TINH THẦN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO, TRONG ĐƯỜNG
LỐI TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
============================
Việt Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ là chiến công oanh liệt vào bậc nhất
của dân tộc ta, là một trong những sự kiện nổi bật của thế kỷ XX: “một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc” 1. Cuộc chiến
tranh đã chấm dứt cách đây trên 40 năm, nhưng nhiều người trên thế giới
còn chưa hiểu nổi và chưa cắt nghĩa nổi “hiện tượng kỳ lạ” này. Câu hỏi
“vì sao Việt Nam thắng Mỹ” vẫn tiếp tục thu hút sự quan tâm của nhiều
chính khách và học giả, nhất là người Mỹ.
Đánh giá về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại hội lần
thứ IV của Đảng (12-1976) đã nêu rõ, thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ trước hết bắt nguồn từ đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn và
sáng tạo của Đảng, đường lối nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội...
Thực tế đã chứng minh: Sự lãnh đạo của Đảng trước hết bằng đường
lối, là nguồn gốc dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hơn 70
năm dưới lá cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt
Nam liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, làm rạng rỡ truyền thống
dân tộc, khẳng định vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Từ chỗ là một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân sống cơ cực lầm than dưới gót giày
xâm lược, cách mạng tưởng như “trong đêm tối không có đường ra”, đến
nay đất nước đã hoàn toàn độc lập, đang vững bước trên con đường quá độ
1
ĐCSVN: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H,1977, tr.6.
2
lên chủ nghĩa xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng
cao “con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.
Đó là kết quả của một quá trình nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của Đảng
và dân tộc ta, thể hiện sự phát triển trưởng thành của Đảng trong lãnh đạo,
chỉ đạo cách mạng. Những thành tựu ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó nguyên nhân quan trọng hàng đầu quyết định là Đảng
luôn kiên định vững vàng trên lập trường giai cấp công nhân, nắm vững chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự
cường trong hoạch định đường lối đúng đắn cho mỗi thời kỳ, giai đoạn phát
triển của cách mạng. Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường được thể
hiện ở mỗi điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, song dù ở điều kiện hoàn cảnh
nào, cũng là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Một trong những
điểm sáng của tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường trong hoạch định
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ có giá trị to
lớn trong lịch sử, mà mãi còn là bài học quý báu của Đảng và nhân dân ta
trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay, là một mẫu mực cho các Đảng cộng sản và phong trào công
nhân thế giới trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác-lênin vào thực tiễn để xây
dựng đường lối cách mạng đúng, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng xã hội mới, đồng thời còn là sự
phát triển bổ sung làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa MácLênin về tư tưởng cách mạng không ngừng. Đó là đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ hai chiến
lược cách mạng đó với nhau, nhằm thực hiện một mục tiêu chung là hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống
nhất nước nhà, mở đường đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
3
Ph. Ăngghen- lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản thế giới đã chỉ rõ:
Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không giới hạn trong những
phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh, khởi nghĩa quần
chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi- đó là
phương thức duy nhất nhờ đó mà một nước nhỏ có thể chiến thắng được
một nước lớn, một đội quân ít mạnh hơn có thể chống trả được một đội
quân mạnh hơn. Vận dụng những quan điểm quân sự của chủ nghĩa MácLênin, kế thừa truyền thống đánh giặc của dân tộc và kinh nghiệm của các
nước, trên cơ sở đường lối chính trị đúng đán, Đảng ta đã sáng tạo ra
đường lối chiến tranh nhân dân, huy động được cả dân tộc vào cuộc kháng
chiến trường kỳ đầy khó khăn gian khổ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để
nhấn chìm mọi bè lũ cướp nước và bán nước. Sau chín năm nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tranh thủ mọi khả năng và
sự giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã làm lên thắng lợi Địên Biên phủ rạng rỡ
non sông, chấn động địa cầu, buộc đế quốc Pháp phải ký hiệp định
Giơnevơ (20-7-1954) chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và
Đông Dương. Với thắng lợi này đã chấm dứt ách đô hộ gần một trăm năm
của chủ nghĩa thực dân cũ trên đất nước ta, miền Bắc hoàn toàn độc lập, tạo
điều kiện thuận lợi tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, góp phần thúc đẩy thế chiến lược tiến công của các lực
lượng tiến bộ thế giới, làm cho lực lượng cách mạng thế giới vốn đang trên
đà phát triển, càng phát triển mạnh mẽ hơn, tạo ra cán cân so sánh lực
lượng giữa cách mạng và phản cách mạng ngày càng có lợi cho cách
mạng, tạo ra khả năng ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới, thúc
4
đẩy ba dòng thác cách mạng không ngừng phát triển, liên tiếp tiến công,
thu hẹp trận địa của chủ nghĩa đế quốc, ngày càng làm khủng hoảng và suy
yếu trầm trọng chủ nghĩa đế quốc. Tuy vậy, với bản chất phản động và hiếu
chiến, chủ nghĩa đê quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn điên cuồng tấn
công phản kích lại phong trào cách mạng thế giới, lợi dụng sức mạnh kinh tế,
quân sự và sự suy yếu của các đế quốc khác, đế quốc Mỹ đã thực hiện chiến
lược “toàn cầu phản cách mạng” để thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới, tăng
cường lôi kéo các nước đế quốc, tạo liên minh quân sự, áp đặt với các nước
thuộc địa, phụ thuộc, can thiệp vào các nước đang đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, lăm le xâm lược các nước độc lập… Hành động này của chúng
đã gây ra cho lực lượng cách mạng thế giới không ít khó khăn. Trong sự phức
tạp đó, những kẻ cơ hội xét lại đã từng bước xuất đầu lộ diện, tìm cách đòi xét
lại chủ nghĩa Mác- Lênin trên nhiều khía cạch, trong đó có vấn đề chiến tranh
và hoà bình, vấn đề bạo lực cách mạng, vấn đề xây dựng CNXH… làm cho
phong trào cộng sản và công nhân thế giới gặp nhiều khó khăn trong việc tập
trung lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Những vấn đề này đã tác động rất
lớn tới cách mạng Việt Nam trên cả hai chiều hướng thuận lợi và khó khăn.
