Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN TINH THẦN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG lối đổi mới (1979 1985)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.36 KB, 24 trang )

Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
hoạch định đường lối đổi mới (1979 - 1986)
1. Quá trình hình thành đường lối đổi mới (1979 - 1985)
1. 1. Tình hình thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu đổi mới đất nước
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, cách mạng
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc. Song, tình hình kinh tế - xã hội trong nước còn rất
nhiều khó khăn. Vào cuối năm 1979 đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Yêu cầu bức thiết là đưa đất nước ra khỏi tình trạng trên, ổn
định đời sống nhân dân. Trong khi đó, tình hình thế giới có nhiều biến động
phức tạp ảnh hưởng đến cách mạng nước ta (sự phát triển của cách mạng khoa
học - công nghệ; sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản; xu thế chung
của các nước xã hội chủ nghĩa là cải tổ, cải cách đổi mới). Trong điều kiện tình
hình trong nước và thế giới có nhiều biến động như vậy, đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta phải suy nghĩ, tìm tòi con đường đổi mới để tháo gỡ khó khăn, đưa đất
nước đi lên. Từ những tìm tòi, sáng tạo ở địa phương, cơ sở, Đảng đã đề ra chủ
trương có tính chất đổi mới từng phần. Những đổi mới này có vị trí rất quan
trọng đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
1. 2. Quá trình tìm tòi đường lối đổi mới và tiến hành đổi mới từng
phần của Đảng
Tháng 8/1979 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá IV,
đã họp ra Nghị quyết bàn về những vấn đề cấp bách của tình hình kinh tế - xã
hội đất nước. Đây là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi, cải tiến quản
lý kinh tế, thử nghiệm cách làm ăn mới. Hội nghị đã có những đổi mới tư duy
quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ bản về cơ chế quản lý kinh tế, về
những chính sách phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu, trước hết là sản xuất nông nghiệp.


2
Hội nghị cũng xác định rõ phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh và tập thể, kể cả kinh tế tư bản tư nhân để phát triển sản xuất, kết


hợp ba lợi ích: tập thể, cá nhân, xã hội.
Tư tưởng nổi bật của Nghị quyết này là: “làm cho sản xuất bung ra”,
nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản
xuất. Nghị quyết ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu đã
xuất hiện những điển hình về cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực.
Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 còn có những hạn chế, những
giải pháp mà Hội nghị nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời
gian thực hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: Sản xuất bung ra nhưng
không đúng hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao.
Tháng (12/1980) Hội nghị lần thứ 9 (khoá IV), bàn về phương hướng,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị nhận định: Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 6 khoá IV (8/1979) và một số nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã bước đầu tạo ra khí thế mới cho nền kinh tế quốc dân. Tuy
nhiên, những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội chậm được
sửa chữa. Hội nghị chủ trương chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản
phẩm trong nông nghiệp, mở rộng việc trả lương theo sản phẩm khoán.
Rút kinh nghiệm qua khoán thí điểm cây lúa trong các hợp tác xã nông
nghiệp, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT - TW về khoán sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp.
Chỉ thị này đã tạo được động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, củng cố tăng cường quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, tạo ra hiệu quả kinh tế lớn trong nông
nghiệp, tăng thu nhập cho xã viên. Tốc độ tăng bình quân trong nông nghiệp
thời kỳ (1976 - 1980) là 1,9%; thời kỳ (1981 - 1985) là 4,9%. Thực hiện Chỉ


