Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phát triển kinh tế đối ngoại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.01 KB, 27 trang )

A MỞ ĐẦU
Giới thiệu.
Chúng ta đã biết rằng, hiện nay tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế là
một xu hướng lớn của nhân loại .Trước làn sóng tồn cầu hóa đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia hội nhập
vào nền kinh tế thế giới để tạo dựng một vị trí thuận lợi trong q trình phân
công lao động quốc tế và thương mại quốc tế. Việt Nam cũng khơng thể đứng
ngồi xu hướng đó.Xu hướng tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày một mở
rộng đã làm thay đổi chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại , đưa chiến lược
phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta trở thành một bộ phận của kinh tế. Hội
nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen và được sử dụng nó một cách
rất thông dụng với hầu hết người Việt Nam.
Những năm gần đây , Việt Nam tiếp tục tăng cường công cuộc đổi mới kinh tế
trên nhiều lĩnh vực như : sản xuất, hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học công
nghệ, ngoại thương, đầu tư quốc tế… và đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Sau gần 30 năm mở cửa hợp tác quốc tế từ năm 1986 đến nay, với đường
lối, quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng, nước ta đã gặt hái được nhiều thành
công to lớn trên phương diện hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế cũng như phát triển kinh tế nước nhà.
Với đề tài “ Phát triển kinh tế đối ngoại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay “ chúng tơi sẽ trình bày hiểu biết của mình về tầm quan
trọng của kinh tế đối ngoại đối với sự nghiệp phát triển đất nước và những
thách thức đặt ra trong thời đại quốc tế hiện nay.


B NỘI DUNG
1. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay
Hiện nay Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và
tồn diện hơn bao giờ hết. Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại
giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới


(WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực
(ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến
cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành cơng vị trí Ủy viên khơng thường
trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kỳ
2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành cơng vai trị Chủ tịch ASEAN trong
năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 25 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một
quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phải
đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền kinh tế - xã
hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi tình trạng vừa
có hịa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch xiết chặt bao vây
cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào thời kỳ đổi mới (1986),
Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là phải tìm cách
thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô lập về đối
ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà nước Việt Nam nỗ
lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về“thêm
bạn, bớt thù”, mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tìm ra


khâu đột phá để thốt vịng bao vây cơ lập của các thế lực chống đối. Sau Đại hội
VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về chính
sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đơng
Nam Á, tạo mơi trường quốc tế hồ bình, ổn định ở khu vực, thuận lợi cho phát
triển đất nước.
Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của Đảng nêu
chủ trương chiến lược: “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”[1].
Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau sự

tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) chính thức xác định
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế.
Chủ trương chiến lược của Đại hội VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng định,
bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình độc lập và
phát triển”. Như vậy, q trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng đã đưa đến
việc xác lập những nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại từ
“rộng mở”, “là bạn” đến “đa dạng hóa, đa phương hố quan hệ quốc tế” và “sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy”. Đây là sự thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng
tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết mục tiêu cách
mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời
đại. Với sự điều chỉnh chính sách đối ngoại như đã nêu, Việt Nam đã từng bước
phá được thế bị bao vây cấm vận, hóa giải tương đối thành cơng những khó khăn,
bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,
hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.


Củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông Dương luôn
là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và
trong q trình hội nhập quốc tế nói riêng. Với Lào, tìnhhữu nghị đồn kết đặc
biệt và sự hợp tác tồn diện tiếp tục được củng cố và có nhiều bước phát triển
quan trọng. Việt Nam triển khai hợp tác một cách toàn diện, giúp bạn phát triển
kinh tế - xã hội với hàng loạt các hạng mục kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa,
giáo dục - đào tạo... góp phần duy trì ổn định chính trị - xã hội, an ninh của Lào.
Việt Nam một mặt lấy mối quan hệ mật thiết giữa hai đảng làm nòng cốt, mặt
khác không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền
đề vật chất gắn kết hai nước trên cơ sở lâu dài, bền vững. Mối quan hệ hợp tác
ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng
của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau,

phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Việt Nam là một
trong những nước đứng đầu về đầu tư tại Lào. Đến nay, vốn đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam tại Lào đạt trên 3,3 tỷ USD với 203 dự án, cao nhất
trong số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư.
Riêng 8 tháng đầu năm 2011, vốn đầu tư đăng ký của các doanh nghiệp Việt
Nam tại Lào đạt 469 triệu USD, cao hơn cả năm 2010
Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ với Campuchia trên cơ sở mới phù
hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia, phát
triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, thông qua thương lượng giải
quyết những vấn đề còn tồn tại. Đến nay, hai nước xác lập phương châm chỉ đạo
quan hệ là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định
lâu dài”. Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng
chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết công nhận và tôn
trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam những năm 80 của


thế kỷ XX.Hai bên đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, đào tạo,
năng lượng - điện, y tế, giao thông vận tải. Trao đổi thương mại tiến triển thuận
lợi, kim ngạch nhập khẩu của Campuchia từ Việt Nam trong 8 tháng đầu năm
2011 tăng 43% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 976 triệu USD. Trong khi đó, xuất
khẩu của nước này sang thị trường Việt Nam trong cùng kỳ tăng 116%, lên
105,2 triệu USD. Việt Nam đứng hàng thứ hai sau Trung Quốc về đầu tư vào
Campuchia, với số vốn 156,38 triệu USD, chỉ chiếm 5,2% tổng trị giá đầu tư ở
nước này trong 6 tháng đầu năm 2011.
Việt Nam đặc biệt coi trọng tiến trình bình thường hóa và phát triển quan hệ
với Trung Quốc. Sau Đại hội VI, Việt Nam đã xem xét lại toàn bộ mối quan hệ với
Trung Quốc, khẳng định rõ Trung Quốc là một nước XHCN, nhân dân Trung
Quốc là nhân dân cách mạng và có truyền thống hữu nghị lâu đời với nhân dân
Việt Nam. Trung Quốc trong tư cách vừa là một nước láng giềng, vừa là một
nước lớn, vừa là một nước XHCN được Việt Nam nhận thức có vai trị rất quan

trọng đối với hồ bình, ổn định của Việt Nam và của cả Đơng Nam Á, đồng thời
cũng thấy rõ vị trí của Việt Nam trong chiến lược của Trung Quốc.
Với những nỗ lực của cả hai bên, nhất là sự chủ động của Việt Nam, tháng
10/1991 quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước chính thức bình thường hố. Việc
bình thường hố quan hệ Việt - Trung sau hơn mười năm quan hệ khơng bình
thường là một sự kiện rất quan trọng về mặt đảm bảo an ninh quốc gia của Việt
Nam cũng như tạo ra môi trường khu vực và quốc tế thuận lợi cho Việt Nam mở
rộng quan hệ hợp tác với các nước khác[5]. Kể từ sau bình thường hóa, quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và tồn diện. Khn khổ quan hệ hai
nước được chính thức xác định với 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần
4 tốt: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” và gần đây là “Quan


hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Hai bên có nhận thức chung rộng rãi,
chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Hợp tác
kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc tăng trưởng nhanh. Năm 2010, kim
ngạch thương mại song phương đạt trên 27 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2009,
chiếm khoảng 17,6% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Tám tháng đầu
năm 2011, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đã đạt gần 22 tỷ USD,
tăng 31,52% so với cùng kỳ năm 2010[6].
Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định vịnh
Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh
Bắc Bộ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt tốt phương châm
vừa hợp tác vừa đấu tranh đối với những vấn đề còn bất đồng và tranh chấp thì
kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của mình.
Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng và
Nhà nước Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các nước
ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và

hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối với khu vực.
Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh mẽ,
đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói cách khác, nếu
khơng là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể
phát triển như thực tế đã diễn ra.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết và trách
nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm thúc


đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội. Việt Nam
tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khuôn khổ đa
phương và song phương, đóng góp thiết thực vào q trình hợp tác liên kết
ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ
cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào việc xây
dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương
ASEAN, đảm nhiệm thành cơng vai trị Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên
nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA).
ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Năm
2009, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tương đương 15%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt 14 tỷ USD, chiếm
20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của
ASEAN tại Việt Nam khoảng trên 60 tỷ USD. Bên cạnh đó, Việt Nam cịn tham gia
với tinh thần trách nhiệm cao vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với
các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị
Thượng đỉnh Đông Á.
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam
còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các tổ
chức quốc tế trong quá trình hội nhập.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối ngoại

của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu an ninh và


phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố vị thế
quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả các
nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt Nam, thúc đẩy quan hệ của
Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, từng bước đi vào thị trường
rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nguồn vốn đầu tư... Năm
1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng 11/7/1995 bình
thường hố quan hệ với Việt Nam. Sau bình thường hóa, quan hệ Việt - Mỹ có
nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ
được thúc đẩy. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006,
chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình
thường hóa hồn tồn quan hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho
Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2010, kim ngạch mậu dịch hai chiều vượt 18,3 tỉ
USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm 2011
đạt 11,3 tỷ USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2010 và xuất khẩu của Mỹ sang
Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21,5%[7]. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam.
Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp nhằm duy
trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc phòng.
Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng với một loạt
các hiệp định về hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật, dầu khí,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông nghiệp. Kim ngạch buôn bán
giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có chiều hướng tăng. Năm 2009
kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 1,83 tỷ USD và dự kiến sẽ nâng lên 3 tỷ
USD vào năm 2012.



Bên cạnh quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ
thuật, an ninh quốc phịng giữa Việt Nam và Ấn Độ có bước phát triển thể hiện
sự tin cậy lẫn nhau. Hai nước ký Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược mới
(7/2007). Từ năm 2007, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất
ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng trở thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất từ
Ấn Độ ở Đông Nam Á. Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ tăng lên nhanh
chóng, từ hơn 1 tỷ USD năm 2006 đã tăng lên 2,8 tỷ năm 2010. Riêng 8 tháng
năm 2011, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 2,4 tỷ USD, tăng 43%
so với cùng kỳ. Hai nước phấn đấu nâng đưa kim ngạch thương mại song
phương lên 7 tỷ USD vào năm 2015[8]. Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác đầu tư và khuyến khích các tập
đồn Ấn Độ đầu tư vào Việt Nam
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, nhất là trên
các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch,
chuyển giao cơng nghệ. Hiện nay Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất, là nước cung
cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và đầu tư lớn ở Việt Nam. Quan hệ Việt Nam Nhật Bản hiện vẫn năng động tiến vững trên đường hướng tới đối tác chiến
lược vì hịa bình và phồn vinh ở châu Á.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU Hiệp định
khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối quan hệ
hợp tác ổn định, lâu dài. Phát triển quan hệ song phương đã góp phần thúc đẩy
quan hệ hợp tác Việt Nam - EU. Việt Nam đang tích cực thực hiện “Đề án tổng


thể về quan hệ Việt Nam - EU đến năm 2010 và định hướng đến 2015” được
đưa ra từ tháng 6/2005.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong
quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nước ta thực sự đẩy mạnh việc tham gia
hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế từ khi tham gia ASEAN (1995) và các
định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN như: Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA); ký Hiệp định khung với EU (1995);
tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC năm 1998;
ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000) dựa trên những nguyên tắc cơ bản
của WTO và năm 2007 đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với
bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trước
hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở
thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
Việt Nam đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do các đối tác
truyền thống ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị thu hẹp đột ngột, và do tác động
tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ năm 1997.
Một thành tựu nổi bật là đã thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài khá lớn,
trước hết là FDI. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm
2009 đạt 21,48 tỷ USD với 1.504 dự án FDI.
Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, thu hút
được hơn 8.000 dự án FDI từ 80 nước và lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký hơn