Ở Việt Nam, sau thất bại thảm hại trên chiến trường, buộc phải ký kết
hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp từng bước rút quân ra khỏi Việt Nam và rũ
bỏ trách nhiệm thực hiện tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam- Bắc Việt
Nam. Lợi dụng tình hình đó, thực hiện mưu đồ đã được tính toán từ trước, đế
quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành căn
cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của chúng, làm nơi thí nghiệm các phương
tiện chiến tranh và chiến lược chiến tranh mới, tạo bàn đạp tấn công Đông
Nam Á, châu Á và thế giới. Từ đây đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: Miền Bắc đã hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từng bước cải tạo kinh tế, văn hoá, xã
5
hội đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn nằm dưới ách đô hộ của
chủ nghĩa thực dân mới, đời sống nhân dân cơ cực lầm than.
Sau những năm thực hiện những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã
thu được nhiều thành tựu to lớn. Ở miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
mà trực tiếp là Đảng bộ miền Nam, cách mạng miền Nam từng bước vượt
qua khó khăn thử thách, đưa phong trào cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng
sang thế chiến lược tiến công. Tình hình cách mạng đòi hỏi phải không
ngừng tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu hoạch định đường lối
đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng, tiếp tục tư tưởng quan
điểm của hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954, tháng 6-1956, Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương 7 (3-1955), Hội nghị BCHTƯ 8 (8-1955). “Đề
cương cách mạng miền Nam” (1956), Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
9 (6-1956), hội nghị BCHTU 12 (3-1957), Hội nghị BCHTU13 (12-1957),
Hội nghị BCHTU14 (11-1958) và Hội nghị BCHTU 15 (1-1959), Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi kiểm
điểm, phân tích đánh giá đặc điểm tình hình đất nước, đã xác định: "Nhiệm
vụ cách mạng của nhân dân trong giai đoạn hịên nay là: Tăng cường đoàn
kết toàn dân kiên quyết đấu tranh giữ gìn hoà bình đẩy mạnh cách mạng
XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và
giầu mạnh thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và hoà bình ở Đông
Nam Á và thế giới"2.
ĐHĐBTQ lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam- BCHTU Đảng Lao động Việt Nam xuất bản
1960, tr.35.
2
6
Như vậy, đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong
tình hình mới, sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ
với sự phát triển của cách mạng thế giới, đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu
của cách mạng Việt Nam trong điều kiện bảo vệ hoà bình thế giới, thúc đẩy
tiến trình cách mạng thế giới phát triển.
Việc xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam và cách mạng
miền Bắc, thể hiện nhiêm vụ cách mạng của hai miền thuộc hai chiến lược
cách mạng khác nhau.Sự khác nhau này của cách mạng hai miền do đặc
điểm tính chất và mâu thuẫn của mỗi miền qui định.
Ở miền Bắc, đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, do
đó tính chất xã hội là dân chủ nhân dân, mâu thuẫn chủ yếu của miền Bắc
là mâu thuẫn "ai thắng ai" giữa hai con đường TBCN và XHCN. Do vậy,
nhiệm vụ của miền Bắc là sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ của chuyên chính vô sản để đưa miền Bắc lên CNXH.
Ở miền Nam, nhân dân ta còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ
và tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn thành, miền Nam
vẫn là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nhưng là thuộc địa kiểu mới, trong xã
hội nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản, đó là mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam
với đế quốc Mỹ tay sai và mâu thuẫn giữa nhân dân chủ yếu là nông dân với
địa chủ. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu là giữa nhân dân miền Nam với đế quốc
Mỹ và tay sai. Do vậy nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là đánh đế
quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, để tiến
tới thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam góp phần xây dựng nước Việt
Nam hoà bình độc lâp, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Sự khác nhau cơ bản giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền đã
không cho phép chúng ta nhập cách mạng ở hai miền là một, mà bắt buộc
phải thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau. Song quá trình vận
7
động giải quyết mâu thuẫn, nhiệm vụ, mục tiêu của mỗi miền đều tiến tới
nhằm giải quyết mâu thuẫn chung đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng, thực hiện nhiệm vụ chung
là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới mục tiêu thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sự khác nhau của hai chiến lược cách mạng đã tạo nên vị trí riêng
của mỗi chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vị trí quyết
định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước và đối với sự thống
nhất nước nhà bởi lẽ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Trong chiến
tranh, hậu phương luôn là nhân tố quyết định tới thắng lợi, mà hậu phương
vững chắc nhất là hậu phương XHCN. Ở miền Bắc nước ta lúc này đã giành
được độc lập, hoàn thành sự nghiệp cải tạo XHCN, đẩy mạnh phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, để tạo ra những nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật làm cho
miền Bắc mạnh lên về mọi mặt đủ sức bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở
miền Bắc, đồng thời chi viện đắc lực sức người sức của cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam. Việc xây dựng CNXH ở miền Bắc còn thể hiện bản chất
ưu việt của chế độ xã hội mới, thật sự là niềm cổ vũ động viên nhân dân miền
Nam kiên quyết chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi ách đô hộ của chủ
nghĩa đế quốc, đồng thời nó còn giữ định hướng cho cuộc đấu tranh của cách
mạng miền Nam trong hiện tại và trong tương lai của sự phát triển.