3
thị 100 nông nghiệp có bước phát triển tốt trong thời gian đầu, sau đó dần

chững lại, do vẫn còn có những hạn chế, bất cập.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé
rào” và làm thí điểm nhằm phát triển công nghiệp, nhất là ở thành phố Hồ Chí
Minh và Long An, ngày 21/01/1981 Chính phủ đã ban hành Quyết định
25/CP về quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài
chính của các xí nghiệp quốc doanh. Cùng ngày 21/01/1981 Hội đồng Chính
phủ ban hành Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương, chính sách nêu trên giúp các cơ
sở tự giải quyết một phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước.
Năm 1981, lần đầu tiên sau chiến tranh sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch,
riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Trên mặt trận phân phối, lưu thông, ngày 23/6/1980 Bộ Chính trị ra
Nghị quyết 26/NQ - TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết
nhấn mạnh nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông; tạo
tiền đề cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh vực kinh tế xã hội, Đảng còn quan tâm kiện toàn bộ máy Nhà nước và tăng cường công
tác xây dựng Đảng.
Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, so với Đại hội IV,
Đại hội V diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có một số mặt thuận
lợi, nhưng cũng có nhiều khó khăn, phức tạp hơn.
Đầu những năm 80 của thế kỷ XX cách mạng thế giới tiếp tục phát triển,
sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các lực lượng cách mạng tiến bộ
trên thế giới tạo cho ta điều kiện thuận lợi. Đất nước ta trải qua 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội IV đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tạo thêm thế và lực mới cho cách mạng Việt
Nam. Tuy nhiên, đất nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chủ


4

nghĩa đế quốc và các thế lực đang ra sức chống phá cách mạng nước ta. Đế quốc
Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây, cấm vận và thực hiện “kế hoạch hậu
chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền,
xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia,
gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong khi đó tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.
Công tác chuẩn bị Đại hội được xúc tiến sau Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 9 (khoá IV) và được hoàn tất ở Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 12 đầu tháng 3 năm 1982.
Trong bối cảnh trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V được diễn ra
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15/3 đến ngày 31/3/1982. Đại hội đã thảo luận
thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục
tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm (1981 - 1985), Báo cáo về xây
dựng Đảng và bổ sung Điều lệ Đảng, Bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá
V.
Đại hội đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV: Kiểm điểm một
cách toàn diện sự lãnh đạo của Đảng, đánh giá những thành tựu và khuyết điểm sai
lầm, phân tích nguyên nhân của những thắng lợi và khó khăn của đất nước.
Đại hội xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là:
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội
IV đề ra và cụ thể hoá một bước đường lối đó trong chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại, nhiệm vụ nâng cao sức
chiến đấu của Đảng. Về công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ then chốt lúc này
là: tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây



5
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn
luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng thực sự trong sạch,
vững mạnh, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã có những bước phát
triển nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thành công của Đại hội đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong
việc thực hiện vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả
nước, về năng lực cụ thể hoá đường lối, tiếp tục sự tìm tòi tổng kết thực tiễn
để xác định bước đi, giải pháp phù hợp đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
- Bước phát triển mới của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ thực trạng đất nước vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh
phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, đồng thời sẵn sàng đối phó với tình huống địch
có thể gây chiến tranh xâm lược với quy mô lớn.
Đại hội V xác định cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược đó
là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội V xác định là sự kế thừa và phát
triển quan điểm của Đại hội IV về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở đánh giá đúng những chuyển biến của tình
hình trong nước và thế giới.
Hai nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội V xác định phản ánh quy luật
dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta trong thời đại mới, phù hợp với
quy luật phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xây dựng chủ nghĩa xã
hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Phải xây dựng
chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về

mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến


6
tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, phải bảo vệ
vững chắc Tổ quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
Mỗi nhiệm vụ chiến lược có vị trí riêng: “Trong khi không một phút lơi
lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta
phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội” 1. Bởi vì, chủ
nghĩa xã hội không những là mục đích toàn bộ sự nghiệp của chúng ta, mà
còn vì chủ nghĩa xã hội, sự vững mạnh của xã hội chủ nghĩa là bảo đảm cho
đọc lập tự do của Tổ quốc. Đó cũng chính là sự vận dụng lý luận Mác - Lênin
về chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản vào điều kiện thực tiễn nước
ta.
Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đại hội V khẳng định tiếp
tục thực hiện đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây
dựng nền kinh tế do Đại hội IV của Đảng vạch ra. Trong đó Đại hội V nhấn
mạnh ba vấn đề cần đặc biệt chú ý là: nắm vững chuyên chính vô sản, xây
dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa. Đây chính là ba vấn đề cốt lõi của cách mạng xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Đại hội V nêu lên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, trước mắt
nước ta đang ở chặng đường đầu tiên, đồng thời chỉ ra nội dung kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội của chặng đường đầu. Đây chính là sự nhận thức và vận
dụng đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ và sự
phân kỳ thời kỳ quá độ vào điều kiện thực tiễn nước ta. Đại hội xác định:
Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm (1981 - 1985) và kéo dài đến
những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt”2.

