Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN tập TRUNG dân CHỦ, NGUYÊN tắc tổ CHỨC cơ bản của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG, CHỈNH đốn ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.41 KB, 31 trang )

1
TẬP TRUNG DÂN CHỦ - NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CƠ BẢN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam sáng lập, giáo dục và
rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với những
nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng, vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
cách mạng Việt Nam để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đảm bảo cho Đảng luôn có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trong các nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây
là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Cùng với xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, nguyên tắc tập trung dân chủ
bảo đảm tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, làm cho Đảng trở
thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy tính chủ
động, sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên. Chính vì vậy, ngay từ khi ra
đời, nguyên tắc tập trung dân chủ luôn luôn là mục tiêu tấn công của kẻ thù hòng
phá vỡ sự đoàn kết thống nhất của Đảng, làm tan rã, phân liệt Đảng về mặt tổ
chức. Những năm gần đây, cùng với việc tấn công vào chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ
sở tư tưởng của Đảng. Chúng cũng tấn công quyết liệt vào nguyên tắc tập trung
dân chủ, cơ sở tổ chức của Đảng. Chúng cho rằng các Đảng Cộng sản là chuyên
quyền, độc tài; ra sức cổ xuý, tán dương, kích động các đảng thực hiện đa nguyên
chính trị, dân chủ cực đoan. Chúng lên án nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi xoá
bỏ nguyên tắc này. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân
gây ra độc đoán, chuyên quyền, nếu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng và trong xã hội sẽ không có dân chủ, không có nhân đạo...



2
Từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ đối
với công tác xây dựng Đảng; từ thực trạng của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng; trước sự tấn công của các thế lực thù địch đối với
nguyên tắc tập trung dân chủ hòng chia rẽ nội bộ Đảng, phân tán Đảng về tổ
chức, thì việc nghiên cứu, học tập nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng Đảng là một yêu cầu cấp thiết và hết sức quan trọng hiện nay.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về tập trung dân chủ.
Tư tưởng về xây dựng một đảng vô sản trên cơ sở của nguyên tắc tập trung
dân chủ đã được C. Mác và Ph. Ăngghen những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng
sản khoa học đưa vào “Điều lệ của đồng minh những người cộng sản” (1847) và
các văn kiện của “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” (1864). Đó là, Đảng Cộng sản
phải là một tổ chức độc lập mang bản chất giai cấp công nhân rõ rệt, “Đảng công
nhân phải hành động sao cho thật có tổ chức, thật thống nhất, thật độc lập nhất,
nếu như nó không muốn... lại bị giai cấp tư sản lợi dụng và phải bám đuôi nó mà
lê đi”1. Liên đoàn được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ triệt để, các cơ quan
lãnh đạo của Đảng được bầu ra, có thể bị thay thế hoặc bãi miễn; đảng viên đều
được tự do thảo luận những vấn đề sinh hoạt đảng, tranh luận trong khuôn khổ
tính đảng, …, người vi phạm Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ hoặc đình chỉ sinh hoạt
đảng; kiên quyết chống những phần tử vô tổ chức, những phần tử cơ hội, xét lại...
Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã nhấn mạnh dân chủ phải thống nhất
với tập trung, bộ phận phải phục tùng toàn thể, thiểu số phải phục tùng đa số và
hai ông chủ trương thực hiện chế độ trung ương tập quyền và là nhiệm vụ của
một Đảng cách mạng. C. Mác nói: “Vô luận như thế nào cũng không thể tha thứ
cho cái tình trạng mỗi thôn xã, mỗi thành phố và mỗi tỉnh gây ra những trở ngại
mới trên con đường hoạt động cách mạng, bởi vì hoạt động cách mạng chỉ có thể
phát huy toàn bộ lực lượng của mình trong điều kiện thực hiện nguyên tắc tập
trung mà thôi. Quyết không tha thứ hành động lợi dụng cái gọi là quyền tự trị, tự


1

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, T.7, tr. 342-343.


3
do của địa phương. Việc thực hiện chế độ trung ương tập quyền hết sức chặt chẽ
là nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính”2.
Trong hoạt động thực tiễn, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu cao tấm gương
đấu tranh có tính nguyên tắc để củng cố sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức của
các tổ chức vô sản, kiên quyết chống bọn cơ hội, xét laị và những người không
tôn trọng, chấp hành kỷ luật của Đảng. Tại Hội nghị Luân Đôn của quốc tế thứ
nhất, hai ông đã khai trừ Bacunin, một kẻ cơ hội, vô chính phủ, mưu toan biến
Đảng thành một tổ chức bí mật, hẹp hòi của những người đầy âm mưu.
Trong điều kiện lịch sử mới, kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen
V. I. Lênin đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tất yếu trong xây dựng và hoạt động của đảng cách mạng của giai cấp
công nhân. Thuật ngữ “tập trung dân chủ” được nêu lên lần đầu tiên với tích cách
là một nguyên tắc chính thức, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng tại Hội nghị
Tammécpho của những người Bônsêvích (1905). Nghị quyết nêu rõ: Thừa nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc không thể tranh cãi được và cần
phải thực hiện nguyên tắc bầu cử rộng rãi các trung tâm lãnh đạo. Các cơ quan
này có đủ mọi quyền hạn trong việc lãnh đạo tư tưởng, thực tiễn. Các cơ quan đó
phải báo cáo các hoạt động của mình một cách thật công khai, chặt chẽ và có thể
bị bãi miễn. Nguyên tắc tập trung dân chủ được chính thức đưa vào Điều lệ trong
Đại hội IV của Đảng (1906) đã khẳng định: “Tất cả các tổ chức Đảng đều được
xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ” 3. Đến Đại hội VIII (1919) khẳng
định nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo kết cấu tổ chức của Đảng
từ nay về sau.