Trên thực tế, miền Bắc đã thật sự trở thành hậu phương lớn của cách
mạng miền Nam và của cả nước, tranh thủ điều kiện hoà bình, miền Bắc đã
không ngừng đẩy mạnh xây dựng đời sống mới, phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội, tạo ra khả năng lớn mạnh không ngừng chi viện một khối lượng
khổng lồ về sức người, sức của đáp ứng đầy đủ yêu cầu của chiến trường
miền Nam. Mỗi thắng lợi của cách mạng miền Nam không thể tách rời sự
8
đóng góp to lớn của cách mạng XHCN ở miền Bắc. Đánh giá về vai trò
miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng khảng định: "Không thể nào có thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nếu không có miền Bắc xã
hội chủ nghĩa suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm
vụ chiến lược"3. Điều này cho ta thấy vị trí, vai trò hết sức to lớn của cách
mạng XHCN ở miền Bắc trong sự nghiệp giải phóng miền Nam cũng như
sự nghiệp cách mạng giải phóng của cả nước, tạo nên mối quan hệ chặt chẽ
với cách mạng miền Nam, là cơ sở nguồn gốc sâu xa tạo nên thắng lợi của
chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Đến lượt nó, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ
vị trí quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Bàn về vấn đề này, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định: "Trong
mọi cuộc chiến tranh rút cục thắng lợi hay thất bại đều tuỳ thuộc vào tâm
trạng quần chúng đang đổ máu trên chiến trường"4. Lênin đã chỉ rất rõ vai
trò trực tiếp của tiền tuyến trong chiến tranh. Sự thắng lợi hay thất bại trên
chiến trường, phụ thuộc rất lớn vào khả năng nỗ lực của người trực tiếp
cầm súng chiến đấu, khẳng định vai trò chủ quan, độc lập, tự chủ, tự
cường, sự phát huy tính sáng tạo để vượt qua trở ngại của những người
chiến sỹ trên chiến trường. Cùng với ý nghĩa đó, ngay trong quá trình tìm
đường cứu nước, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định:"Muốn người ta
giúp cho phải hết sức tự mình làm lấy đã" tức là đem sức ta mà giải phóng
cho ta, không nên quá trông chờ, ỷ lại vào một sự giúp đỡ của các nước anh
em... Cách mạng miền Nam muốn thắng lợi, đất nước Việt Nam được toàn
3
4
ĐCSVN: Báo cáo chính trị của BCHTU Đảng tại ĐHĐB toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST,H 1977, tr.28.
Lênin toàn tập, tập 41, NxbTB, Mátxcơva 1978, tr.147.
9
vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, không có con đường nào khác là Đảng phải
lãnh đạo toàn dân đoàn kết, đồng lòng, triệu người như một, để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trước hết, Đảng lãnh đạo cách mạng
hai miền hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra. Nói như vậy không có
nghĩa là chúng ta tách cách mạng miền Nam ra khỏi cách mạng miền Bắc,
bỏ mặc miền Nam mà là để thấy rõ vị trí quan trọng của cách mạng miền
Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trên thực tế, cách mạng miền Nam lúc này là chiến trường chính, việc giải
phóng miền Nam trước hết phải là sự nỗ lực của chính nhân dân miền Nam với
sự chi viện đắc lực của miền Bắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc để
chiến thắng kẻ thù. Cách mạng miền Nam hoàn toàn có đầy đủ khả năng và
điều kiện làm điều đó, để đưa sự nghịêp giải phóng miền Nam đến thắng lợi.
Việc thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam không chỉ
nhằm mục tiêu giải phóng miền Nam, mà còn thực hiện kìm hãm đế quốc Mỹ
và tay sai trên chiến trường chính miền Nam, không cho chúng mở rộng chiến
tranh ra miền Bắc, ra khu vực để bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở miền
Bắc, tạo điều kiện hoà bình để miền Bắc đẩy mạnh sự nghịêp xây dựng CNXH
đạt kết quả cao hơn. Chính điều này đã tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa tiền
tuyến miền Nam và hậu phương miền Bắc. Như thế rõ ràng là hai chiến lược có
vị trí, vai trò riêng, nhưng không đứng độc lập, tách rời nhau mà có quan hệ
chặt chẽ, bền chặt mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, là cơ sở
tiền đề cho nhau trong sự phát triển chung tới thực hiện mục tiêu của cách
mạng. Thực chất đây là mối quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa độc
lập dân tộc và CNXH. Một mối quan hệ biện chứng không tách rời. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng này chính là thắng lợi của
việc xác định đúng đắn vị trí vai trò của từng chiến lược của cách mạng, tạo ra
sự nỗ lực phấn đấu của các nhân tố trong từng chiến lược, đồng thời là thắng lợi
10
của việc giải quyết chính xác quan hệ giữa hai chiến lược tạo nên sự đoàn kết
tác động hỗ trợ lẫn nhau, thống nhất thực hiện mục tiêu chung của cách mạng.
Sự thống nhất trong mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng còn
được tạo dựng một cách tự nhiên trên sự thống nhất cơ bản đó là: hai chiến
lược hoàn toàn khác nhau, nhưng lại được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất
của một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, và do một đội quân
Chính trị thực hiện, nhằm thực hiện mục tiêu chung: thống nhất nước nhà,
đưa cả nước đi lên CNXH.