100 tỷ USD. Nhiều nhà đầu tư lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đã và đang đặc
biệt quan tâm đến Việt Nam. Tại các Hội nghị tư vấn tài trợ cho Việt Nam, tổng
cam kết tài trợ liên tục tăng, từ 4,4 tỷ USD năm 2006 đến hơn 7,9 tỷ USD năm
2010.
Đây là sự thể hiện niềm tin và sự tín nhiệm của cộng đồng tài trợ quốc tế đối với
Việt Nam, đồng thời phản ánh quyết tâm cao độ của Việt Nam trên đường cải
cách, phát triển. Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có triển vọng thu
hút đầu tư hấp dẫn nhất trên thế giới. Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật
Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, hàng hóa Việt Nam
đã vươn ra củng cố thế đứng trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông,
Mỹ Latinh và châu Phi.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ngày càng năng động tiếp
thu khoa học và cơng nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý và cán bộ kinh doanh. Đồng thời, từng bước đưa hoạt động của các
doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn
mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành rõ rệt, góp phần nâng
cao vai trị và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tại các diễn đàn quốc tế
và khu vực như Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ARF, ASEM,
Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp... Việt Nam đã phối hợp với nhiều
nước, trước hết là các nước đang phát triển đấu tranh bảo vệ hịa bình, bảo vệ
các ngun tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc. Việt
Nam đã được bầu vào Hội đồng chấp hành Tổ chức Kinh tế - Xã hội, trở thành ủy


viên hội đồng điều hành của nhiều tổ chức quan trọng trực thuộc Liên hợp quốc
như UNDP, UNFPA, UNICEF, ủy ban giải trừ quân bị.
Đặc biệt, thành tựu ấn tượng trên lĩnh vực ngoại giao đa phương là việc Việt
Nam đã đảm nhiệm tốt vai trị Uỷ viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc năm 2008 - 2009. Nếu việc tham gia Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế, thì khi trở thành
thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ
vào đời sống chính trị quốc tế. Với vị thế và trọng trách này, Việt Nam không chỉ
vươn lên tầm cao trong quan hệ đối ngoại ngoại, mà cịn có tiếng nói quan trọng
tại Liên hợp quốc - diễn đàn quốc tế đa phương lớn nhất trên hành tinh. Thơng
qua đó, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề chính
trị - xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng
góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hịa bình, ổn định và phát
triển trên thế giới.

2. Một số thànhtựuc ủaViệt Nam sau quá trình gần 30 năm hội nhập kinh

tế quốc tế

Một là, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước, các tổ
chức quốc tế
Chúng ta đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO
cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO vào
năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện chính
sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong
thương mại với các nước trên thế giới.


Ngồi ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng
lãnh thổ ở khắp các châu lục ; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy
mươi quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng
tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có
tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và
thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vàoViệt Nam, tạo điều kiện cho mơ hình kinh tế hướng về xuất khẩu của
ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị
thế của một quốc gia thành cơng trong q trình đổi mới.

Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt
4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi
gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc
độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong vịng 11 năm trước đó).

Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, tăng trưởng GDP
trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống cịn 5,6%. Ngồi ra, có thể nói thành
tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém
phát triển sau 30 năm đổi mới.
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất
khẩu củaViệt Nam tăng đều qua các năm. So với năm 1986 (kim ngạch xuất
khẩu đạt 789,1triệu USD) thì kim ngạch xuất khẩu năm 2013 tăng gấp khoảng
167 lần (132,2 tỷ USD). Hàng hóa xuất khẩu củaViệt Nam đã có mặt trên thị
trường 220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục. Nước ta có vị thế ngày
càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa tồn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền kinh
tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt
Nam đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu. Năm
2012, Việt Nam đã xuất siêu 287 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 9 triệu USD và
10 tháng đầu năm 2014 xuất siêu 1,9 tỷ USD.


Ba là, thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngồi
Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
liên tục phát triển cả về tổng vốn, cả về số dự án, cả về quy mô vốn/ dự án…
Giaiđoạn 1991 - 1997 đã diễn ra làn sóng FDI vào Việt Nam lần thứ nhất với
2.230 dự án và vốn đăng ký là 16,244 tỷ USD. Việc thực hiện các cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO đã giúp hoàn thiện và
làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn củaViệt Nam đối với
nhà đầu tư nước ngoài. Vốn FDI trong năm 2007 đã có mức tăng trưởng 75,3%
và năm 2008 là 42,6%.
Trong năm 2013, tổng vốn đầu tư FDI vàoViệt Nam đã đạt 22,35tỷ USD.
Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho khoảng hơn 2 triệu lao
động trực tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp, chiếm hơn 60% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng

kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết các
vấn đề xã hội.