Trong những năm đầu khi Đảng Bônsêvích mới được thành lập thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được đặt lên hàng đầu. Để phù hợp với hoàn cảnh lúc đó,
trong “Một bước tiến, hai bước lùi”, V. I. Lênin coi nguyên tắc tập trung “là một
nguyên tắc duy nhất cần phải toát ra trong toàn bộ Điều lệ”4. V. I. Lênin luôn luôn
nhấn mạnh rằng không được để cho những điều kiện bất hợp pháp cản trở việc
Sđd, tr. 124 -125.
Đảng Cộng sản Liên xô qua các nghị quyết - Nxb Chính trị, M, tập 1, tr. 182.
4
Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1970, tr. 266.
2
3


4
thực hiện dân chủ trong những giới hạn và hình thức cho phép mà không có hại
cho Đảng và V. I. Lênin chủ trương khi có điều kiện thích hợp thì việc áp dụng
nguyên tắc dân chủ trong Đảng, nhất là nguyên tắc bầu cử phải được áp dụng
từng bước.
Theo V. I. Lênin: “Các đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản phải được xây
dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong thời kỳ nội chiến gay gắt hiện nay,
Đảng Cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu Đảng được tổ chức
một cách tập trung nhất, nếu trong Đảng có một kỷ luật sắt gần giống như kỷ luật
quân sự và nếu Trung ương Đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền
lực rộng rãi được toàn thể đảng viên tin cậy”5. V. I. Lênin đã kịch liệt phê phán
quan điểm của bọn cơ hội chủ nghĩa, chủ trương tổ chức một đảng không có hình
thù rõ rệt, không đòi hỏi đảng viên phải tham gia hoạt động trong một tổ chức
đảng, không cần có nguyên tắc tập trung dân chủ, ngay từ Đại hội II Đảng Công
nhân dân chủ - xã hội Nga (1903). Trong cuộc đấu tranh về mặt tổ chức của
Đảng, V. I. Lênin đã coi công thức của Máctốp là một công thức vô dụng, mang
nội dung tư tưởng cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ chức. V. I. Lênin nhiều lần nhấn

mạnh: “Sức mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không tổ chức quần
chúng thì giai cấp vô sản không là cái gì hết. Được tổ chức giai cấp vô sản sẽ là
tất cả”6.
Sau khi nội chiến kết thúc, Đảng Bônsêvích Nga đã chủ trương không
ngừng phát triển dân chủ trong Đảng. Đại hội X của Đảng (1921) là cái mốc đánh
dấu quá trình dân chủ trong Đảng, V. I. Lênin chủ trương khi điều kiện chính trị
cho phép thực hiện chế độ bầu cử trong Đảng là vô điều kiện và nói bênh vực chế
độ tập trung trong Đảng chúng ta chỉ bênh vực chế độ tập trung dân chủ mà thôi.
Người nhấn mạnh: “Giai cấp vô sản có thể thực hiện một cách đúng đắn vai trò tổ
chức của nó (và đó là vai trò chính của nó) một cách có kết quả và thắng lợi thì
chính đảng của giai cấp vô sản phải thực hiện được trong nội bộ của mình, một
chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt... Kẻ nào làm yếu dù chỉ là
một chút ít - kỷ luật sắt trong đảng của giai cấp vô sản... là thực tế giúp cho giai
5
6

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, T. 41, tr. 34.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1980, T. 14, tr. 163.


5
cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản”7. V. I. Lênin cho rằng, kẻ nào từ chối không
chịu phục tùng kỷ luật Đảng, làm yếu kỷ luật Đảng “tức là từ chối không muốn
làm đảng viên, tức là phá hoại Đảng”8.
Tư tưởng về tập trung dân chủ của C. Mác - Ph. Ăngghen và V. I. Lênin
trở thành nguyên tắc nền móng cho việc xây dựng Đảng ở Nga và được các Đảng
trong Quốc tế III thừa nhận. Một điều kiện quan trọng để ra nhập Quốc tế III là
Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Không tuân thủ
nguyên tắc này thì không còn là một Đảng mácxít nữa.
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn trung

thành với tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về nguyên tắc tập
trung dân chủ và sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng đó trong tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trình độ dân trí của Việt Nam.
Trước khi Đảng ta ra đời, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), đề
cập đến cách tổ chức, giải quyết công việc của Công hội, Hồ Chí Minh đã giải
thích nguyên tắc tập trung dân chủ một cách giản dị và dễ hiểu. Người nói: “Từ
tiểu tổ đến đại hội đều theo cách dân chủ tập trung. Nghĩa là có việc gì ai cũng
được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo
hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì giao cho hội uỷ viên làm, khi ấy
thì tất cả hội viên phải theo mệnh lệnh hội ấy. Ấy là tập trung. Ai không nghe lời
thì uỷ viên có quyền phạt”9.
Khi Đảng ta ra đời, Hồ Chí Minh đã áp dụng ngay nguyên tắc tập trung
dân chủ trong xây dựng Đảng. Trong các Văn kiện được thông qua tại Hội nghị
hợp nhất (2/1930) do Người soạn thảo làm thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
đã xác định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát
biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi
hành”10. Mặc dù không sử dụng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng đây chính là
nội dung cốt lõi nhất của nguyên tắc này.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, T. 41, tr. 34.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1977, T.8, tr 424.
9
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T.2, tr. 306.
10
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 3, tr. 7.
7
8


6

Trong báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội II của Đảng (2/1951), khi bàn
về các vấn đề cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam theo chế độ
dân chủ tập trung”11. Nhưng bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ được Hồ
Chí Minh luận giải toàn diện nhất trong cuốn “Thường thức chính trị” (1953). Tại
đó, Người dành một mục để nói về chế độ dân chủ tập trung của Đảng và khẳng
định: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp, tổ chức thống nhất lại theo một
nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung” 12. Như vậy, tập
trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất có ý nghĩa sống còn của Đảng.
Ở Hồ Chí Minh, trong tên gọi có sự khác biệt: Có khi là nguyên tắc dân
chủ tập trung, có khi là chế độ dân chủ tập trung; có khi lại là nguyên tắc tập trung
dân chủ, nhưng quan điểm của Người về nội dung và bản chất của nguyên tắc này
là nhất quán, thống nhất, đó là mối liên hệ, tác động chi phối làm tiền đề cho
nhau, thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong một cấu trúc
chỉnh thể thống nhất của nguyên tắc: “Tập trung trên cơ sở dân chủ” và “dân chủ
dưới sự chỉ đạo của tập trung”. Điều đó cũng có nghĩa là trong từng yếu tố “dân
chủ” và “tập trung” đã có một sự hoà quyện, chuyển hoá tương ứng, “tập trung”
không hề mâu thuẫn với “dân chủ” mà nó thống nhất, tác động qua lại với nhau.
Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội. Song, dân chủ không có
nghĩa là vô chính phủ. Trong khi chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng yếu tố tập trung, kỷ luật thống nhất; đồng thời
nhấn mạnh phát triển dân chủ nội bộ Đảng. Người cho rằng bản chất của chế độ
ta là dân chủ, “dân chủ là cái quý nhất của nhân dân” do đó cũng là cái quý nhất
của mỗi đảng viên. Nếu thực hành dân chủ nội bộ tốt sẽ làm cho Đảng phát huy
và tập trung được trí tuệ, tạo nên bầu không khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, làm
cho Đảng thoát khỏi tình trạng thiếu đoàn kết - một nhân tố làm suy yếu sức
mạnh của Đảng. Mở rộng dân chủ còn chống được tệ độc đoán, chuyên quyền
trong Đảng. Hồ Chí Minh là một hiện thân của dân chủ và gương mẫu thực hành
11

12

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 6, tr. 174.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 7, tr. 240.