Như vâỵ, rõ ràng việc xác định hai chiến lược cách mạng là do yêu
cầu đòi hỏi của lịch sử cách mạng, do thực tế cách mạng đặt ra. Nếu không
xác định như vậy, cách mạng Việt Nam không phát triển được, vì ở miền
Bắc lúc đó đã căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
thành quả này là sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân tộc ta, là thực
hiện nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đáp ứng nguyện
vọng của cả dân tộc là độc lập tự do và hạnh phúc, không những thế nó
còn đáp ứng xu thế phát triển của thời đại mới: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, được mở ra từ sau cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
Không có lý gì sau nhiều năm phấn đấu đầy hy sinh gian khổ, chúng ta chỉ
dừng lại ở điểm khởi đầu, càng không có lý gì, chúng ta đưa miền Bắc đi
theo con đường mà dân tộc đã từng phải đổ biết bao xương máu để loại bỏ
nó. Vì vậy, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền
Bắc đi lên CNXH hoàn toàn chính xác. Điều này được chủ nghĩa MácLênin chỉ rõ: "Từ cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ bắt đầu chuyển ngay và
chính là tuỳ theo lực lượng của chúng ta, lực lượng của giai cấp vô sản giác
ngộ và có tổ chức, mà chuyển ngay lên cách mạng XHCN, chúng ta chủ
11
trương làm cách mạng không ngừng, chúng ta quyết không dừng lại nửa
chừng"5.
Miền Bắc nước ta lúc này đã đáp ứng được những đòi hỏi của Lênin,
những điều kiện cho sự chuyển biến giai đoạn cách mạng cũng đã sãn sàng,
đó là: Có sự lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam, có chính quyền dân
chủ nhân dân sãn sàng làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, có liên minh
công nông vững chắc được xây dựng trong thực tế đấu tranh cách mạng
làm nòng cốt để đoàn kết toàn dân phát huy tinh thần cách mạng, năng
động, sáng tạo kiên quyết thực hiện sự nghiệp cách mạng cao cả là xây
dựng CNXH. Đồng thời với tính cách mạng triệt để, cách mạng XHCN ở
miền Bắc luôn nhận được sự đoàn kết giúp đỡ của các nước XHCN anh
em, và các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Việc thực hiện xây dựng CNXH
ở miền Bắc còn là điều kiện cơ sở bảo đảm và phát huy thành quả của 30
năm đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân miền Bắc nói riêng, cả dân tộc
ta nói chung, là việc trung thành và giải quyết thực hiện sáng tạo cương
lĩnh đầu tiên của Đảng trong điều kiện và hoàn cảnh mới.
Điều này hoàn toàn không trái với tính liên tục, tính giai đoạn trong
tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác- Lênin, mà là sự vận
dụng sáng tạo tư tưởng vĩ đại ấy trong hoàn cảnh mới: đất nước ta tạm thời
bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau. Không
chỉ là sự vận dụng trung thành sáng tạo, mà ở đây, Đảng ta đã góp một
phần rất lớn với những cống hiến sáng tạo làm phong phú thêm kho tàng lí
luận chủ nghĩa Mác- Lênin về tính liên tục cách mạng trong điều kiện cụ
thể: một nửa nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, một
nửa nước đang có chiến tranh. Đường lối cách mạng ấy là một nét sáng tạo
độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là thành công lớn của Đảng.
5
Lênin toàn tập, Tập 11, NxbTB, M1979, tr.281.
12
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cho miền Bắc vững
mạnh về mọi mặt, tạo điều kiện để miền Bắc trở thành hậu phương lớn, căn
cứ địa cách mạng của cả nước, tăng cường sức mạnh, thêm khả năng thuận
lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Xây dựng CNXH ở
miền Bắc, tăng cường lực lượng về mọi mặt, là đòi hỏi tất yếu khách quan
của cách mạng miền Bắc và của cách mạng cả nước. Trong quá trình xây
dựng và củng cố miền Bắc, Đảng ta một mặt phải giữ vững phương hướng
XHCN, mặt khác ra sức quan tâm đến tình hình miền Nam, giúp thêm điều
kiện để tập hợp các lực lượng yêu nước chống chế độ Mỹ- Diệm ở miền Nam
thành mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy liên minh công nông làm cơ sở,
bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành thắng lợi. Miền
Bắc càng tiến mạnh lên CNXH, lực lượng về mọi mặt càng được tăng cường
thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của
cách mạng cả nước, cho việc giữ gìn và củng cố hoà bình ở Đông Dương và
trên thế giới. Vì vậy, sau khi phân tích tình hình, dựa trên cơ sở khoa học, đại
hội III xác định đường lối chung của miền bắc trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là: "Đoàn kết toàn dân phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền
thống chiến đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân ta, đồng thời tăng
cường đoàn kết với các nước XHCN anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH xây dựng đời sống
ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng
cường phe XHCN bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới"6 .
Như thế, việc quyết định đưa miền Bắc đi lên CNXH là quyết định
đúng đắn sáng tạo của Đảng ta, được xác định trên cơ sở xem xét phân tích
đánh giá một cách khách quan khoa học tình hình mọi mặt của miền Bắc và
ĐHĐBTQ lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam- Văn kiện đại hội Tạp 1, BCHTU Đảng lao động
Việt Nam, xuất bản 1960, tr.179.
6
13
tình hình chung của cả nước cũng như tình hình thế giới, đặt cách mạng
XHCN ở miền Bắc trong mối quan hệ tổng thể cách mạng của cả nước và
trong việc giữ gìn hoà bình thế giới. Vấn đề này hoàn toàn không chịu ảnh
hưởng, không bị chi phối bởi cái gọi là "Thuyết noi gương" mà một số lực
lượng đã khuyên chúng ta rằng: "tập trung sức lực mọi mặt để xây dựng,
phát triển miền Bắc làm tấm gương cho miền Nam noi theo", bởi tư tưởng
này đã tách cách mạng miền Nam ra khỏi mối quan hệ với miền Bắc, tạo
nên sự độc lập tách rời giữa cách mạng hai miền. Điều này có thể do họ
còn hạn chế trong nhận thức, nhưng cũng rất có thể họ muốn kìm hãm sự
phát triển của cách mạng nước ta, muốn giữ nguyên trạng tình hình cách
mạng Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ để thực hiện mưu đồ chính trị cuả
họ.
