Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN tư tưởng về CHUYÊN CHÍNH vô sản và CÁCH MẠNG bạo lực TRONG tác PHẨM CÁCH MẠNG vô sản và tên PHẢN bội CAUXKY ý NGHĨA đối với CUỘC đấu TRANH tư TƯỞNG lý LUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.89 KB, 21 trang )

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN VÀ
CÁCH MẠNG BẠO LỰC TRONG TÁC PHẨM “CÁCH MẠNG VÔ SẢN
VÀ TÊN PHẢN BỘI CAUXKY”. VẬN DỤNG ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG,
LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Hoàn cảnh lịch sử và mục đích của tác phẩm
Thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và sự thiết
lập Nhà nước xô viết là một tấm gương sáng cho nhân loại cần lao trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng. Sau Cách mạng Tháng Mười, khi nền chuyên chính vô sản đã
được thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh toàn diện của mình trên toàn lãnh thổ
nước Nga rộng lớn, khi chủ nghĩa xã hội bắt đầu trở thành hiện thực, khi những
thành tựu vĩ đại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản ở Nga
trở thành nguồn cổ vũ to lớn, thủc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Nét nổi bật khác của thời kỳ này là
song song với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động
ở các nước tư bản, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc cũng lên cao. Trước tình hình đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động càng ngày càng tăng cường đối phó bằng những thủ đoạn hết sức nham
hiểm; mà kẻ giúp ích đắc lực cho chúng là chủ nghĩa cơ hội xét lại. Một trong
những phần tử cơ hội nguy hiểm nhất và là một trong những lãnh tụ của quốc tế II,
cũng là một trong những thủ lĩnh của phong trào dân chủ - xã hội Đức, phản bội
chủ nghĩa Mác, đã viết cuốn sách Chuyên chính vô sản, 63 trang, xuất bản tại Viên,
tháng 8-1918. Trong cuốn sách đó, Cauxky đã xuyên tạc và bôi nhọ lý luận thủ
nghĩa Mác về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, chống đảng bônsêvích và
vu khống Nhà nước xôviết, nhằm đầu độc và đánh lạc hướng giai cấp công nhân
quốc tế.
V.I.Lênin cho rằng, cuốn Chuyên chính vô sản của Cauxky là “một ví dụ nối
1


bật nhất về sự phá sản triệt để nhất và nhục nhã nhất của Quốc tế II, mà từ lâu, tất
cả những người xã hội chủ nghĩa trung thực ở hết thảy mọi nước đều nói đến. Hiện


nay, vấn đề cách mạng vô sản đang được đề ra một cách thực tiễn thành vấn đề
cấp thiết trong nhiều nước. Cho nên, phân tích những lời nguy biện phản bội của
Cauxky và việc hắn hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa Mác, là cần thiết”1.
Để vạch trần bộ mặt phản bội của Cauxky, vào đầu tháng Mười 1918,
V.I.Lênin bắt tay vào viết cuốn Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky. Người
đã viết cuốn sách này với một sự “say mê đặc biệt, “có thể nói là Người đã sôi lên
vì tức giận”, “ngày này qua ngày khác thức mãi đến khuya, Người đã viết tác
phẩm có sức mạnh kỳ diệu này””2. Khi vừa mới khởi đầu viết cuốn sách, ngày 9
tháng Mười, V.I.Lênin đã viết bài báo Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky 3
đăng trên báo Sự thật ngày 11 tháng Mười 1918 để nhanh chóng biểu lộ thái độ và
phát biểu ý kiến sơ bộ của mình với cuốn Chuyên chính vô sản của Cauxky.
Tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky” với bố cục ngoài Lời
tựa và Phụ lục, có 8 đề mục tuần tự: Cauxky biến Mác thành một người thuộc phái
tư do tầm thường như thế nào; dân chủ tư sản và dân chủ vô sản; có thể có bình
đẳng giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột không ?; các xôviết không được biến thành
những tổ chức nhà nước; Quốc hội lập hiến và cộng hòa xôviết; Hiến pháp xô viết;
chủ nghĩa quốc tế là gì ?; làm tôi tớ cho giai câp tư sản dưới chiêu bài “phân tích
kinh tế” được V.I.Lênin viết xong muộn nhất là vào ngày 10 tháng Mười một 1918
và được xuất bản trong năm đó ở Mátxcơva, do Nhà xuất bản Người cộng sản in.
V.I.Lênin nêu rõ "phải tìm đủ mọi cách để lật mặt nạ những kẻ phản bội như
Cauxky, và do đó, ủng hộ những nhóm cách mạng của những người vô sản thực sự
quốc tế chủ nghĩa, đã có ở trong tất cả các nước”4. Với nhiệm vụ cách mạng vô
11
2

, 2, V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. CTQG, H2005, t 37, tr287, 713.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. CTQG, H2005, t 37, tr119 – 130.