Việc khẳng định trên thực tế cách mạng nước ta đang ở chỗ nào trên
con đường tiến lên có ý nghĩa quyết định việc tìm ra và nắm vững quy luật
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb ST, H, 1982, tr. 47.
Sđd, tr. 49.


7
khách quan, là cơ sở để cụ thể hoá đường lối, xác định chủ trương, chính sách
phù hợp với thực tiễn cách mạng, chống chủ quan, nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn. Đại hội V chỉ rõ: “kinh nghiệm của 5 năm (1976 - 1980) cho thấy phải
cụ thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vạch ra
chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa”3.
Đảng ta sớm nhận thức đúng đắn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nội
dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên
là: “tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lớn lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra
sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành
công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu
dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý”4.
Nội dung đó phản ánh đúng nội dung bước đi của công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn nước ta, là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ
chủ yếu của chặng đường đầu tiên là tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Tuy
nhiên, Đảng đã mắc phải sai lầm, nóng vội, đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội

chủ nghĩa khi chưa đủ các tiền đề cần thiết.
Về chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội V xác định trong một
thời gian nhất định ở miền Nam còn tồn tại 5 thành phần kinh tế (quốc doanh,
tập thể, công tư hợp danh, cá thể và tư bản kinh doanh).
Với những nội dung trên Đại hội V có bước tiến mới về đổi mới tư duy
trong việc tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Đại hội còn có
những hạn chế: Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan
3
4

Sđd, tr. 53.
Sđd, tr. 62 - 63.


8
điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông
phân phối vẫn là một chiều theo kế hoạch Nhà nước quyết định, Đại hội coi
phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nhưng chưa có những chính sách,
giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp.
- Sự bổ sung, phát triển tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã hội sau Đại hội
V.
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, các Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá V đã tiếp tục cụ thể hoá, phát triển quan điểm của Đại
hội về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương khoá V (12/1982) bàn về phương hướng phát triển
kinh tế, xã hội 3 năm (1983 - 1985). Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (6/1983)
bàn về những vấn đề cấp bách về tư tưởng, tổ chức bảo đảm thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ 5 (12/1983) bàn về nhiệm vụ phát triển

kinh tế 2 năm (1984 - 1985). Hội nghị lần thứ 6 (7/1984) tập trung bàn về
những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản lý kinh tế (xoá bỏ cơ
chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa; mở rộng quyền chủ động sản xuất kinh doanh ở
cơ sở). Hội nghị chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về
phân phối lưu thông, đặc biệt lĩnh vực lương, tiền phục vụ cơ sở: đẩy mạnh
thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; thực hiện điều
chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị lần thứ 7
(12/1984) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1985. Hội nghị lần thứ 8 (6/1985)
bàn về vấn đề giá, lương, tiền. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, khâu đột phá có tính quyết định là xoá bỏ bao cấp trong giá và
lương, đây là bước đột phá thứ hai trong quá trình tìm tòi, đổi mới con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hội nghị này đánh dấu sự đổi mới tư duy một
cách căn bản trên lĩnh vực phân phối lưu thông của Đảng. Tinh thần cơ bản là


9
thừa nhận sản xuất hàng hoá, coi trọng thị trường. Sau Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 (14/09/1985) Chính phủ tiến hành cuộc tổng điều chỉnh giá, lương,
tiền lần thứ hai, bắt đầu từ việc đổi tiền, ban hành một số giá mới và lương
mới, xoá bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo
cho người hưởng lương. Chủ trương đổi tiền nhằm tăng khả năng chi trả của
Ngân hàng bảo đảm yêu cầu đủ tiền cho tăng lương, tăng giá.
Đánh giá về cuộc cải cách giá, lương, tiền lần hai các Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (12/1985) và lần thứ 10 (05/1986) đều cho
rằng: Việc khẳng định một lần nữa sự đúng đắn của chủ trương bù giá, thực
hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của nền
sản xuất hàng hoá, nhưng vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong
tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt là một sai lầm. Hậu quả lớn nhất