Ngược lại với "thuyết noi gương"đó, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc
lên CNXH không chỉ là sự nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách
mạng và nhân dân miền Bắc, mà còn để thực hịên thoả mãn nhu cầu của cách
mạng miền Nam trong nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Trên thực tế, 15 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc trong điều kiện vừa
có hoà bình vừa phải chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và
tay sai, nhân dân miền Bắc đã anh dũng kiên cường với tinh thần "tay cầy tay
súng" "tay búa tay súng"...làm cho miền Bắc không ngừng mạnh lên về mọi
mặt, chi viện đắc lực, đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam. Vì thế mà Đại
hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: không thể có thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN là vì lẽ đó.
Ở miền Nam, lợi dụng sự suy yếu của thực dân Pháp và hành động
rũ bỏ trách nhiệm thực hiện hiệp thương hai miền Nam- Bắc Việt Nam của
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai đã thực hiện mưu đồ hất cảng Pháp,
14
xâm chiếm miền Nam Việt Nam, thành lập chính quyền độc tài phát xít,
không những nhằm phá hoại sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân
ta, mà còn nhằm áp bức bóc lột tàn sát nhân dân miền Nam, làm cho đời
sống nhân dân miền Nam hết sức cơ cực. Để bảo vệ quyền lợi thiết thân
của mình, nhân dân miền Nam không còn con đường nào khác ngoài con
đường đánh đổ chế độ độc tài Mỹ- Diệm, hoàn toàn giải phóng miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam tức là
giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại trong lòng xã hội miền Nam,
chỉ có giải quyết triệt để hai mâu thuẫn đang tồn tại thực tế ấy, nhân dân
miền Nam mới thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực, xã hội miền Nam mới có
thể phát triển tiến lên hoà hợp với xã hội miền Bắc thành một đơn vị thống
nhất. Đây là đòi hỏi thực tế của xã hội miền Nam và là nguyện vọng thiết
tha của nhân dân miền Nam và của nhân dân cả nước.
Việc thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
chính là việc tiếp tục quán triệt tư tưởng cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta,
nó phù hợp với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về tính liên tục, tính giai
đoạn của cách mạng và là việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Vì ở miền Nam lúc này chưa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, muốn xây dựng CNXH, muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc tất
yếu phải giành được độc lập dân tộc. Cho nên, việc tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân lúc này ở miền Nam là trực tiếp giải quyết
những yêu cầu của giai đoạn trong tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác Lênin, là thực hiện quá trình "đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản" và là quá trình đấu tranh để giai cấp công nhân "tự trở thành dân
15
tộc"...làm tiền đề cơ sở để bước vào giai đoạn thứ hai là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Quá trình tiến hành và phát triển của cách mạng miền Nam là quá
trình đoàn kết tổ chức và phát triển các lực lượng chống Mỹ Diệm để phá
tan âm mưu chuẩn bị chiến tranh của chúng, duy trì và củng cố hoà bình,
chống lại chính sách độc tài phát xít và chính sách bần cùng hoá nhân dân
của chúng, đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời
cũng là để chống ách nô dịch và âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta của
Mỹ Diệm đòi độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Đó là quá trình kết
hợp mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài của cách mạng, nhằm thực
hiện sứ mệnh thiêng liêng giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tạo điều kiện đưa cả nước lên
CNXH, thực hiện mục tiêu nhất quán của Đảng và nhân dân ta đã được xác
định từ hội nghị thành lập Đảng.
Việc xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam còn
được Đảng ta dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc những điều kiện đảm bảo
căn bản đó là: nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, đã cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN,
chuẩn bị những tiền đề để miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH,
đồng bào miền Nam có tinh thần yêu nước nồng nàn, có trình độ giác ngộ
cao, có truyền thống đấu tranh cách mạng bất khuất kiên cường, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, tinh thần cách mạng, lòng căm thù đế quốc xâm lược và bè lũ
tay sai ngày càng dâng cao. Lực lượng xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng
lớn mạnh , tạo ra cán cân so sánh lực lượng có lợi cho lực lượng cách mạng,
phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ, tấn công thu hẹp
16
trận địa và ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc... Những lợi thế này đã tạo ra
khả năng rất lớn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam của dân tộc ta.
Tuy nhiên cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam vẫn còn
không ít khó khăn do sự câu kết chặt chẽ giữa đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai với
âm mưu và thủ đoạn thâm độc tàn bạo, phản động điên cuồng chống phá sự
nghiêp giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh cách mạng
của nhân dân miền Nam là một quá trình lâu dài, gian khổ và phức tạp. Do
vậy tăng cường đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, trên cơ sở giáo dục,
giác ngộ các tầng lớp nhân dân, trước hết là công nhân, nông dân và tầng lớp
trí thức, phát huy cao độ tinh thần cách mạng của các lực lượng khác, tạo nên
sức mạnh tổng hợp, tập trung chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là đế quốc Mỹ
và tay sai, đập tan mọi âm mưu và các chiến lược chiến tranh của kẻ thù, kiên
quyết đưa cuộc chiến tranh chính nghĩa ở miền Nam tới thắng lợi. Vì vậy, Đại
hội III của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: "Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và phong kiến, thực hiện
độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh"7.
Để thực hiện thắng lợi được nhiệm vụ mà đại hội III đặt ra, trước
mắt Đảng ta phải kiên quyết lãnh đạo cho được: "Đoàn kết toàn dân kiên
quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập
đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập
một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập
dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững
hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ tích
cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới"8.
ĐHĐB toàn quốc lần thứ III của ĐLĐVN: VKĐH, tập 1, BCHTU Đảng lao động Việt Nam xuất bản
9-1960, tr. 176.