7
dân chủ. Dân chủ đã thành nếp hằn sâu trong tư chất, phong cách và đời thường
của Người. Từ Người, những vấn đề về tập trung dân chủ đã trở thành nguyên tắc
cơ bản trong xây dựng, sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta. Vì vậy, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn đoàn kết thống nhất, trong sạch vững mạnh.
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển của phong trào Cộng sản và công nhân
quốc tế đã khẳng định vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với việc
xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ mang
bản chất của giai cấp công nhân. Giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc này là giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh vực tổ chức.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức cơ bản, phân biệt chính Đảng kiểu mới của các giai cấp công nhân, Đảng
cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ
nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ có thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mới có thể vừa chống được bè phái, bảo đảm
sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Chỉ có như vậy, Đảng mới có sức
mạnh và sức chiến đấu”13.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo toàn bộ và
xuyên suốt quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh tổ chức của Đảng, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc quyết định vào nguyên tắc này. Đồng thời,
nguyên tắc này cũng quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng,

thiết lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Đảng làm cho Đảng
trở thành một chỉnh thể đồng bộ, thống nhất có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm
minh, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các chế độ để chỉ đạo việc giải
quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Đó là mối quan hệ tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới thực hiện vô điều kiện nghị
13

Đảng Cộng sản Việt nam, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 130.


8
quyết của cấp trên. Giữa cá nhân với tổ chức, giữa địa phương với Trung ương…
giải quyết tốt các mối quan hệ đó thì mọi đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ
thị của Đảng được thực hiện một cách triệt để, nhanh chóng và chính xác, tránh
được tình trạng “trên phát” nhưng “dưới không động” dưới làm nhưng trên không
biết, ỷ lại trông chờ vào trên hay “khoán trắng” cho cấp dưới, công việc không
biết giao cho ai “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Như vậy, hiệu quả lãnh đạo,
chỉ đạo sẽ bị hạn chế. Thực hiện tốt tập trung dân chủ sẽ bảo đảm cho Đảng là
một “guồng máy” chặt chẽ, thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các nguyên tắc, chế độ trong sinh
hoạt Đảng và phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng vừa
giữ vững được nguyên tắc, vừa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, vừa tập trung được trí tuệ và sức
mạnh của toàn Đảng.
Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII nhấn mạnh: “Giữ vững chế
độ sinh hoạt định kỳ của các tổ chức Đảng, mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh
luận thẳng thắn; tôn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu ý kiến đúng đắn của các
cấp uỷ viên và đảng viên trước khi quyết định… Khi có ý kiến khác nhau phải
thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải biểu quyết, khi cần, phải điều

tra khảo sát, làm thí điểm rồi kết luận; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số có
quyền báo cáo lên cấp trên”. Như vậy, Đảng sẽ khắc phục được tệ quan liêu, gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền, đồng thời khắc phục được tình trạng dân chủ
quá trớn, dân chủ vô chính phủ.
Đảng là một chỉnh thể thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mỗi
yếu tố có vị trí, vai trò riêng, trong đó, yếu tố chính trị đóng vai trò quyết định.
Nhưng khi có đường lối đúng thì công tác tổ chức đóng vai trò quan trọng để biến
đường lối thành hiện thực. Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy rằng, chỉ có sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng thì đó mới chỉ là trào lưu chính trị, tư tưởng,
thiếu sự gắn kết về mặt tổ chức để trào lưu đó biến thành hiện thực. Còn khi bị tan
rã về mặt tổ chức (từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ) thì Đảng sẽ bị tan rã.
Trong khi đó, nếu Đảng thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng, mà tổ chức vẫn


9
chặt chẽ thì Đảng vẫn còn tồn tại và là cơ sở để thống nhất và phát huy về mặt
chính trị, tư tưởng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở để giữ vững và tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, là điều kiện đảm bảo cho sự thống nhất
về mặt chính trị, tư tưởng được trở thành hiện thực bằng sự thống nhất về mặt tổ
chức. Nó là điều kiện cơ bản, là “vỏ cứng” là “xương sống” để Đảng tồn tại và
phát triển.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt
và mọi hoạt động của Đảng; nó thể hiện bản chất và sự sống còn của Đảng. Đồng
thời, nó còn là tiêu chuẩn để phân biệt giữa Đảng Cộng sản chân chính với các
đảng cơ hội, cải lương và là thước đo tính đảng của người đảng viên cộng sản
chân chính với các phần tử tự do, vô chính phủ, kém tính tổ chức, tính kỷ luật.
Vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ còn được thể hiện qua kinh
nghiệm thực tiễn của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và trong công tác
xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với Đảng ta, từ khi ra đời đến
nay, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành luôn vận dụng

đúng đắn, sáng tạo và kiên trì thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi
giai đoạn của cách mạng, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, thời bình cũng
như thời chiến, khi chưa có chính quyền cũng như khi đã có chính quyền… Trong
mọi điều kiện, Đảng ta luôn luôn là một khối đoàn kết thống nhất về ý chí và
hành động, thực sự là một chỉnh thể có tổ chức, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt
Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hiện nay, Đảng ta là Đảng cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, thời cơ và thách
thức đan xen nhau, nhiệm vụ chính trị của Đảng cũng có những bước phát triển
mới, song Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thắng lợi trong sự nghiệp lãnh đạo của
Đảng. Nguyên nhân cơ bản là Đảng ta đã trung thành, vận dụng sáng tạo nguyên


10
tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng, không dao động, chao đảo trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới.
Những thành quả mà phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đã mang
lại, bắt đầu từ cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã mở ra một thời đại mới cho
lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới, đẩy lùi chủ nghĩa phát xít và từng bước thu hẹp phạm vi của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nhưng, trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi
mới, trước sự tấn công phá hoại của kẻ thù, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở Liên
Xô và Đông Âu đã mắc sai lầm về đường lối, phủ nhận những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, xa rời quần chúng,… rơi
vào cái bẫy “dân chủ hoá, công khai hoá” và “đa nguyên, đa đảng”, làm rối loạn
và đi đến làm cho Đảng tan rã nhanh chóng và mất dân chủ. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng, phân liệt của hệ thống xã hội chủ

nghĩa hiện nay.
Từ thực tiễn xây dựng, hoạt động của phong trào Cộng sản và công nhân
quốc tế và của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và hoạt động của Đảng là tất yếu khách
quan, là cơ sở vững chắc bảo đảm cho Đảng đứng vững trong sự nghiệp lãnh đạo
đất nước. Không thể có sự tồn tại vai trò lãnh đạo của một Đảng Cộng sản, nếu
Đảng đó từ bỏ, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Nội dung và bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc tập trung dân chủ, ngay từ khi ra đời, trong Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức
cơ bản của Đảng. Từ bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt động thực
tiễn, Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.


