sản” để chúng ta tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN. Theo đó, cần tập trung đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị phù hợp
với yêu cầu phát triển đất nước, của thời đại. Một mặt, phải nâng cao trình độ,
trước hết là trình độ quản lý điều hành, mặt khác cần đẩy mạnh việc cải cách bộ
máy hành chính, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế; tích cực đấu
tranh đi tới đẩy lùi tệ quan liêu tham nhũng, bảo vệ và phát triển các giá trị văn
hóa tốt đẹp của dân tộc.
Từ những luận giải trên đây, có thể hiểu, “bỏ qua”, đối với Việt Nam,
trong bản chất của nó, là Đảng cộng sản cầm quyền, bằng con đường với hệ
phương thức và bước đi phù hợp với quá trình lịch sử tự nhiên tiến lên CNXH
thông qua sự rút ngắn các giai đoạn, bước diễn tiến của nền văn minh loài
người (về thời hạn, nấc thang…) dựa trên nền tảng sự tăng trưởng vượt bậc của
sức sản xuất xã hội. Nghĩa là, Việt Nam bỏ qua chế độ TBCN lên CNXH theo
cách riêng của mình hợp quy luật phổ biến, đúng với lời chỉ dẫn của Mác -
23
Ăngghen về “bỏ qua chế độ TBCN”, bảo đảm phù hợp với đặc thù của dân tộc
và xu thế phát triển của thời đại, trong những bước đi cụ thể đến CNXH.
Tóm lại, luận điểm “bỏ qua chế độ TBCN” của Mác và Ăngghen thực sự
là một dự báo khoa học, chất đầy tính biện chứng. Nó chính là tiền đề, thế giới
quan, phương pháp luận khoa học cho việc xác định con đường đi lên CNXH về
bước đi, hình thức kinh tế và phương pháp quá độ ở nước ta. Quán triệt sâu sắc
tinh thần đó, nội dung đó chính là cơ sở bảo đảm cho sự vững chắc cho con
đường cách mạng ở nước ta đi tới thắng lợi. Nếu một giai đoạn nào đó, một
Đảng nào đó không quán triệt đầy đủ, hoặc xa rời tư tưởng này thì sẽ khó tránh
khỏi những sai lầm, chệch hướng, không đạt được mục tiêu đã xác định. Sự sụp
đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là bài học xương máu về sự nóng
vội chủ quan, bất chấp quy luật trong xác định bước đi, hình thức kinh tế và
phương pháp quá độ.
Nghiên cứu vấn đề này, cho chúng ta một cơ sở khoa học vững chắc để
đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, phủ nhận con đường quá độ bỏ qua
chế độ TBCN ở nước ta, qua đó nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác trong đời sống
hiện thực.
Các nhà kinh điển, dẫu có uyên bác đến đâu cũng chỉ có thể kết luận và
dự đoán những gì mà thực tiễn cho phép. Hơn nữa, dự đoán về sự vận động và
phát triển của xã hội, một cơ thể sống bao gồm cả hạ tầng cơ sở và thượng tầng
kiến trúc thì dẫu có cơ sở khoa học đến mấy cũng chỉ có thể chỉ ra phương
hướng vận động của sự vật. Chính vì vậy, các nhà kinh điển không đặt ra cho
mình nhiệm vụ thiết kế lên một mô hình cụ thể về xã hội tương lai với những
luận chứng đầy đủ về mặt kỹ thuật. Chúng ta phải làm việc đó trong thực tiễn
của quá trình xây dựng CNXH. Không phân tích một cách cụ thể để vận dụng
24
một cách sáng tạo, bổ sung và phát triển nó, mà lại giáo điều máy móc, bất chấp
thực tiễn đã đổi thay, tức là làm trái với bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác.
KẾT LUẬN
Thế kỷ XX đã ghi đậm trong lịch sử loài người những dấu ấn cực kỳ sâu
sắc – sự tiến bộ nhanh chưa từng thấy của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại đă làm lên những điều kỳ diệu trong sản xuất vật chất, trong đấu tranh
cách mạng vì sự tiến bộ xã hội. Những kỳ tích đó, chứng minh rằng, không ai có
thể cưỡng lại được quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Cùng với nó, là
những biến động to lớn về chính trị xã hội đang có tác động mạnh mẽ đến cách
mạng Việt Nam, đến sự nghiệp xây dựng CNXH. Mặc dù Đại hội Đảng lần thứ
IX khẳng định rằng: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn”, nhưng sự nghiệp đổi mới của đất nước vẫn đang phải đứng trước
những thời cơ và thách thức mới, còn tiềm ẩn những diễn biến nhanh chóng, mau
lẹ, phức tạp và sâu sắc. Nó không chỉ đòi hỏi sự kiên định vững vàng về bản
lĩnh, mà còn đòi hỏi tư duy năng động, sáng tạo trước những biến động khó
lường của tình hình thực tiễn. Điều đó đặt ra cho chúng ta cần phải tiếp tục phát
triển tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, để có chiến lược, sách lược và các giải
pháp khoa học đưa cách mạng nước ta vững bước đi lên trên con đường CNXH
trong điều kiện thế kỷ XXI có thể có nhiều những biến động to lớn.
Việc nghiên cứu làm rõ luận điểm bỏ qua chế độ TBCN của Mác và
Ăngghen cho thấy tính cách mạng, khoa học không thể phủ nhận được, qua đó
khẳng định giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác. Nó là một phương diện khoa
25
học làm cơ sở thế giới quan đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
đảm bảo đi tới thắng lợi.
Những thành tựu đạt được của chúng ta những năm qua có nhiều nguyên
nhân, nhưng trong đó không thể không kể tới, đó chính là sự vận dụng trung
thành và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình
hình thực tiễn đất nước. Đứng trên lập trường của giai cấp cách mạng, chúng ta
tin tưởng khẳng định rằng, đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một luận điểm
đúng đắn, có cơ sở khoa học; con đường đi lên CNXH nước ta nhất định thắng
lợi.