8
ĐHĐB toàn quốc lần thứ III của ĐLĐVN: VKĐH, tập 1, BCHTU Đảng lao động Việt Nam xuất bản
9-1960, tr. 177
7
17
Như vậy, việc xác định thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam của Đảng ta hoàn toàn được dựa trên cơ sở khoa học, được xem
xét phân tích khách quan, toàn diện, dựa trên tình hình cụ thể của cách mạng
miền Nam, tình hình cách mạng cả nước và tình hình thế giới. Nó hoàn toàn
phù hợp với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, về tính
giai đoạn, tính liên tục trong tư tưởng cách mạng không ngừng. Việc kiên
quyết giải phóng miền Nam trong chủ trương của Đảng ta hoàn toàn không
đồng nghĩa với tư tưởng: "Hãy để cho miền Bắc tự do phát triển, để tập trung
toàn bộ sức mạnh của dân tộc cho giải phóng miền Nam" của một số lực
lượng đã khuyên Đảng ta trong qúa trình hoạch định đường lối.
Ở đây trong chủ trương của Đảng ta kiên quyết giải phóng miền
Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam không
tách rời mà đặt trong mối quan hệ tổng thể với cách mạng cả nước, tạo nên
mối quan hệ biện chứng tác động hỗ trợ lẫn nhau với cách mạng XHCN ở
miền Bắc để thúc đẩy nhau cùng phát triển tiến tới thực hiện mục tiêu
chung là thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên CNXH. Do vậy trong khi
đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng miền Nam Đảng ta cũng không ngừng đẩy
mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Không những thế Đảng ta
còn chú ý giải quyết các mối quan hệ, xây dựng tiềm lực mọi mặt để tạo
khả năng sức mạnh kiềm chế và thắng Mỹ trên chiến trường chính miền
Nam, không cho Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc và khu
vực để bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tránh cái gọi là:"Đốm
lửa nhỏ gây cháy rừng" mà không ít người đã khuyên Đảng ta trong quá
trình quyết định thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam.
18
Thực tế quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam với thắng lợi vĩ đại mùa xuân 1975 đã chứng minh cho việc
nhận định tình hình và đường lối của Đảng ta là đúng đắn. Với thắng lợi ấy
đã cho thấy sự lớn mạnh và trưởng thành của Đảng ta trong lãnh đạo chỉ
đạo cách mạng. Đặc biệt là tinh thần dũng cảm vượt qua mọi khó khăn trở
ngại trên cơ sở nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng một
cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn để hoạch định đường lối một cách sát
đúng, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử đưa cách mạng không ngừng phát triển.
Trong khó khăn phức tạp, tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lực,
tự cường của Đảng ta được phát huy tới cao độ. Vì thế mà trong hoàn cảnh
phức tạp của cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng
ta đã đứng thẳng bằng chính khả năng sức lực của mình, của dân tộc mình,
vượt qua mọi sự khuyên can của các lực lượng khác nhau, với các ý đồ
khác nhau, để xây dựng nên một đường lối cách mạng khoa học có một
không hai trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế
giới. Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng
XHCN ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là kết quả
của một quá trình đấu tranh kiên cường bất khuất của Đảng ta, thể hiện bản
lĩnh chính trị vững vàng, sáng tạo trong nắm bắt tình hình, phân tích đánh
giá điều kiện khả năng mọi mặt của tình hình cách mạng trong nước và cách
mạng thế giới. Không những chỉ trung thành mà còn vận dụng một cách
sáng tạo không dập khuôn máy móc những tư tưởng quan điểm cơ bản cốt
lõi của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện thực tế đất nước, giải quyết
chính xác yêu cầu của lịch sử đặt ra, mang lại thành công to lớn cho cách
mạng.
19
Tính cách mạng, khoa học, sáng tạo của đường lối được thể hiện ở sự
kết hợp nhuần nhuyễn, tạo nên mối quan hệ tự nhiên bền chặt, tác động, hỗ
trợ lẫn nhau giữa hai chiến lược cách mạng; tạo nên sự phát triển đồng đều
của cả hai nhiệm vụ cách mạng, bởi lẽ: Hai chiến lược cách mạng khác nhau
được thực hiện ở hai miền đất nước có chế độ chính trị khác nhau nhưng lại
do một Đảng thống nhất lãnh đạo, một đội quân chính trị thực hịên trong cùng
một thời điểm trên một đất nước. Trên cả lý luận và thực tế chưa có tiền lệ.
Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề cập rất nhiều tới tính
liên tục, tính giai đoạn của cách mạng, song chưa chỉ ra cụ thể nếu cách
mạng mới chỉ giành thắng lợi ở một phần đất nước, trong cuộc cách mạng
dân chủ tư sản thì phải làm thế nào? ở đây Đảng ta đã nắm vững tư tưởng
chuyển biến cách mạng, từ cách mạng dân chủ tư sản nên cách mạng
XHCN không có điểm nghỉ ngơi, không có điểm dừng lại ở giữa chừng, mà
đó là một quá trình chuyển biến liên tục: Kết thúc giai đoạn một là sự mở
đầu giai đoạn hai, thực hiện giai đoạn hai là bảo vệ và phát triển thành quả
cách mạng của giai đoạn một, giữa hai giai đoạn không có bức tường thành
ngăn cách, trong tiến trình cách mạng vô sản mà chủ nghĩa Mác- Lênin đã
vạch ra để hoạch định đường lối một cách chính xác cho cách mạng Việt
Nam. Đó là đường lối xây dựng CNXH ở một nửa nước: miền Bắc và tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nửa còn lại: miền Nam.
Đường lối này không hề trái với lý luận chủ nghĩa Mác- lênin, mà là sự vận
dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể. Sự vận dụng sáng tạo này đã góp phần
bảo vệ sự trong sáng, tính cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin
trong hoàn cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại hiện đại đang xuất hiện và tìm
mọi cách đòi xét lại đi tới phủ nhận những giá trị đích thực của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Trong cuộc đấu tranh đó, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến
20
lược cách mạng của Đảng ta còn góp phần bổ sung phát triển làm phong phú
thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về tư tưởng cách mạng không
ngừng trong điều kịên cụ thể về chiến tranh và hoà bình, về vấn đề lên chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh...