của cuộc cải cách giá lương tiền lần này đã dẫn đến tình trạng lạm phát “phi
mã” trong 3 năm (1986 - 1988), tỷ lệ lạm phát hàng năm lên tới ba con số. Vì
vậy, Nhà nước đã phải lùi lại một bước, thực hiện chính sách hai giá năm 1985.
Hội nghị lần thứ 9 (12/1985) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1986, nhận
định: Sau các Nghị quyết sáu, bảy, tám của Ban Chấp hành Trung ương nền kinh
tế đạt được một số tiền bộ. Song, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó
khăn gay gắt. Nguyên nhân sâu xa là do nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa rõ. Hội nghị lần thứ 10 (5/1986) đã phân tích
những khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá, lương, tiền, khẳng
định quyết tâm chiến lược xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội V,
tham khảo ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và các chuyên gia trong quá
trình chuẩn bị dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI, Hội nghị Bộ Chính
trị (8/1986) đã kết luận ba vấn đề lớn về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đó là: Về cơ cấu kinh tế, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và về cơ chế


10
quản lý kinh tế. Hội nghị đã phê phán những sai lầm, khuyết điểm về ba vấn
đề đó, đồng thời nêu lên những nội dung mới quan trọng.
Về cơ cấu kinh tế: Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn trên cơ sở bố trí
lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ, xác định cải tạo xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ, với hình thức và
bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
Về cơ cấu quản lý kinh tế: Hội nghị khẳng định xoá bỏ cơ chế quản lý

tập trung quan liêu bao cấp, đồng thời nêu lên nội dung chủ yếu của cơ chế
quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Những kết luận trên đây của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn
chỉnh dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI, là căn cứ để giải quyết
những vấn đề cấp bách trước mắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tiếp theo những đổi mới từng phần ban đầu thời kỳ (1979 - 1981), thời kỳ
(1981 - 1985) là thời kỳ tiếp tục đổi mới từng phần nhưng toàn diện hơn, không
dừng lại ở đổi mới kinh tế mà còn đổi mới tư duy lý luận, tuy nhiên vẫn chủ yếu là
đổi mới kinh tế. Đó là quá trình tìm tòi con đường thích hợp lên chủ nghĩa xã hội.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
* Khái quát bối cảnh lịch sử
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Thủ
đô Hà Nội từ (15 đến 18/12/1986). Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình
thế giới và trong nước có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp.
- Tình hình thế giới: Chủ nghĩa xã hội thế giới hơn 70 năm qua đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt, song cũng đang đứng trước nhiều


11
thách thức to lớn. Nhiều nước đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách và đổi
mới nhằm khắc phục sự trì trệ của chủ nghĩa xã hội, đưa chủ nghĩa xã hội vào
giai đoạn phát triển mới.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển nhanh đã tạo
ra bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất đẩy nhanh quá trình quốc
tế hoá sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Xu thế chung trên thế giới là đấu
tranh và hợp tác cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị khác
nhau và đòi hỏi các quốc gia dân tộc phải tiến hành cải cách thể chế, cơ cấu
kinh tế và điều chỉnh chiến lược.

Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
ngày càng quyết liệt. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi, những
mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản không mất đi, chủ nghĩa tư bản vẫn
còn khả năng phát triển nằm trong tay những lực lượng kinh tế, quân sự
mạnh. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn ra sức thực hiện mục
tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phản kích các lực lượng cách mạng và hoà bình
thế giới bằng những âm mưu và thủ đoạn thâm độc.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang diễn ra những biến đổi quan
trọng. Các lực lượng cách mạng hoà bình tiếp tục lớn mạnh. Nền kinh tế khu
vực tiếp tục phát triển với nhịp độ nhanh, song vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhân tố
gây mất ổn định.
- Tình hình trong nước: sau 10 năm (1975 - 1985) cả nước bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã giành
được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Song, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khoá khăn
gay gắt, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta có nhiều
ưu điểm trong việc xác định đường lối và chỉ đạo thực hiện, song cũng đã bộc
lộ nhiều khuyết điểm, nhược điểm lớn trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện (bệnh chủ quan, duy ý chí, lạc hậu trong nhận thức lý luận và vận dụng