11
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình
và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành

Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại
biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết không được truyền
bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem
xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”14.
Ở những Đảng khác nhau, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, tuỳ theo điều
kiện cụ thể và những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ
được thực hiện theo những cách khác nhau. Nhưng có một điều chung là khi
Đảng trở thành Đảng cầm quyền việc ngày càng phát triển dân chủ trong nội bộ
Đảng về chiều sâu và chiều rộng gắn liền với việc củng cố, tập trung và kỷ luật
của Đảng là một xu hướng chủ yếu.

14

Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb CTQG, H, 2006, tr. 15 - 18.


12
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh thuộc tính bản chất
của giai cấp công nhân. Như chính bản thân công thức đã chỉ rõ, tập trung dân
chủ thể hiện sự thống nhất của hai thành tố tập trung và dân chủ. Sự thống nhất đó
không phải là ngẫu nhiên. Nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản giành quyền thống trị về chính trị
và bởi việc Đảng của giai cấp công nhân cần phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đó và

đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng.
Tập trung nghĩa là Đảng phải có một Cương lĩnh chung và được đảng các
đảng viên cộng sản thừa nhận, là Cương lĩnh hành động phải tuân theo đối với
mọi người; nghĩa là trong Đảng có một Điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu
chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả mọi tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân
theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo tất cả các tổ chức đảng, lãnh đạo
công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là Đại hội đại biểu toàn quốc và
giữa hai kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Các nghị quyết của Đảng là
biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên
phải thi hành. Tập trung đòi hỏi phải có một kỷ luật thống nhất, bao gồm việc
thực hiện Cương lĩnh và Điều lệ, việc tuân theo những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng,
ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng không những
là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền của quyền lực, do các cơ quan
Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là sự thừa nhận sức
mạnh của sự lãnh đạo thống nhất và thừa nhận rằng mọi người đều bắt buộc phải
chấp hành nghị quyết của Đảng. Tập trung là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại,
hoạt động và phát triển của một Đảng vô sản.
Tập trung trên cơ sở dân chủ là tập trung trên cơ sở trí tuệ, sức mạnh của đa
số mà thiểu số phải phục tùng khác với tập trung quyền lực của thiểu số giai cấp
bóc lột bắt quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện. Tập trung trên cơ sở
dân chủ nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, thực hiện và bảo vệ lợi ích của Đảng,
của chế độ và của nhân dân lao động, khác với tập trung nhằm duy trì chế độ bóc
lột, bảo vệ chế độ áp bức bóc lột. Tập trung gắn liền với cấp dưới, với cơ sở, chịu


13
sự kiểm tra, quyết định của cơ sở, khác với tập trung nhằm trấn áp dưới, thoát ly
cơ sở, thoát ly dân chủ, cản trở bóp nghẹt dân chủ.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa các Đảng Cộng sản hoạt động trong những
điều kiện phức tạp, thường là bất hợp pháp hay nửa hợp pháp đã buộc phải có

một tinh thần kỷ luật tối đa, phải hết sức giữ bí mật, phải có tinh thần chấp hành
cao. Trong điều kiện Đảng cách mạng của giai cấp vô sản hoạt động công khai,
nó cũng thường xuyên phải chịu sự tác động của những giai cấp và những thế lực
chống đối, những phần tử bất mãn, lạc hậu, khi đó chỉ có một tổ chức tập trung
đoàn kết vững chắc, được tôi luyện về tư tưởng mới có thể đối chọi lại lực lượng
đó để thực hiện mục tiêu đề ra. Sau khi đã giành được chính quyền, Đảng Cộng
sản rất cần đến nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng phải gánh vác những nhiệm
vụ hết sức khó khăn và phức tạp: xây dựng lại xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện những quan hệ xã hội, hình thành con
người mới. Chỉ có một đảng thống nhất, đoàn kết, có tổ chức và kỷ luật, mới có
thể thực hiện được vai trò là đội tiên phong chính trị có tổ chức của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới.
Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là do
tính tích cực, tự giác của đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự thảo luận và giải
quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc hình thành các cơ quan lãnh đạo của họ, thì
tính tích cực của đảng viên Cộng sản mới có thể được phát huy. Chỉ khi dân chủ
trong Đảng được thực hiện tốt thì mới có thể giáo dục đảng viên Cộng sản trở
thành những chiến sỹ tiên phong của Đảng.
Đảng của giai cấp công nhân cần có dân chủ không phải chỉ để tổ chức
đúng đắn sinh hoạt nội bộ của Đảng và hoạt động bình thường với tư cách là một
tổ chức xã hội độc lập. Là một tổ chức dân chủ, Đảng mới có thể tranh thủ được
nhân dân lao động, lãnh đạo và dẫn dắt họ thực hiện những nhiệm vụ cách mạng,
cải tạo xã hội. Quần chúng ngày càng tín nhiệm Đảng nhiều hơn khi họ thấy rằng
trong việc sinh hoạt nội bộ, bản thân Đảng cũng nghiêm chỉnh tuân theo những
tiêu chuẩn dân chủ.


14
Nếu vấn đề dân chủ trong Đảng đã đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đấu

tranh giành chính quyền, thì sau khi Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo trong xã
hội, càng có ý nghĩa quan trọng hơn, Đảng đặt cho mình mục tiêu xây dựng xã
hội - xã hội chủ nghĩa, trong đó dân chủ, tức là toàn bộ quyền lực của nhân dân,
sẽ được thực hiện dưới một hình thức đầy đủ nhất. Do đó, khi nắm quyền lãnh
đạo đất nước, Đảng góp phần phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến mức tối
đa, Đảng vạch ra những hình thức và phương pháp bảo đảm cho tất cả mọi nhóm
dân cư tham gia vào quản lý Nhà nước, tham gia sinh hoạt xã hội - chính trị và
sinh hoạt kinh tế của đất nước.
Chỉ khi nào bản thân Đảng thực hiện những nguyên tắc dân chủ thì lúc đó
Đảng mới có thể giải quyết thành công nhiệm vụ lôi cuốn mọi công dân tham gia
quản lý công việc của xã hội, phát huy tính tích cực của họ trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm sinh hoạt bình thường
của Đảng, để phát huy tính tích cực của đảng viên. Không có dân chủ thì Đảng
không thể thực hiện thành công vai trò lịch sử của mình là đội tiên phong, là lãnh
tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, là người tổ
chức công cuộc xây dựng xã hội mới.
Dân chủ trong Đảng về nguyên tắc đó là quyền lực của đảng viên, là sự
tham gia của toàn thể đảng viên Cộng sản vào việc quản lý công việc của Đảng
một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua những đại biểu của họ vào việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng, việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của
Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, có kỷ luật chặt chẽ, thừa
nhận sự lãnh đạo thống nhất thì đảng viên mới có thể thực hiện có kết quả quyền
lực và quyền hạn của mình.
Dân chủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ là dân chủ có lãnh đạo, có mục
đích và hướng tới sự tập trung, nó trái với dân chủ cực đoan, dân chủ vô chính
phủ. Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải trên cơ sở tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Hồ Chí Minh đã nói: “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là