3
4


. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr130.

2


sản đòi hỏi như vậy chính là mục đích của tác phẩm ra đời.
2. Những tư tưởng cơ bản về chuyên chính vô sản và cách mạng bạo lực
Vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền
nhà nước. Đối với cách mạng vô sản cũng như vậy. Mục tiêu trước mắt có ý nghĩa
quyết định trong cách mạng vô sản là lật đổ chuyên chính tư sản, thiết lập chuyên
chính vô sản. Thừa nhận hay không thừa nhận chuyên chính vô sản là ranh giới
phân biệt người mácxít thực sự với người mácxít giả hiệu. Để lãng tránh và phủ
nhận vấn đề căn cốt ấy của chủ nghĩa Mác, Cauxky xuyên tạc rằng, chuyên chính
vô sản chỉ là “câu cỏn con”, được Mác dùng có một lần hồi năm 1875, trong một
bức thư.
Câu “cỏn con” mà Cauxky nói đến, đó là lời nghị luận của C.Mác trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ
ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”5. V.I.Lênin trích dẫn lời nghị luận nổi tiếng đó của C.Mác và chỉ rõ, đây là lời
nghị luận đã tóm tắt toàn bộ học thuyết cách mạng của C.Mác. Do vậy, coi lời nghị
luận đó chỉ là “một câu cỏn con” là nhạo báng chủ nghĩa Mác, là hoàn toàn từ bỏ
chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin vạch rõ rằng, Cauxky là một người thuộc lòng chủ nghĩa
Mác, do đó không thể không biết rằng C.Mác và Ph.Ăngghen trong các thư từ và
trong các tác phẩm đã xuất bản, đã nhiều lần nói đến chuyên chính vô sản, cả trước
và nhất là sau Công xã Pari. Cho nên, khi Cauxky nói rằng chuyên chính vô sản chỉ
là “một câu cỏn con”, chỉ được C.Mác “dùng một lần”, thì như thế là đã phản bội
chủ nghĩa Mác, đã trở thành “kế làm tôi tớ” cho giải cấp tư sản.

Để xuyên tạc khái niệm chuyên chính vô sản, Cauxky đưa ra “định nghĩa”
rằng: “Chuyên chính có nghĩa là xoá bỏ dân chủ”. V.I.Lênin bác bỏ luận điệu đó
5

. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t 19, tr47.

3


và vạch rõ, chuyên chính không nhất thiết có nghĩa là xóa bỏ dân chủ. Chuyên
chính là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp, bao giờ
cũng có hai mặt gắn liền nhau: chuyên chính đối với giai cấp bị trị và dân chủ đối
vớỉ giai cấp thống trị. Ngay cả thời kỳ chuyên chính tàn bạo nhất trong chế độ
chiếm hữu nô lệ thì cũng không thể thủ tiêu dân chủ đối với giai cấp chủ nô.
V.I.Lênin viết: “Chuyên chính không nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu quyền dân chủ
của giai cấp thi hành quyền chuyên chính đó đối với các giai cấp khác, mà nhất
thiết có nghĩa là thủ tiêu (hay hạn chế về căn bản, như thế cũng là một trong
những hình thức thủ tiêu) dân chủ đối với giai cấp bị chuyên chính hay bị trấn
áp”6
Cauxky phủ nhận cách mạng bạo lực trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính
quyền của giai cấp vô sản bằng cách xuyên tạc rằng, ở C.Mác, chuyên chính của
một giai cấp không nói theo nghĩa đen, mà theo nghĩa là giành đa số một cách
“hoà bình” dưới “chế độ dân chủ”7. Xuất phát từ sự xuyên tạc đó, Cauxky tuyên
bố rằng, chuyên chính vô sản không phải là kết quả của một cuộc cách mạng bạo
lực mà chỉ là một “trạng thái” thống trị, khi giai cấp vô sản, do nắm được đa số
trong tuyển cử mà giành được chính quyền, một trạng thái nhất định phải sinh ra
bằng con đường “dân chủ”. Cauxky còn viện vào khả năng ngoại lệ giành thắng lợi
cho cách mạng bằng phương pháp hoà bình mà C.Mác có nói đến đối với nước Anh
và nước Mỹ trong những năm 70 của thế kỷ XIX, để cho rằng đó mới là quy luật
phổ biến của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