12
các quy luật hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Sự lãnh đạo
của Đảng chưa ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ tiếp tục thực hiện chính
sách bao vây, cấm vận và dùng sức ép buộc các nước khác khống chế Việt
Nam. Đồng thời, nhân dân ta cũng phải đương đầu với những âm mưu, hành
động của các thế lực phản động xâm phạm chủ quyền dân tộc, an ninh quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Diễn biến của Đại hội VI
Trên cơ sở đánh giá nêu bật những thành tựu quan trọng trong 5 năm
(1981 - 1985), nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm sai lầm còn mắc phải.
Đồng thời, chỉ ra nguồn gốc những sai lầm, khuyết điểm đó. Đại hội rút ra
bốn bài học kinh nghiệm lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của
Đảng từ đó về sau.
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc” chăm lo xây dựng phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động
theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trọng
điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương còn xác định rõ quan
điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới, xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát,
nhiệm vụ cụ thể và hệ thống các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.
Đại hội thông qua phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã
hội 5 năm (1986 - 1990).
* Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới.
- Quan điểm chỉ đạo.


13
Đổi mới là tất yếu khách quan, là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng nước ta, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, đối với cách
mạng Việt Nam. Chỉ có đổi mới Đảng ta mới thấy hết được những nhân tố
mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa, nhằm vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh nước ta, phát huy
truyền thống dân tộc động viên tính năng động sáng tạo của nhân dân ta trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cũng là đặc
tính của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là bản chất sâu xa của chủ nghĩa Mác Lênin, là xu thế tất yếu của thời đại.
Đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, đổi mới phải biết kế thừa
thành tựu, kết quả thu được trong quá khứ “đổi mới tư duy không có nghĩa là
phủ định những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ
biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã
được xác định, trái lại chính là sự bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”5.
Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội nhưng phải có hình thức, bước đi và cách làm phù hợp.
- Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, trong nước Đại hội đề xướng
chủ trương đổi mới đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
ở nước ta với những nội dung cơ bản sau: Đại hội xác định nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là
ổn định mọi mặt kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo.
Ổn định kinh tế xã hội bao gồm: ổn định sản xuất, ổn định phân phối
lưu thông, ổn định đời sống vật chất và văn hoá, tăng cường hiệu lực của tổ
chức quản lý, lập lại trật tự, kỷ cương và thực hiện công bằng xã hội.

5

Sđd, tr. 125.


14
Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến
lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được, song phát triển
phải đúng hướng.

Trên cơ sở nhiệm vụ bao trùm mục tiêu tổng quát, Đại hội đề ra 5 mục
tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ. Mục tiêu này gắn ổn định và cải
thiện đời sống của nhân dân với sản xuất và tích lũy. Sản xuất đủ tiều dùng
trong những năm trước mắt là hướng mọi cố gắng vào việc đáp ứng những
nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã hội dần dần ổn định và tiến lên cải thiện
một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đi đôi với bảo đảm yêu
cầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để đủ sức tiếp nhận và đưa vào
tái sản xuất mở rộng vốn vay và viện trợ của nước ngoài.
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng để phát triển sản xuất. Trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phải phù
hợp với tính quy luật về phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với
khả năng đất nước, với sự phân công lao động hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế
đó phải đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn
định, hướng vào việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tạo ra chuyển biến tốt về mọi mặt và bảo đảm nhu cầu củng cố quốc
phòng và an ninh.
Những mục tiêu trên là một tổng thể gắn bó chặt chẽ với nhau, bao quát
mọi lĩnh vực từ sản xuất đến phân phối lưu thông, từ lực lượng sản xuất đến
quan hệ sản xuất, từ kinh tế đời sống đến quốc phòng an ninh. Những mục tiêu
đó phù hợp quy luật đi lên trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên


15
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, những mục tiêu đó xuất phát từ đường

lối, chủ trương của Đảng, từ thực trạng nền kinh tế - xã hội nước ta, thực hiện
thắng lợi những mục tiêu trên là mốc đánh dấu kết thúc chặng đường đầu tiên
của thời kỳ đó và tạo ra những tiền đề cần thiết chuyển sang chặng đường tiếp
theo.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nói trên, Đại hội đã đề ra hệ thống
các giải pháp: về bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng,
củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát huy mạnh mẽ động lực khoa học
kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trong đó, Đại hội
nhấn mạnh, trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên trước mắt là
kế hoạch 5 năm (1986 - 2000) phải tập trung sức người, sức của thực hiện cho
được chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu để đến khi kết thúc chặng đường đầu tiên đạt được kết quả là:
Về lương thực - thực phẩm: bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội
và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm, bảo
đảm tái sản xuất sức lao động.
Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng nhu cầu bình thường của nhân dân
thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu.
Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đạt
kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy
móc, phụ tùng và những hàng hoá cần thiết.
Ba chương trình mục tiêu trên là cụ thể hoá nội dung chính của công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ
đã được Đại hội V của Đảng xác định.
Đại hội VI của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ của chính sách
xã hội; nhiệm vụ chính sách đối ngoại; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước; nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới. Trong đó, Đại hội nhấn