15
tập trung, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ, tập trung…” 15, nó
khác với dân chủ tràn lan, không giới hạn, dân chủ hình thức. Dân chủ có sự bảo
đảm của tập trung là dân chủ có tổ chức, trong tổ chức chứ không phải là vô tổ
chức, là dân chủ có tính định hướng rõ ràng. Dân chủ dựa trên sự bình đẳng,
thống nhất mục tiêu, lợi ích khác với dân chủ dựa trên sự bất công, bất bình đẳng
mang bản chất của chế độ áp bức bóc lột. Dân chủ trong Đảng là dân chủ thuộc
về đa số buộc thiểu số phải phục tùng nhằm để xoá bỏ chế độ bóc lột, khác với
dân chủ chỉ thực sự với tầng lớp quý tộc, với giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong
xã hội còn đối với quần chúng nhân dân lao động thì chỉ là hình thức. Dân chủ có
sự bảo đảm của tập trung nhằm tạo ra sức mạnh bằng sự đoàn kết, tập trung,
thống nhất, hoàn toàn khác với dân chủ vô chính phủ, vô tổ chức tạo ra sự chia rẽ,
bè phái, bản vị cục bộ địa phương, phá vỡ sự đoàn kết tập trung, thống nhất trong
Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung
và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của
một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung
là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Thực hiện và phát huy dân
chủ trong Đảng phải gắn liền với giữ vững, tăng cường tập trung và ngược lại.
Trên cơ sở thống nhất và tác động biện chứng giữa hai yếu tố đó thì dân chủ ngày
càng phát triển, tập trung càng vững chắc. Nhận thức và thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ sẽ phát huy và làm tăng cường sức mạnh của Đảng. Khi tập
trung trên cơ sở dân chủ thì càng thúc đẩy, cổ vũ cho dân chủ có chất lượng hơn.
Còn dân chủ hướng tới tập trung, đi tới sự thống nhất thì dân chủ thực sự có mục
đích, có chất lượng. Nếu tập trung cao mà dân chủ bị hạn chế tức là tập trung
không dựa trên cơ sở dân chủ, đó là tập trung quan liêu, hình thức. Ngược lại, nếu
mở rộng dân chủ mà không hướng tới sự tập trung là dân chủ vô tổ chức, vô kỷ
luật, dân chủ phường hội chứ không phải dân chủ theo nguyên tắc của Đảng, do
đó cũng không bảo đảm dân chủ.


15

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1996,T5, tr 505


16
Nói đến nguyên tắc tập trung dân chủ là nói đến mối quan hệ giữa thiểu số
và đa số, giữa cấp dưới và cấp trên, giữa cá nhân và tổ chức. Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa hai mặt của một chỉnh thể thống
nhất, giữa tập trung và dân chủ trong hoạt động của Đảng. Bất kỳ mưu toan nào
muốn tách chúng ra thành những bộ phận riêng biệt không có liên hệ với nhau,
cũng đều chỉ có thể làm hại cho Đảng mà thôi. Đồng thời cũng kiên quyết chống
lại bọn xét lại đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. V. I. Lênin đã diễn đạt hết
sức rõ ràng, ngắn gọn: “Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ
dân chủ trong nội bộ Đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập
trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ”16. Do đó, đối với
một Đảng Cộng sản, trong tất cả mọi giai đoạn hoạt động, dân chủ và tập trung
đều quan trọng như nhau. Hai mặt đó, nếu đứng riêng một mình, tách rời nhau,
cũng đều không thể là cơ sở của việc xây dựng Đảng. Nếu dân chủ mà không tập
trung thì nhất định sẽ biến Đảng thành một khối tập hợp mơ hồ, không có sự
thống nhất nội bộ và tính tổ chức, do đó không thể thực hiện vai trò người lãnh
đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và
giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó. Ngược lại, nếu chỉ theo nguyên tắc tập
trung thì Đảng có nguy cơ biến thành một tổ chức bè phái, đóng cửa, xa rời quần
chúng, mất khả năng giáo dục đảng viên thành những chiến sĩ tiên phong, tự giác.
Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện đảm bảo cho tổ chức đảng
cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời, phát
huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên và tổ chức đảng.
Nghiên cứu bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ chúng ta nghiêm khắc phê
phán quan điểm sai trái cho rằng: nguyên tắc tập trung dân chủ là sự gán ghép hai

nguyên tắc “tập trung” và “dân chủ”, đó là sự gán ghép hai yếu tố có xu hướng
đối lập nhau, từ đó quy kết bản chất của Đảng ta là thiếu tập trung thống nhất, lẫn
lộn giữa tập trung trên cơ sở dân chủ với tập trung quan liêu, giữa dân chủ có lãnh
đạo với dân chủ vô tổ chức, vô chính phủ.

16

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb tiến bộ Mát xcơva, 1980, T. 27, tr. 91.


17
Chúng ta cũng phê phán quan điểm cho rằng tập trung là “danh từ” dân chủ
là “tính từ”. Từ đó tuyệt đối hoá “danh từ” tập trung, tầm thường hoá “tính từ”
dân chủ, hay cho rằng tập trung là mục đích, dân chủ là phương tiện, cốt là đạt
mục đích còn phương tiện nào cũng được. Tư tưởng đó dẫn đến hình thức tập
trung quan liêu, phi dân chủ trái với bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Một số người lập luận cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đúng và thích
hợp với hoạt động của Đảng trong điều kiện Đảng hoạt động bí mật, hoặc trong
thời kỳ chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó phải có kỷ luật chặt chẽ, phải có tập
trung thống nhất cao độ, còn trong điều kiện hoà bình xây dựng, kẻ thù không
còn, nhân dân làm chủ, cần gì phải thực hiện chế độ tập trung, kỷ luật và chuyên
chính (?). Lúc này mà thực hiện tập trung là không thức thời, là vi phạm dân chủ,
là tạo điều kiện để quay về chế độ phong kiến chuyên quyền (!)… và còn nhiều
trào lưu tư tưởng chống đối khác. Tất cả những quan điểm trên đây đều là sai trái,
thực chất là hạ thấp, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ để đi tới phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đây còn là một trong những thủ đoạn “diễn biến hoà bình”
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
chúng ta phải hết sức cảnh giác.
Bảo vệ, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ là đòi hỏi khách quan đối
với các Đảng Cộng sản nói chung, Đảng ta nói riêng, nhất là trong tình hình hiện

nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng - lãnh tụ chính trị, đội tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mới ngày
nay, chúng ta phải hiểu và thực hiện nguyên tắc dân chủ một cách đúng đắn,
không máy móc, giáo điều, nắm vững những nội dung cơ bản của nguyên tắc.
3. Tình hình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng ta
những năm qua.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của
Đảng ta. Quá trình phát triển của Đảng gắn liền với việc Đảng kiên trì và từng
bước cụ thể hoá, thể chế hoá nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện nguyên
tắc này, Đảng ta giữ vững và phát triển được tổ chức, đảm bảo sự thống nhất ý chí
và hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng. Ngay từ khi thành lập