V.I.Lênin vạch ra rằng, dối trá, ngụy biện, xuyên tạc, gian lận, tất cả những
thủ đoạn đó, Cauxky cần đến để “tránh không nói đến cách mạng bạo lực”8, và chỉ
rõ: “Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp

6

. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr295.
. Xem: V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr297.
8
, 9, 10. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr300, 297.
7

4


vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản”9, rằng đó là
“chân lý hiển nhiên đôi với mọi người đại biểu cho những người bị bóc lột đang
đấu tranh để tự giải phóng”10. Bởi, giai cấp tư sản đã nhờ vào bạo lực mà giành
chính quyền từ tay giai cấp phong kiến; giai cấp tư sản là thiểu số trong xã hội, nó
chỉ có thể tồn tại ở địa vị thống trị nhờ có bạo lực. Vận mệnh của nó gắn liền với
bạo lực phản cách mạng. Do đó, ngay sau khi giành chính quyền, giai cấp tư sản
thiết lập một bộ máy nhà nước mà thực chất là một công cụ bạo lực khổng lồ dùng
để trấn áp sự phản kháng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân, duy trì sự
thống trị và bóc lột của chúng. Một bộ máy nhà nước tư sản như vậy không bao giờ
thay đổi bản chất và cũng không bao giờ tiêu vong nếu không dùng bạo lực cách
mạng để phá huỷ nó đi. Cách mạng vô sản không thể thành công được, nếu không
phá huỷ bằng bạo lực bộ máy nhà nước tư sản và thay vào đó một bộ máy mới - bộ
máy chuyên chính vô sản.
Tóm lại, V.I.Lênin viết: “Cauxky đã xuyên tạc một cách chưa từng thấy khái
niệm chuyên chính vô sản, bằng cách biến Mác thành một người thuộc phái tự do

tầm thường, nghĩa là bản thân hắn đã rơi xuống hàng những kẻ thuộc phái tự do,
những kẻ tuôn ra những lời tầm thường vô vị về “dân chủ thuần tuý”, đã tô vẽ và
xoá nhoà nội dung giai cấp của chế độ dân chủ tư sản, đã sợ bạo lực cách mạng
của giai cấp bị áp bức hơn tất cả mọi cái. Trong khi “giải thích” khái niệm
“chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” sao cho gạt bỏ ra khỏi khái niệm
đó việc dùng bạo lực cách mạng của giai cấp bị áp bức đối với những kẻ áp bức,
Cauxky đã giật giải quán quân trên thế giới trong việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác
theo quan điểm của phái tự do”11.
Tuy nhiên, trong khi thừa nhận quy luật phổ biến của cách mạng bạo lực,
những người mácxít không phủ nhận khả năng giành thắng lợi cho cách mạng bằng
9
10
11

, 12. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr304, 300.

5


phương pháp hoà bình. Từ sự phân tích đặc điểm cơ bản về kinh tế và chính trị ở
Anh và Mỹ trong những năm 70 của thế kỷ XIX, C.Mác cho rằng lúc đó giai cấp
công nhân ở những nước này có thể giành thắng lợi cho cách mạng bằng phương
pháp hoà bình.
Còn đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tức chủ nghĩa tư bản độc quyền, do
những đặc tính kinh tế cơ bản của nó, nên “nó tỏ ra rõ ràng ít yêu chuộng hoà bình
nhất và ít yêu chuộng tự do nhất, và chủ nghĩa quân phiệt của nó thì phát triển đến
độ cao và phổ biến nhất”12, thì cách mạng bạo lực là quy luật phổ biến của cách
mạng vô sản.
Ở nước Nga, trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1917 cũng
xuất hiện khả năng cách mạng có thể phát triển hoà bình. Cố nhiên là lúc đó,