16
mạnh phải xây dựng Đảng thực sự ngang tầm với một Đảng cầm quyền, có
trọng trách lãnh đạo toàn xã hội thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng ngang tầm nhiệm vụ giai đoạn mới, Đại
hội chủ trương đổi mới công tác xây dựng Đảng gồm những nội dung sau:
Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của người cán bộ, đảng
viên.
Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý.
Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
trong Đảng.
Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng xác định, đó là
đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để. Đường lối đó là sản phẩm
của ý Đảng lòng dân, được Đảng ta tìm tòi, tổng kết thông qua các phong trào
cách mạng của quần chúng, dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Do đó, đường lối đổi mới sớm được thực hiện hoá, mang lại kết
quả trong cuộc sống, mở ra bước ngoặt phát triển mới của cách mạng Việt
Nam.
3. Giá trị lịch sử và hiện thực.
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội V và 10 năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã chỉ
ra những thành tựu, những khó khăn về kinh tế, xã hội, phân tích nguyên nhân
của nó và rút ra những bài học kinh nghiệm quý.
Đổi mới từng phần trong những năm từ (1979 - 1981) là những chủ
trương, giải pháp mang tính tình thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước



17
mắt, quá trình tổ chức thực hiện đã đưa lại nhiều kết quả lớn, cung cấp cho
Đảng ta những luận cứ quan trọng, phương pháp tiếp cận mới và hiệu quả hơn
về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đổi mới từng phần, từng lĩnh vực tuy có mang lại một số kết quả,
nhưng không vững chắc, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi, đổi mới ngày
càng toàn diện, đồng bộ hơn.
Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta đã nỗ lực phân đấu, khắc phục khó khăn, trở
ngại và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã ngăn chặn được đà
giảm sút của những năm (1976 - 1980), từ năm 1981 đã đạt được nhiều tiến
bộ rõ rệt. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% hàng năm
của thời kỳ (1976 - 1980) là 13,4 triệu tấn đã tăng lên 17 triệu tấn bình quân
hàng năm thời kỳ (1981 - 1985). Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng
năm 9,5% so với 0,6% hàng năm trong thời kỳ (1976 - 1980). Thu nhập quốc
dân tăng bình quân hàng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.
Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trong 5 năm (1981 - 1985) đã
hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa
và nhỏ. Trong đó, có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ
khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thông… Về năng lực sản xuất, tăng thêm
456.000KW điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33 nghìn tấn sợi,
58 nghìn tấn giấy; thêm 309 nghìn héc ta được tưới nước, 186 nghìn héc ta
được tiêu úng, 241 nghìn héc ta được khai hoang đưa vào sử dụng; dầu mỏ
bắt đầu được khai thác. Các công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An được xây
dựng chuẩn bị đưa vào hoạt động trong những năm tới.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tiến thêm một bước. Đại bộ phận
nông dân Nam Bộ đi vào con đường sản xuất tập thể, đồng bào các dân tộc ở

Tây Nguyên có tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Cùng với
việc áp dụng những thành tựu về khoa học, kỹ thuật, việc thực hiện chính