18
năm 1930, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: tổ chức của
Đảng phải “Tổ chức theo lối dân chủ tập trung” và “bất cứ vấn đề nào đảng viên
phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng
viên phải phục tùng mà thi hành”17. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc và xây dựng Đảng, từ lúc Đảng chưa giành được chính quyền,
đến khi Đảng giành được chính quyền và trong giai đoạn hiện nay, Đảng đang
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn khẳng định tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Nhờ vậy, trải
qua thử thách khắc nghiệt, Đảng luôn giữ được đoàn kết, thống nhất, trong Đảng
không hình thành các bè phái, tệ độc đoán chuyên quyền vì sùng bái cá nhân như
đã từng diễn ra ở một số đảng cầm quyền ở một số nước xã hội chủ nghĩa. Chính
vì vậy, đã làm cho Đảng ta luôn thống nhất, tập trung được sức mạnh, đứng vững
chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn giành hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Gần đây, nếu không
dựa chắc trên nguyên tắc này thì không thể đấu tranh thắng lợi với những quan
điểm sai trái xuất hiện trong Đảng (như đòi đa nguyên chính trị, “định hướng

rộng” trong văn hoá, văn nghệ, tổ chức “hội thảo chính trị”…), không xử lý êm
thấm tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng ở một số tỉnh uỷ, khó thực hiện suôn
sẻ việc chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng
và Nhà nước, vv…
Trong quá trình vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt từ Đại hội
VIII đến nay, Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhiều cấp uỷ và tổ chức
Đảng ở các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nguyên tắc; tăng cường
hơn chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ kiểm điểm công tác theo
định kỳ; tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật Đảng,
pháp luật Nhà nước, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, góp phần
thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng… mà nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra đã coi trọng cụ thể hoá và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong tập thể lãnh đạo khi thảo luận và ra
17

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1996,T3, tr 27.


19
quyết định; xây dựng và thực hiện các quy chế theo hướng mở rộng dân chủ,
công khai, minh bạch.
Những chuyển biến tiến bộ về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ được
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII cụ thể như: đã thực hiện dân chủ
trong xây dựng và ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng đều được thảo luận, lấy ý kiến của đảng viên và tổ chức đảng từ cơ sở lên.
Sinh hoạt của các cấp uỷ và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở hơn,
các cấp uỷ viên mạnh dạn trình bày ý kiến của riêng mình; tăng cường các hình
thức giao ban, hội nghị chuyên đề, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ
chốt với đảng viên và nhân dân. Việc thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại

diện trong Đảng và trong xã hội được tăng cường hơn; việc bầu cử trong Đảng,
các đoàn thể và cơ quan dân cử, cũng như trong phong cách lãnh đạo của Đảng
có tiến bộ. Dân chủ trong công tác tổ chức và cán bộ, đánh giá, tuyển chọn, đề bạt
cán bộ được tiến hành công khai, dân chủ tập thể hơn. Công tác cán bộ được thực
hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng tuỳ tiện, cục bộ địa phương,
mất đoàn kết nội bộ được chấn chỉnh kịp thời.
Đặc biệt, trong giai đoạn chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng, Đảng ta đã
thực hiện mở rộng phát huy quyền dân chủ không chỉ đối với mọi cán bộ, đảng
viên trong Đảng mà còn mở rộng và tranh thủ lấy ý kiến của nhân dân trong cả
nước cũng như ý kiến của kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế tham gia
trực tiếp vào việc xây dựng và hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, khuyến khích để mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi phát biểu thẳng
thắn và trung thực ý kiến của mình đóng góp vào dự thảo nghị quyết của Đảng.
Khi chỉ đạo giải quyết các vụ việc cụ thể, cấp bách, trong toàn Đảng, nhất
là cơ quan lãnh đạo cao cấp, đã có sự thống nhất cao độ, tạo điều kiện tập trung
nguồn lực giải quyết dứt điểm, không kéo dài, ổn định đời sống nhân dân. Chính
giải quyết tốt những mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, Đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn giữ vững và củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội, xứng đáng là trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc.


20
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, song, việc nhận thức và thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng vẫn còn chưa thật sự nghiêm túc,
diễn biến phức tạp, những biểu hiện vi phạm nguyên tắc này vẫn còn khá phổ
biến, dưới những hình thức tinh vi. Một số cán bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ,
địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất nặng.
Tình trạng phổ biến hiện nay là dân chủ mang tính hình thức, dân chủ một
chiều, không ít nơi tập thể chỉ là “bình phong” để hợp thức hoá ý chí người đứng

đầu, thực chất là tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng. Do dân chủ hình thức
nên không phát huy được vai trò năng động, sáng tạo và trí tuệ của cán bộ, đảng
viên làm cho đảng viên không muốn đóng góp ý kiến, ngại đấu tranh, khi quá bất
bình thì viết thư nặc danh, mạo danh hoặc lôi kéo, bày cho quần chúng đấu
tranh… Đúng như đánh giá của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “tập
trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng đang bị vi phạm. Một số cán
bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Có
vấn đề chỗ này, chỗ khác chế độ tập trung đang bị suy yếu. Tình trạng hiện nay là
dân chủ trong Đảng còn nhiều hạn chế. Sự tập trung quá mức tách khỏi cơ sở dân
chủ là một trong những nguyên nhân phát triển bệnh quan liêu. Sức mạnh là ở chế
độ tập trung, tập trung càng cao thì sức chiến đấu càng mạnh, nhưng đó phải là
tập trung trên cơ sở dân chủ. Thiếu dân chủ trong Đảng sẽ làm cho đảng viên trở
nên thụ động, mất dần vai trò làm chủ, mất dần tính tự giác sáng tạo, tạo “mảnh
đất tốt” cho tệ quan liêu ở một bộ phận trong Đảng”18. Về chấp hành kỷ luật trong
Đảng, nghị quyết chỉ rõ: “Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương chính
sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện thiếu
ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực,
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó
đi vào cuộc sống”19.
18
19

QĐND. Các chuyên đề nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng IX, Nxb QĐND, H. 2001, tr 61.
ĐCSVN, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr 76.