Bốn là, góp phần hồn thiện thể chế kinh tế, cải thiện tích cực mơi trường trong
nước
Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi theo
hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thơng
thống, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Trong thời gian gần 10 năm trở lại đây, để thực hiện các cam kết gia nhập
WTO như tự do hóa quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa bỏ các hạn chế xuất,
nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây bóp méo cạnh tranh, giảm thiểu sự can
thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, các cam kết mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, minh bạch hóa chính sách… hệ thống pháp luật của
ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng trở nên rõ ràng,
minh bạch hơn, tạo ra mơi trường kinh doanh bình đẳng trong nước.


3. Khó khăn
Bằng các hình thức đối ngoại Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế sâu
rộng với các nước trên thế giới, điều này mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế. Tuy nhiên song song với nó là rất nhiều những khó khăn mà
chúng ta cần phải đối mặt. Nếu khơng có những biện pháp ứng phó, khắc phục
thì sự thua thiệt về kinh tế xã hội có thể là rất lớn. Những khó khăn mà Việt Nam
phải đối mặt đến từ hai phía khách quan và chủ quan.

Khách quan
Các quốc gia trên thế giới áp dụng một số biện pháp tinh vi như hàng rào
tiêu chuẩn kĩ thuật, hàng rào chống bán phá giá... Điều này đã gây khó khăn cho

các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tham gia vào các tổ chức, liên kết
kinh tế thế giới và khu vực, nước ta phải tuânthủ các lộ trình cắt giảm thuế quan
và gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, đồng thời vớiđó là hàng hóa nước ngồi sẽ
ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh
doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống can
ngườilao động. Bởi hàng hóa của nước ta do kỹ thuật, công nghệ và quản lý còn
kém nênchất lượng thấp mà giá thành vẫn cao hơn so với hàng nhập. Trong khi
đó, nước ngồivới dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng,
vốn lớn, trình độquản lý cao nên sản phẩm làm ra mẫu mà đẹp, chất lượng tốt
lại không bị đánh thuếkhi xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá cả rất
hợp lý. Sức cạnh tranh bấpbênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện
rõ. Bên cạnh đó, nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế quá thấp,nền kinh


tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, mộtbộ
phận đáng kể của nền kinh tế vẫn cịn chưa thốt khỏi lối sản xuất hàng hóa
nhỏ,cơng nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém. Trong khi
đó, cácnước đi trước nhất là các nước tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về
nhiều mặt. Dođó nếu chúng ta mở rộng phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với
các nước đó thì sẽkhó tránh khỏi bị lệ thuộc vào mặt kinh tế và từ chỗ lệ thuộc
vào kinh tế sẽ dẫn đếnkhông giữ vững được quyền độc lập tự chủ.
Chủ quan
Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển,
đặc biệt làcảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ
các trung tâmkinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông hay
hệ thống cung cấp điện đều cịn yếu kém, chưa đạt đến trình độ phát triển cao.
Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, VAT ,
các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, cơng nghệ được sử dụng.Ví dụ như thuế
nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện nay có lẽ ở vào
hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của

nhiềuquốc gia Đơng Á hiện chỉ cịn vào khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở
mức 20-30%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt,
phụ thu đều ở mức cao. Tình trạng bảo hộ mậu dịch còn khá cao, Khung thuế
nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao: mặt hàng
rượu ngoại vẫn chịu thuế suất 40 – 50%; mặt hàng điện tử giá trị cao vào
khoảng 50 -75%; mặt hàng ơ tơ……… Chỉ có 20% số dịng thuế được áp dụng
mức thuế dưới 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hố nhập để xuất có q nhiều
thủ tục phức tạpphiền hà và kém hiệu lực.Các ngành dịch vụ, theo cách tính của
WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồmcác hoạt động ngân hàng, tài chính,