18
sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp, tuy chưa hoàn thiện nhưng đã góp
phần quan trọng tạo nên bước phát triển của sản xuất nông nghiệp, mở ra
phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế tập thể ở nông
thôn.
Nhà nước và nhân dân ta cố gắng chăm lo bảo đảm các nhu cầu của
quốc phòng an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội.
Tình hình đời sống, văn hoá, xã hội có chuyển biến tích cực. Sự nghiệp
văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, văn học, nghệ thuật phát triển và có
những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hoá mới, con người
mới.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa
vụ quốc tế của quân và dân ta đã giành thêm những thắng lợi to lớn.
Sau khi đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phái Tây
Nam và biên giới phía Bắc, chúng ta đã làm thất bại thêm một bước quan
trọng âm mưu của bọn bá quyền chống nước ta, củng cố hơn nữa khả năng
quốc phòng của đất nước. Chúng ta đã tăng cường thế phòng thủ ở biên giới
phía Bắc, chiến đấu ngăn chặn địch lấn chiếm có hiệu quả. Đã làm thất bại
một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Việc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân đạt kết quả đáng kể trên một số mặt: củng cố thế trận chiến
tranh nhân dân, củng cố cơ sở chính trị ở những địa bàn xung yếu, xây dựng
lực lượng vũ trang có tiến bộ.
Quân và dân ta tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và
Campuchia, củng cố liên minh chiến lược Việt Nam - Lào - Campuchia, tăng
cường thế và lực cách mạng của cả ba nước trên bán đảo Đông Dương.
Những thành tựu trên bắt nguồn từ đường lối chung và đường lối kinh

tế được xác định ở Đại hội IV và Đại hội V, gắn liền với chính sách đối nội,
đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Những thành tựu ấy làm nổi bật tinh thần lao động cần cù, chiến đấu
dũng cảm của quân và dân ta.


19
Những thành tựu ấy không tách rời sự giúp đỡ và ủng hộ quý báu của
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước bầu bạn và nhiều tổ chức quốc
tế, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, sự hợp tác và tình đoàn kết chiến
đấu của quân và dân hai nước Lào và Campuchia.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V và 10 năm đầu cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều khó
khăn gay gắt.
Sản xuất tăng chậm: hiệu qua sản xuất và đầu tư thấp, các xí nghiệp nói
chung chỉ sử dụng được khoảng 50% công suất thiết kế; tài nguyên đất nước
chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí; lưu thông không thông suốt,
phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế
quốc dân chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được
củng cố; đời sống nhân dân, nhất là công nhân viên chức gặp nhiều khó khăn;
hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm.
Những khó khăn đó chứng tỏ đất nước vẫn còn trong tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Những khó khăn trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Song, chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, sai lầm khuyết điểm trong hoạt động
của Đảng và Nhà nước.
Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu bước đi: Sau thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên cơ sở đánh giá đúng những đặc điểm cơ
bản của tình hình cách mạng nước ta, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong việc đánh

giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu
sót. Do đó, trong nhiều năm qua, đã vi phạm nhiều sai lầm trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế. Đại hội IV của Đảng chưa xác định được chặng đường đầu
tiên và mục tiêu của nó, trong những năm (1976 - 1980) đã nóng vội đẩy mạnh
công nghiệp hoá khi chưa đủ các tiền đề cần thiết. Đại hội lần thứ V đã cụ thể


20
hoá một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, nhưng trong chỉ
đạo thực hiện đã không quán triệt và thực hiện tốt, chưa kiên quyết khắc phục
tư tưởng nóng vội, bảo thủ, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế.
Về bố trí cơ cấu kinh tế: Việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu
sản xuất và cơ cấu đầu tư có nhiều sai lầm. Trong những năm (1976 - 1980)
đã thiên về phát triển công nghiệp nặng và những công trình có quy mô lớn,
không tập trung sức giải quyết căn bản các vấn đề lương thực, thực phẩm,
phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả đầu tư nhiều
nhưng hiệu quả thấp. Trên cơ sở xác định nội dung chính của công nghiệp
hoá, Đại hội lần thứ V đã chủ trương bố trí lại cơ cấu kinh tế, nhưng trên thực
tế đã không chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V. Nông
nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới: Chưa xác
định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nóng nội trong xác định mục tiêu, bước
đi. Về nội dung cải tạo quan hệ sản xuất thường nhấn mạnh việc thay đổi
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề
tổ chức quản lý và chế độ phân phối. Về cách làm lại theo kiểu chiến dịch, gò
ép, chạy theo số lượng. Trên thực tế trong nhận thức và hành động chúng ta
chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững và

vận đụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
Về cơ cấu quản lý kinh tế: Cơ chế quản lý kinh tế chậm được đổi mới,
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về cơ bản chưa bị xoá bỏ, cơ chế mới chưa
được thiết lập đồng bộ. Việc chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã không
tạo ra được động lực phát triển và làm nảy sinh nhiều tiêu cực.
Về phân phối lưu thông: Trên mặt trận phân phối lưu thông luôn căng
thẳng và rối ren. Điều đó đã tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống.