21
Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII đã chỉ ra những biểu hiện vi
phạm đáng chú ý là:

“Một số cán bộ chủ chốt, người đứng đầu gia trưởng, độc đoán không thực
hiện đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là trong việc quyết
định chủ trương công tác và tổ chức cán bộ.
Việc thực hiện và giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ còn lúng túng dẫn đến có tình trạng cấp uỷ can thiệp quá
sâu vào công tác điều hành của cơ quan Nhà nước hoặc có nghị quyết của cấp uỷ
nhưng chính quyền không tổ chức thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng, nội dung không được
chuẩn bị chu đáo, thảo luận qua loa, nghị quyết không cụ thể và né tránh những
vấn đề gai góc. Nhiều vấn đề có tính nguyên tắc không được biểu quyết, không
được kết luận rõ ràng hoặc không thảo luận mà biểu quyết. Các cấp uỷ viên
không phát huy đầy đủ trách nhiệm của mình. Do đó, tình trạng khá phổ biến là
trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra ngoài lại nói khác hoặc không thực hiện; nói
một đằng làm một nẻo; khi đương chức thì không nói hoặc nói thế này, đến khi
nghỉ chức vụ hoặc chuyển công tác thì lại nói khác…
Nhiều người lấy cớ “đề cao dân chủ tập thể” nhưng thực chất là người
đứng đầu cấp uỷ, cán bộ chủ chốt không dám đứng ra chịu trách nhiệm, không
dám quyết đoán, dựa dẫm vào tập thể. Dân chủ không đi đôi với kỷ cương, kỷ
luật, nói và làm tuỳ tiện chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước không nghiêm. Có tình trạng vi phạm dân chủ, gieo rắc những quan điểm
trái với đường lối, nghị quyết của Đảng, tán phát “tờ rơi”, thư nặc danh, mạo
danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ, chia rẽ,
kéo bè, kéo cánh, làm mất đoàn kết nội bộ.
Nhìn chung, việc chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều
nơi bị buông lỏng, tình trạng gia trưởng, độc đoán và dân chủ hình thức còn xảy
ra ở nhiều nơi, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước không được chấp hành
nghiêm chỉnh, tình trạng phát ngôn tuỳ tiện, truyền bá các quan điểm trái với


22

Cương lĩnh, Điều lệ và nghị quyết của Đảng đang phát triển trong một số cán bộ,
đảng viên, kể cả một số cán bộ có quá trình tham gia cách mạng lâu năm”20.
Đặc biệt nghiêm trọng là một số cấp uỷ địa phương, cơ sở, nhân danh tập
thể ra nghị quyết trái với nghị quyết cấp trên, vi phạm chính sách, pháp luật của
Nhà nước hoặc không đúng thẩm quyền. Không ít nơi bí thư vượt quyền thường
trực, thường trực vượt quyền thường vụ, thường vụ vượt quyền ban chấp hành.
Một tình trạng khá phổ biến là quan hệ phục tùng một chiều: cấp trên chỉ thị cho
cấp dưới; cấp dưới phục tùng cấp trên mà không có điều kiện để đề đạt ý kiến của
mình một cách có hiệu quả. Có một số trường hợp cấp trên để cấp dưới đề đạt ý
kiến hoặc lấy ý kiến cấp dưới, nhưng đó cũng chỉ là hình thức vì mọi chủ trương
đã được quyết định từ trước rồi. Không ít trường hợp cấp dưới đã quyết định một
vấn đề, nhưng cấp trên có ý kiến khác đi, cho dù ý kiến đó chưa được nghiên cứu
kỹ, cấp dưới cũng đành thay đổi theo, không dám có ý kiến lại. Một biểu hiện nữa
thường thấy là khi đại biểu cấp trên đến dự sinh hoạt hay thăm cấp dưới thì can
thiệp quá sâu vào những công việc lẽ ra phải để cho cấp dưới quyết định.
Trong điều hành có cả tình trạng né tránh trách nhiệm, dựa dẫm tập thể,
thiếu quyết đoán, trách nhiệm không rõ ràng, kể cả sự độc đoán, lạm dụng quyền
hành người lãnh đạo. Hậu quả tuỳ thuộc vào tinh thần trách nhiệm và tương quan
về năng lực của người đứng đầu với tập thể lãnh đạo. Cán bộ chính quyền, đoàn
thể tham gia cấp uỷ chưa phát huy hết vai trò, nặng về cơ cấu, không đáp ứng
được yêu cầu công tác Đảng, sự lãnh đạo chung của cấp uỷ.
Trong công tác tổ chức - cán bộ, cơ chế và cách làm chưa cho phép phát
hiện kịp thời, chính xác các cán bộ có năng lực và triển vọng để đưa vào cơ quan
lãnh đạo, thay thế cán bộ hạn chế về năng lực và uy tín, mặc dù không có sai
phạm đến mức phải xử lý.
Một số không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý không tự giác, khép mình vào kỷ
luật của tổ chức Đảng, độc đoán, chuyên quyền, sống xa dân, thiếu trách nhiệm
trong công việc, nặng về chủ nghĩa thành tích, báo cáo không đúng sự thật, tư
tưởng cá nhân, kèn cựa địa vị nặng nề, gây ra mất đoàn kết nội bộ. Nhiều đảng
Ban tư tưởng văn hóa TƯ, Tài liệunghiên cứu Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ sáu (lần 2), khóa