bảo hiểm, viễn thông, hàng không, du lịch, tưvấn. Ở các nước phát triển, các
ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP.
Vai trị của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền
kinh tế, đặc biệt làtrong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Môi trường
dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với cácnhà đầu tư từ các nước
phát triển, vì họ đã quen với mơi trường đầu tư có hoạt độngdịch vụ rất tốt. Điều
đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khiđầu tư vào Việt
Nam.
4. Nhận định chung
Cơ hội trong tiến trình hội nhập
Hội nhập tồn cầu hố mở ra khả năng cho nước ta, tham gia nhanh và hiệu quả
vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian của cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố.
Hội nhập giúp Việt Nam tiếp cận nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và
khoa học quản lý hiện đại. Đẩy nhanh hồn thiện hệ thống pháp luật kinh theo
thơng lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho
môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Tăng thu hút đầu
tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng

cách phát triển. Gia nhập WTO, giúp nước ta có được vị thế bình đẳng như các
thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu.


Hội nhập quốc tế làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tạo sự ràng
buộc góp phần tích cực trong việc đẩy lùi các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối
quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với
đông đảo các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một
trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng
hơn.

Mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam
đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều
lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp phần tăng năng suất lao động,
nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh… Bên cạnh
đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ
nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý. Hội nhập
kinh tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách thể chế
kinh tế thị trường, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế là kết quả
của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng
mở, đa dạng hố, đa phương hố với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập
ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm
niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi
ích quốc gia tới mức cao nhất có thể và ra sức bảo vệ, phát triển đất nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa bền vững.


Thách thức, khó khăn
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới

không chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà cịn phải đối diện với nhiều thách thức lớn.
Do đó, chúng ta cũng cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải
đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Thách thức lớn nhất chính là nước ta có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước
còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé,
sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của tồn bộ nền kinh tế nói
chung cịn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hồn
chỉnh...
Khó khăn lớn trong cạnh tranh: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối
thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do năng lực của chúng ta thấp yếu về
mọi mặt dẫn đến chịp áp lực toàn diện trong mọi hoạt động sản xuất - thương
mại ngay cả trong nước và xuất khẩu.
Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hố và truyền thống. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các
nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, ngoài các hiểm hoạ mang tính
truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường,
dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình
thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn


an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành
nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách.

Những yêu cầu đặt ra đối với cơng tác đối ngoại
Tình hình thế giới đang chuyển biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, tình hình và
nhiệm vụ đối ngoại của giai đoạn mới, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao nhận thức
và ý thức trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả công tác đối ngoại cụ thể như sau:
- Địi hỏi tích cực chủ động nâng cao hiệu quả hoạt động đối tác chiến lược, coi
trọng phát triển quan hệ có chiều sâu với nhân dân các nước láng giềng và các
nước có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của ta; củng cố quan hệ với

bạn bè truyền thống, tăng cường quan hệ với các lực lượng u chuộng hồ bình
và tiến bộ trên thế giới; đồng thời, mở rộng quan hệ với các tổ chức, cá nhân và
nhân sĩ nước ngoài, tranh thủ tình cảm và sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam,
phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng đối tác.
- Huy động sự tham gia của các tổ chức và các tầng lớp nhân dân vào các hoạt
động đấu tranh chống lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo, chống “diễn biến hồ bình” của các thế lực chống đối, đấu tranh bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ đất nước.
- Tăng cường nhanh chóng nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền
đối ngoại, giúp các nước trên thế giới ngày càng hiểu đúng và đầy đủ hơn về đất
nước và con người Việt Nam, về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và


cơng cuộc đổi mới của nước ta. Đồng thời góp phần nâng cao hiểu biết và nhận
thức của các tầng lớp nhân dân ta về chính sách đối ngoại của Việt Nam, về tình
hình thế giới và các vấn đề tồn cầu.
- Thể hiện tốt vai trị của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào nhân
dân thế giới, nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu vào
cuộc đấu tranh chung vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, phù
hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích của nước ta.
5.Gợi ý giải pháp khắc phục những hạn chế và phát triển đất nước
Để chủ động hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả, trong thời gian tới
cần chú ý thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ cần tích cực và chủ động tham gia đàm phán ký kết
các hiệp định thương mại, đầu tư song phương và đa phương trong khuôn khổ
của WTO, APEC, ASEAN, ASEM, v.v… nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
thương mại và đầu tư của Việt Nam phát triển.
Thứ hai, huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá
chiến lược: cải cách thể chế; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực.
Để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược, cần chú ý những việc làm sau:

- Về đẩy mạnh cải cách thể chế: trong những năm tới cần đẩy mạnh hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam cho phù hợp luật chơi quốc tế và thể chế kinh tế thị
trường, bao gồm các bộ luật chủ yếu như: Luật chính quyền địa phương; Luật
đầu tư cơng; Luật quản lý vốn Nhà nước; Luật chống độc quyền; Luật tổ chức
Chính phủ (sửa đổi); Luật ngân sách (sửa đổi); Luật kinh doanh bất động sản


(sửa đổi); Luật doanh nghiệp (sửa đổi); Luật đầu tư (sửa đổi); Luật cạnh tranh
(sửa đổi), v.v… Điểm mấu chốt trong công tác xây dựng luật là cần xây dựng các
bộ luật để khi ban hành chúng có hiệu lực và đi vào đời sống kinh tế - xã hội
ngay mà không phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn luật của Chính phủ như
hiện nay. Nếu thực hiện được điều này là một bước đột phá trong cải cách thể
chế, tránh tình trạng “nợ xấu” văn bản hướng dẫn thi hành luật như hiện nay,
làm cho luật khi ban hành khơng được thực hiện kịp thời, thậm chí các văn bản
hướng dẫn luật nhiều khi lại trái với nội dung luật, gây bức xúc trong nhân dân.
Điểm mấu chốt của cải cách thể chế là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự tham gia điều tiết của Nhà nước. Vì
vậy, cần nhanh chóng hồn thiện các hệ thống luật pháp để Nhà nước thực hiện
can thiệp thị trường có hiệu quả mà không cản trở thị trường phát triển.
- Về huy động mọi nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng: để phát triển các
hoạt động kinh tế đối ngoại trong hội nhập quốc tế, nhất thiết đất nước phải có
kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển
kết cấu hạ tầng một cách thành công, cần thiết phải thực hiện minh bạch hóa và
đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, tăng cường kiểm tra kiểm soát việc vay vốn và
sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả. Kiên quyết triệt để chống lãng phí và
tham nhũng để lấy lại niềm tin vào Chính phủ của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, niềm tin của nhân dân vào tiền thuế của mình được sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả, khơng bị thất thốt bởi tệ nạn lãng phí và tham nhũng.
- Về phát triển nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực cao, thấp
không phải chỉ được quyết định bởi hệ thống giáo dục - đào tạo mà còn phụ

thuộc vào cơ chế sử dụng nguồn nhân lực. Với cơ chế sử dụng và đãi ngộ nhân
tài hiện nay ở Việt Nam, nhất là ở các cơ quan Nhà nước thì khơng thể nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Vì vậy, cần thiết phải cải cách cơ chế sử dụng và đãi


ngộ nhân tài theo hướng sử dụng và đãi ngộ người có thực tài chứ khơng chỉ
dựa vào bằng cấp. Kiên quyết loại bỏ các loại “chạy”: chạy chức; chạy biên chế;
chạy tiêu chuẩn; chạy bằng cấp; chạy lương; chạy danh hiệu; chạy chức danh,
v.v….Các loại chạy này ngày càng trở nên phổ biến, có tính hệ thống thành cơ chế
chạy trong đào tạo, sử dụng và phát triển nhân lực. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế nhất thiết phải xóa bỏ cơ chế
chạy này. Phải xây dựng cho bằng được cơ chế sử dụng và đãi ngộ xứng đáng
người tài trên cơ sở thi tuyển khách quan dựa trên các tiêu chí bình đẳng để
chọn lựa người thực tài vào các vị trí, chức danh.
Thứ ba, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ
mô và cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư trong và
ngồi nước tham gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho trường trong
nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới. Trong đó, cần
chú ý các chính sách sau:
- Phát triển các loại thị trường một cách đầy đủ từ thị trường hàng hóa và dịch
vụ cho đến các thị trường yếu tố sản xuất: thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường đất đai và bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ, v.v…
và quan trọng là thực hiện giá thị trường cho tất cả các mặt hàng kể cả điện,
nước, xăng dầu… Vấn đề ở đây là Nhà nước phải xây dựng cơ chế tham gia can
thiệp thị trường một cách hiệu quả khi cần khắc phục những khuyết tật của thị
trường trên nguyên tắc dung hợp với thị trường chứ không cản trở thị trường.
Nhà nước nên nhanh chóng ban hành Luật chống độc quyền để bảo vệ thị
trường hoạt động có hiệu quả.