Không chỉ về mặt lý luận, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng do đại hội III Đảng lao động Việt Nam xác định còn mở ra
khả năng mới, cống hiến những giá trị hiện thực, những kinh nghiệm quý
báu cho các Đảng cộng sản và phong trào công nhân thế giới trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, xây dựng xã hội mới, thực hiện tính triệt để cách mạng trong quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bởi lẽ: ở thời kỳ
đó, nhiều nước cũng ở điều kiện, hoàn cảnh tương tự như chúng ta, cũng bị
chia cắt thành hai miền đất nước, song vì lý do nào đó đã không xây dựng
được một đường lối phù hợp với điều kiện thực tế, đã dẫn đến một hệ quả
là đất nước bị chia cắt lâu dài, từ một quốc gia thống nhất đã trở thành hai
quốc gia riêng biệt với hai chế độ chính trị khác và xã hội khác nhau thậm
chí đối lập nhau, chẳng hạn như Đông Đức và Tây Đức, Nam và Bắc Triều
Tiên...
Như thế, rõ ràng là đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng của Đảng ta, đã thể hiện tính đúng đắn, độc lập tự chủ, sáng tạo, tự
lực, tự cường cao độ trong tiến trình đấu tranh cách mạng, trong hoạch định
đường lối cách mạng của Đảng ta. Nó thể hiện tính độc đáo sáng tạo có
một không hai trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó
xứng đáng là một cống hiến lớn lao trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng nhân loại và tiến bộ thế giới.
Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng không chỉ
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của lịch sử cách mạng Việt Nam, đáp ứng nguỵên
21
vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam mà nó còn thoả mãn đầy đủ các nhu
cầu, yếu tố thời đại. Không chỉ là sự vận dụng trung thành sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh mà nó còn góp phần bổ sung,
phất triển làm phong phú thêm những tư tưởng vĩ đaị ấy. Không chỉ nhằm
thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà còn góp phần
làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, đẩy lùi chiến tranh, bảo vệ hoà bình khu
vực và hoà bình thế giới, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng nhân loại và
tiến bộ xã hội, nên đã nhanh chóng đi vào đời sống lao động đấu tranh cách
mạng của nhân dân không chỉ ở Việt Nam mà cả loài người tiến bộ có
lương tri trên thế giới, vì thế đã quy tụ được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc tế tạo thành sức mạnh
tổng hợp chiến thắng kẻ thù, giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước, thu trọn vẹn giang sơn đất nước, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà đưa cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tiếp tục tư tưởng cách mạng không ngừng, tiếp tục sự nghiệp của
đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng sau thắng lợi vĩ đại
1975, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thống nhất tiến hành cách mạng
XHCN với hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công CNXH và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong những năm đầu thực hiện sự nghiệp cách mạng XHCN trên cả
nước, do những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau bên cạnh những
thành tựu đã đạt được góp phần tạo nền móng bước đầu, công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta đã gặp phải không ít khó khăn làm cho tình hình kinh tế, xã
hội lâm vào khủng hoảng sâu sắc và kéo dài trong nhiều năm, lòng tin của nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của nhà nước bị
giảm sút, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiến trình cách mạng của Đảng.
22
Trước thực trạng đó, Đảng ta đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu
nhằm tìm ra hướng đi đúng cho cách mạng. Nghiêm khắc kiểm điểm đánh
giá quá trình thực hiện, xây dựng CNXH hiện thực. Đảng ta đã chỉ ra
những nguyên nhân cơ bản của khó khăn khuyết điểm và khẳng định
khuynh hướng cơ bản của những sai lầm trước hết là sai lầm về chính sách
kinh tế là: "Bệnh chủ quan, duy ý trí, lối suy nghĩ hành động giản đơn,
nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh hướng buông lỏng
trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và
nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh vừa
"Hữu" khuynh"9 Nhưng sai lầm đó đã gây nên hoạc làm trầm trọng thêm
tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, không phát huy đầy đủ tính chủ
động sáng tạo của quần chúng, không tạo ra được động lực thúc đẩy sự
phát triển năng động của nền kinh tế xã hội.
Thực chất ở đây, chính là chúng ta đã vi phạm những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con
đường lên CNXH, chúng ta đã vận dụng, áp dụng máy móc thiếu cơ sở
khoa học những tư tưởng vĩ đại ấy và những mô hình cụ thể chưa phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh nước ta.
Những đòi hỏi từ thực tiễn đất nước cùng với những thay đổi to lớn của
tình hình thế giới cũng như thay đổi trong quan hệ giữa các nước do tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạnh khoa học công nghệ, nhất là trước những
khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã đòi
hỏi chúng ta cần phải đổi mới và nó trở thành vấn đề có ý nghĩa sống còn, cấp
bách với cách mạng nước ta, đồng thời phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Trong khó khăn phức tạp, bài học về độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lực,
tự cường lại trở lên sống động và được phát huy đến cao độ. Tiếp nối
9
ĐCSVN: Văn kiện đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H1987, tr.26.
23
những tư tưởng cách mạng và khoa học trong đường lối tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng cũng như chính quá trình đấu tranh hoạch định
đường lối đó, trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích sâu sắc tình hình trong nước
và thế giới, rút kinh nghiệm quá trình cải cách, cải tổ của các nước XHCN,
Đảng ta quyết định đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng chỉ rõ: "Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết
sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa,
nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy
truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động,
sáng tạo và khả năng vô tận của nhân dân lao động làm chủ tập thể để đồng
thời đẩy mạnh ba cuộc cách mạng xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc"10.