VIII, Nxb CTQG, H, 1999, tr. 147-148.
20


23
viên thiếu tính tiên phong gương mẫu, thụ động trước các biểu hiện tiêu cực.
Công tác kiểm tra tiến hành không đều, có cơ quan thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ
luật đảng kéo dài, không ít vụ việc không xử lý gây bất bình, phẫn nộ trong nhân
dân, không có ý nghĩa ren đe, giáo dục đảng viên đương chức, đương quyền.
Những nguyên nhân dẫn đến sai phạm trong nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Về nguyên nhân khách quan:
Trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa sụp
đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, một số Đảng Cộng sản ở các nước hoặc
là ít nói đến hoặc là từ bỏ, “vượt qua” nguyên tắc tập trung dân chủ. Bọn đế quốc,
phản động các loại liên tục tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tìm mọi
cách đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm phá vỡ sự đoàn kết thống nhất
của Đảng, làm tan rã, phân liệt Đảng về mặt tổ chức. Mấy năm gần đây, chúng
càng dấn tới phản kích điên cuồng và quyết liệt vào nguyên tắc tập trung dân chủ,
vu cáo các Đảng Cộng sản là độc đoán, chuyên quyền. Chúng tán dương, cổ xuý
các đảng thực hiện đa nguyên chính trị, dân chủ cực đoan, khuyến khích trong
đảng có nhiều quan điểm khác nhau, có nhiều phe nhóm đối lập. Trước tình hình
đó, có người trong đội ngũ chúng ta muốn đặt lại vấn đề, phê phán, lên án, thậm
chí có người còn đòi xoá bỏ nguyên tắc tổ chức thiết yếu này.
Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một
nước kinh tế lạc hậu, bị xé nhỏ, phân tán, tự cung tự cấp. Trong đời sống xã hội
còn ngự trị tư tưởng, tập quán, tác phong, lề lối của người sản xuất nhỏ; tính tự tư
tự lợi, thiển cận, cục bộ địa phương, đố kỵ, cá nhân chủ nghĩa, bè phái theo kiểu
phường hội, vv… Tất cả những cơ sở kinh tế - xã hội đó là mảnh đất dung dưỡng
các động thái tiêu cực của cả dân chủ và tâp trung, chi phối, nhất là cán bộ lãnh

đạo cơ sở, năng lực thực hành dân chủ, thống nhất, đoàn kết trong Đảng.
Mặt khác, nước ta chìm trong xã hội phong kiến quá lâu, nên sự ảnh hưởng
của chủ nghĩa phong kiến chuyên chế và chế độ gia trưởng còn nặng nề, truyền
thống dân chủ chưa có, đó chính là nguyên nhân lịch sử sâu sắc, hạn chế triển
khai trên thực tế nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng.


24
Do trình độ dân trí, trình độ cán bộ thấp, bản thân nguyên tắc tập trung dân
chủ lại có biểu hiện phong phú, phức tạp, đòi hỏi phải thích ứng nhanh với những
biến đổi của tình hình, trong lãnh đaọ bộc lộ sự yếu kém, thụ động, đối phó vận
dụng nguyên tắc một cách không toàn diện dẫn đến sai phạm. Một số quy định,
quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở giai đoạn trước, nay đã lạc hậu,
chậm được nghiên cứu bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình và yêu cầu
mới.
Việc tổng kết thực tiễn về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa
thường xuyên và nghiêm túc. Chưa có những quy định cụ thể, cần thiết mang tính
pháp quy phù hợp với từng lĩnh vực, từng ngành, từng cấp, từng nơi.
Nguyên nhân chủ quan:
Về mặt lý luận, nhiều cán bộ, đảng viên chưa làm rõ bản chất, nội dung của
nguyên tắc, phê phán các nhận thức lệch lạc, giản đơn. Trong vấn đề này, công
tác lý luận tỏ ra tụt hậu, không có tác dụng soi sáng, góp phần giải quyết nhiều
khía cạnh mới mà cuộc sống đặt ra.
Về nhận thức, cấp uỷ và lãnh đạo ở một số đơn vị cũng như nhiều cán bộ,
đảng viên chưa nắm vững được tinh thần cơ bản của nguyên tắc tập trung dân
chủ, thiếu tôn trọng nó. Việc xây dựng quy chế làm việc còn hình thức, xác định
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa cấp uỷ và lãnh đạo đơn vị không
rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo, bị động và không phát huy được vai trò
của tổ chức Đảng.
Chủ nghĩa cá nhân thực dụng, ích kỷ vụ lợi đang có chiều hướng phát triển,

biểu hiện dưới nhiều hình thức hết sức tinh vi. Vì động cơ cá nhân không trong
sáng người lãnh đạo thường nhấn mạnh tập trung, ngại mở rộng dân chủ hoặc tìm
cách để làm cho dân chủ chỉ là hình thức, nhưng trước những việc khó lại ngại
trách nhiệm, dựa dẫm vào tập thể hoặc đùn đẩy cho người khác. Chủ nghĩa cá
nhân với những động thái muôn vẻ của nó chính là nguyên nhân chính, tạo ra
nguy cơ thoái hoá biến chất của đảng cầm quyền. Trong điều kiện chủ nghĩa cá
nhân lộng hành thì không thể có dân chủ và tập trung theo đúng nghĩa của nó,
nguyên tắc tập trung dân chủ chắc chắn bị tha hoá, biến dạng.


25
Trong Đảng chưa thực hành chế độ kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ một cách nghiêm ngặt, xử lý thích đáng và kịp thời những cá nhân
và tập thể vi phạm. Nhiều người biết cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc cũng
không đấu tranh.
Năng lực thực hành dân chủ của đảng viên, cán bộ không cao, có nơi đảng
viên không biết cách bảo vệ lợi ích chính đáng của mình có thể thực hiện được
những quyền gì. Có một số cán bộ, đảng viên không chịu khó vươn lên trong học
tập, rèn luyện nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Thậm chí nhiều cấp uỷ
viên, bí thư chi bộ chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng. Do vậy, kiến
thức và nghiệp vụ công tác Đảng rất hạn chế. Mối quan hệ giữa tập trung và dân
chủ giải quyết không tốt, một số nơi việc bố trí bí thư cấp uỷ chưa tương xứng với
nhiệm vụ được giao và thường bị “lép vế” so với thủ trưởng đơn vị…
Đối với Đảng bộ quân đội, thời gian qua, theo đánh giá của Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ quân đội lần thứ VII, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới... Đảng bộ quân đội đã
lãnh đạo toàn quân kiên định vững vàng, vượt qua khó khăn, thử thách, nỗ lực
vươn lên. Tổ chức Đảng các cấp thường xuyên được kiện toàn phù hợp với chấn
chỉnh lực lượng quân đội. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách được giữ vững. Đội ngũ đảng viên phát huy được vai trò tiên phong,

gương mẫu, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên, việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn có biểu hiện dân chủ hình thức, đề cao uy
quyền cá nhân. Nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng,
một số cán bộ, đảng viên chưa sâu sắc, giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ
Đảng có lúc, có nơi còn chồng chéo. Chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chưa nghiêm, tinh thần đấu tranh tự phê bình, phê
bình còn yếu. Biểu hiện cụ thể là:
Giải quyết mối quan hệ giữa bí thư với thường vụ, cấp uỷ với chỉ huy chưa
tốt. Quan hệ trên dưới thiếu gắn bó chặt chẽ. Ở một số nơi có biểu hiện chủ yếu
hướng lên trên, chỉ lo đối phó giải quyết mối quan hệ với cấp trên, thiếu quan tâm
đến cấp dưới; lãnh đạo tổ chức thực hiện thiếu cụ thể, chưa phát huy được sức


×