- Các chính sách kinh tế vĩ mơ: tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt
theo tín hiệu thị trường và điều hành theo lạm phát mục tiêu và tăng trưởng
kinh tế mục tiêu; thực hiện chính sách ổn định tỷ giá tiền đồng Việt Nam một
cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường trong nước và các biến động trên thị
trường thế giới, tránh tình trạng dồn nén tỷ giá cũng như phá giá mạnh tiền
đồng. Các thái cực trên đều gây thiệt hại cho nền kinh tế trong hội nhập quốc tế.
Khi có điều kiện chín muồi sẽ biến tiền tệ Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi
trong khu vực và trên thế giới. Ở đây, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng cơ
chế hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo mơ hình một ngân hàng
Trung ương như ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, để đến năm
2019 khi Việt Nam được cơng nhận là nước có nền kinh tế thị trường thì Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cũng sẽ trở thành ngân hàng Trung ương đúng nghĩa.
- Các chính sách đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trong hội nhập: Chính phủ
cần thực hiện các chính sách trong khuôn khổ các hiệp định thương mại cho
phép để hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia chuỗi hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu
nhằm chủ động tổ chức sản xuất những hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu chủ lực,
phát triển thị trường xuất khẩu chủ yếu. Đồng thời, nhanh chóng hồn thiện
Luật chống bán phá giá, chống trợ cấp trong khuôn khổ cho phép của WTO để
bảo vệ thị trường trong nước trước sự thâm nhập của các hàng hóa ngoại nhập
khi thực hiện các hiệp định thương mại quốc tế.
- Chính sách đẩy mạnh thu hút đầu tư quốc tế: trước sức cạnh tranh ngày càng
mạnh mẽ của các nước trong khu vực về thu hút đầu tư nước ngoài như Trung
Quốc, Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia, v.v… Chính phủ cần cải
thiện hơn nữa mơi trường đầu tư để thu hút mạnh hơn đầu tư nước ngoài (trực


tiếp và gián tiếp) vào Việt Nam. Trước mắt, đối với đầu tư trực tiếp cần thực
hiện chính sách thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, công nghệ sinh
học, công nghệ điện tử, công nghệ thông tin - truyền thông, công nghiệp phụ trợ,

công nghệ môi trường… Để thu hút đầu tư gián tiếp vào phát triển thị trường
chứng khốn Chính phủ nên nhanh chóng nới room cho các nhà đầu tư ngoại, kể
cả trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm.

C KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập hiện nay, một quốc gia muốn phát triển mạnh toàn
diện đặc biệt là về kinh tế thì quốc gia đó không chỉ chú trọng đến việc khai thác
những nguồn lực nội tại của mình mà cịn phải huy động những nguồn lực bên
ngoài.
Trước xu thế của thời đại , kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vai trò
quan trọng trong q trình phát triển của nền kinh tế tồn cầu nói chung và của
Việt Nam nói riêng.
Kinh tế đối ngoại nước ta hiện đã bước sang một giai đoạn mới - chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của
các quốc gia đi trước, đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng bước đầu để có thể gia tăng hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới. Mặc dù tiến trình hội nhập quốc tế
đang đặt ra nhiều khó khăn và thách thức lớn ,tuy nhiên đó cũng là cơ hội để
đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta ngày càng vững mạnh hơn.


×