21
Về thực hiện chuyên chính vô sản: Tình trạng buông lỏng chuyên chính
vô sản thể hiện ở nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, quản lý
kinh tế - xã hội, đấu tranh tư tưởng văn hoá và trong việc chống lại những âm
mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Chưa sử dụng đầy đủ sức mạnh tổng hợp
của chuyên chính vô sản để thiết lập và giữ vững trật tự xã hội chủ nghĩa
trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Đại hội VI chỉ rõ: “những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện”6. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm
ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế là tư tưởng tiểu tư sản, vừa
“tả” khuynh, vừa “hữu” khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Trong lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận
dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ. Trong công tác tổ
chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm đầu cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là người làm nên
lịch sử. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
trong quá trình dựng nước và giữ nước. Ngày nay Đảng ta lãnh đạo nhân dân
ta làm cách mạng không có mục đích nào khác là vì hạnh phúc của nhân dân.
Nhân dân ta rất cách mạng và có phẩm chất rất quý báu, sức mạnh của cách
mạng chính là sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi thành
tựu hay khó khăn của cách mạng đều do Đảng có xây dựng được mối quan hệ
mật thiết với nhân dân hay không, có tập hợp và phát huy được sức mạnh của
nhân dân hay không.
6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H, 1987, tr. 26.


22
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng thì
trong mọi hoạt động của mình Đảng phải luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên
hệ giữa Đảng và nhân dân, ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mọi
đảng viên cộng sản phải thực sự là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Mọi chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi
ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự
đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm
cho sự lãnh đạo đứng đắn của Đảng. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển
biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư
duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật

khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi
phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội.
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dung đúng đắn các quy luật thông qua chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông
thông suốt, đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định
và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, chế
độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Mọi chủ trương chính sách gây tác động
ngược lại là biểu hiện vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được
sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quy luật của cách
mạng vô sản, là truyền thống quý báu của dân tộc, là bài học kinh nghiệm lớn
đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.


23
Để kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng và nhân dân ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp các
yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và hiện đại, sử dụng tốt mọi
khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật
với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn
làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với các nước anh em và bầu bạn.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo cho Đảng làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, vấn đề
cấp bách hiện nay là tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.

Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng đã kịp thời lãnh đạo thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng đưa cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ (1975 - 1985) Đảng có ưu điểm và thành tựu trong hoạch định
đường lối, trong lãnh dạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã có cố gắng
tìm tòi, đổi mới từng phần, từng bước hình thành tư duy mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, thời kỳ này
Đảng còn bộc lộ sự lạc hậu trong nhận thức lý luận, vừa khuynh hướng, hữu
khuynh trong tổ chức thực hiện.
Từ những thành tựu và những khuyết điểm, sai lầm Đảng đã rút ra
những bài học kinh nghiệm quý, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là cơ
sở hình thành đường lối đổi mới toàn diện được xác định ở Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội đổi mới, xác
định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt cho sự phát triển mới của
cách mạng Việt Nam.


24
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra lối thoát cho
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, đặt nền tảng cho việc
tìm ra con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng xác định, đáp ứng
được yêu cầu bức thiết của đất nước ta, có giá trị chỉ đạo sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước, đưa tới những thành tựu quan trọng giữ vững ổn định kinh
tế - xã hội, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo.
Tiếp tục kế thừa, phát triển sự nghiệp đổi mới đất nước, từ đổi mới
từng phần Đảng ta tiến đến đổi mới toàn diện đất nước làm cho nền kinh tế
nước ta từ nền kinh tế bao cấp, trì trệ, bị bao vây, cấm vận, đời sống nhân dân
hết sức kho khăn, đến nay, sau 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,

nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thế kỷ phát
triển mới của đất nước. Chúng ta có thể tự hào khẳng định rằng, kinh tế Việt
Nam 30 năm qua đạt được nhiều thành tựu to lớn:
Một là, đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của
các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Hai là, thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được
hình thành.
Bốn là, cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Năm là, đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu
vực và trên thế giới.



×