Với đường lối đúng đắn sáng tạo, sự nghiệp đổi mới đã đạt nhiều
thành tựu quan trọng, từ trong khủng hoảng kinh tế xã hội, đất nước đã
vượt qua thời kỳ đen tối, nền kinh tế có những chuyển biến quan trọng, đời
sống nhân dân ngày một nâng cao, tình hình kinh tế xã hội ổn định và có
nhiều khởi sắc mới tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo. Những
thành tựu ấy cho phép chúng ta khẳng định: "Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn"11
Tuy nhiên bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện chúng ta cũng còn
những khó khăn khuyết điểm, một số vấn đề mới nảy sinh chưa được giải
quyết kịp thời và triệt để cùng với những lệch lạc lớn kéo dài, dẫn tới chệch
hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, mức độ này hay mức độ khác, đã
gây ảnh hưởng lớn tới tiến trình phát triển của sự nghiệp đổi mới.
Từ những khó khăn khó có thể tránh khỏi trong sự nghiệp đổi mới và
những tác động tiêu cực do sự suy thoái tạm thời của CNXH trong quá
10
11
ĐCSVN: Văn kiện đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H1987, tr7-8
ĐCSVN: Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H1996, tr. 68.
24
trình xây dựng và thực hiện, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội xét lại
được dịp vùng dậy đòi xem xét lại những giá trị hiện thực của chủ nghĩa
Mác- Lênin, về chủ nghĩa xã hội. Với nước ta chúng tìm mọi cách để xuyên
tạc chủ trương chính sách, đường lối của Đảng, phủ nhận những thành tựu
cách mạng mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong
đó có đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng. Dựa vào sự
sát nhập giữa cộng hoà dân chủ Đức và cộng hoà liên bang Đức, và những
tiến triển trong quan hệ ngoại giữa Nam Bắc Triều Tiên... họ lớn tiếng phê
phán rằng: Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng do đại
hội III đề ra là sai lầm nên đã làm cho cả dân tộc phải tốn kém tiền của và
công sức, phải chịu nhiều hy sinh gian khổ và mất mát mà hậu qủa của nó
tới ngày nay vẫn chưa khắc phục hết. Họ cho rằng, vì lựa chọn con đường
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà đất nước ta đã phải tổn thất
quá nhiều xương máu và của cải trong hai cuộc chiến tranh giải phóng. Họ
lập luận rằng, không tiến hành chiến tranh, không phải đổ máu, chúng ta
cũng có thể giành được độc lập như Ấn Độ, hoặc họ cho rằng xu thế của
thời đại sẽ không cho một dân tộc này cai trị một dân tộc khác, chúng ta sẽ
được “trao trả” độc lập. Dù họ không hiểu hay cố tình phủ nhận lịch sử với
mục đích chính trị đen tối thì cũng là sự xúc phạm tới sự hy sinh cao cả của
hàng triệu người con đất Việt đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Đắng cay hơn, những quan điểm này còn là sự phủ nhận cả truyền thống
văn hoá giữ nước đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc
ta, truyền thống đó được nâng lên một tầm cao mới ở thời đại Hồ Chí Minh
là: “Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Trên thực tế, sự hy sinh xương máu không thể tính
bằng tiền của hơn 1 triệu 100 nghìn liệt sĩ, 600 nghìn thương binh trong
cuộc chiến tranh giải phóng ấy đã góp phần quan trọng làm sụp đổ cả chủ
25
nghĩa thực dân mới lẫn chủ nghĩa thực dân mới, đã cổ vũ và góp phần quan
trọng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đó là điều mà không
ai, không bao giờ có thể phủ nhận được. Theo họ lúc bấy giờ ta cứ giữ
nguyên hiện trạng tình hình đất nước, cứ để hai miền phát triển theo xu
hướng khác nhau như thực tế lúc đó, tập trung sức lực xây dựng kinh tế
miền Bắc lớn mạnh hẳn lên để thực hiện sát nhập như Đông Đức và Tây
Đức, hoặc từng bước bình thường hoá như hai miền Nam - Bắc Triều Tiên
thì dân tộc đỡ phải hy sinh gian khổ, đỡ phải đổ máu trong cuộc chiến tranh
kéo dài hơn hai mươi năm...
Hãy quay trở lại thực tế xã hội Việt Nam gần nửa thế kỷ qua, bắt
đầu từ khi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thực hiện hất cẳng Pháp, phá bỏ hiệp
định Giơnevơ, độc chiếm miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự, thành nơi thí nghiệm phương tiện, chiến lược chiến tranh mới,
thực hiện mưu đồ dùng miền Nam làm bàn đạp để mở rộng chiến tranh ra
khu vực và thế giới, phục vụ cho mưu đồ bá chủ thế giới thì sẽ thấy hết sự
tàn bạo, man dợ và thâm độc của chúng tới mức nào. Trước khi có đường
lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, nhân dân cả nước ta đã
bằng mọi cố gắng, nghiêm chỉnh chấp hành hiệp định Giơnevơ để thống
nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã cố tình phá hoại, đáp
lại thiện trí của dân tộc ta bằng hành động vũ trang xâm lược, chúng tuyên
bố “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh”, trắng trợn “đặt cộng sản
ra khỏi vòng pháp luật”, ban hành luật 10-59, lê máy chém khắp miền Nam
tàn sát đồng bào ta, công khai tiến hành cuộc chiến tranh chống lại nhân
dân ta, gây nên bao đau thương tang tóc với mục tiêu mà chúng đặt ra "giết
nhầm còn hơn bỏ sót". Hành động dã man của Mỹ Diệm đã buộc Đảng ta,
dân tộc ta không còn con đường lựa chọn nào khác ngoài con đường tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân quyết tâm đánh thắng đế quốc