V.I.Lênin và đảng bônsêvích chủ trương tranh thủ giành chính quyền bằng con
đường hoà bình để tránh một cuộc nội chiến đổ máu. Nhưng khi khả năng đó không
còn nữa, thì V.I.Lênin và đảng bônsêvích đã kịp thời lãnh đạo giai cấp vô sản và
quần chúng lao động chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Cauxky không chỉ ngụy biện để phủ nhận cách mạng bạo lực trong đấu tranh
giành chính quyền của giai cấp vô sản mà còn biện bạch để phản đối việc giai cấp
vô sản sử dụng phương pháp chuyên chính, sử dụng bạo lực để trấn áp sự phản
kháng bằng bạo lực của giai cấp bóc lột. Cauxky lập luận rằng, những kẻ bóc lột
bao giờ cũng chỉ là một thiểu số không đáng kể trong dân cư. Còn giai cấp vô sản
có đa số rồi, thì chuyên chính để làm gì. Trước sau như một, Cauxky chủ trương
rằng, đa số khi đã là đa số thì không cần phải “đập tan sự phản kháng của thiểu số”,
không cần phải “dùng bạo lực để trấn áp” thiểu số làm gì.
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác và thực tiễn chuyên chính vô sản ở Nga,
V.I.Lênin đã phân tích cụ thể về sức mạnh, về những ưu thế thực tế và lớn lao của
giai cấp bóc lột sau khi đã bị giai cấp vô sản lật đổ về mặt chính quyền nhà nước,
về hy vọng và mưu đồ của chúng hòng chiếm lại cái “thiên đường” đã bị mất, và
12

6


chỉ rõ: “Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản là cả một thời kỳ
lịch sử. Chừng nào mà thời kỳ đó chưa chấm dứt, thì bọn bóc lột nhất định vẫn còn
nuôi hy vọng phục hồi, và hy vọng này sẽ biến thành những mưu đồ phục hồi. Sau
khi bị thất bại nặng nề lần đầu tiên, bọn bóc lột bị lật đổ... lao mình vào cuộc chiến
với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và lòng hận thù tăng
gấp trăm lần, để chiếm lại cái “thiên đường” đã mất” 13. Trước tình trạng đó mà
Cauxky lại đi bàn về đa số và thiểu số, về dân chủ thuần tuý, về sự vô dụng của
chuyên chính thì “phải là ngu xuẩn và philixtanh đến tột độ mới có thể làm được
như vậy”. Đối với câu hỏi của Cauxky: “có đa số rồi, thì chuyên chính để làm gì?”1

V.I.Lênin đã dẫn ra những lời giải thích của C.Mác và Ph.Ăngghen rằng: “Để đập
tan sự phản kháng của giai cấp tư sản; Để làm cho bọn phản động phải khiếp sợ;
Để giữ vững quyền uy của nhân dân có vũ trang chống lại giai cấp tư sản; Để giai
cấp vô sản có thể trấn áp bằng bạo lực các kẻ thù của mình”14.
Thật vậy, sự tồn tại của giai cấp bóc lột ở trong và ngoài nước, những sức
mạnh kinh tế và quân sự của chúng, những hoạt động chống phá cách mạng của
chúng, buộc chuyên chính vô sản phải sử dụng bạo lực để tự bảo vệ. Chức năng
bạo lực của chuyên chính vô sản là do thực tế khách quan quy định, không phải do
ý muốn chủ quan của giai cấp vô sản cầm quyền. Song, những người mácxít ý thức
rõ ràng rằng, bản thân bạo lực không tạo ra được xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, trong khi khẳng định tính tất yếu của chức
năng bạo lực, V.I.Lênin cũng đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của chức
năng tổ chức xây dựng của chuyên chính vô sản, coi đó là chức năng chủ yếu, bởi
xét đến cùng, nhân tố quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới là năng
suất lao động, là việc giai cấp vô sản tổ chức một nền sản xuất có năng suất lao
động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm: “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky”, Lênin không
13

, 14 . V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr320-321, 321.

14

7


chỉ luận chứng, làm rõ, vị trí, tính tất yếu, nhiệm vụ và hình thức của chuyên
chính vô sản mà ông còn, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa chuyên chính với
dân chủ. Đây cũng là nội dung mà Cauxky đã có những quan niệm sai lầm đáng
tiếc. Trái với quan niệm của Cauxky, Lênin khẳng định dân chủ vô sản và chuyên

chính vô sản không mâu thuẫn với nhau mà là hai mặt của vấn đề, luôn có quan
hệ biện chứng, không tách rời nhau; trong đó chuyên chính là cơ sở để mở rộng
dân chủ và chuyên chính càng triệt để, thì dân chủ càng được mở rộng, ngược lại
dân chủ là điều kiện để thực hiện chuyên chính, dân chủ càng rộng rãi bao nhiêu
thì chuyên chính càng triệt để bấy nhiêu.
Như vậy có thể nói rằng: Tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội
Cauxky” của Lênin là tác phẩm nổi tiếng mang tính Đảng, tính khoa học và tính
chiến đấu, thể hiện sự đóng góp to lớn của Lênin trong việc phát triển kho tàng lý
luận chủ nghĩa Mác. Thông qua tác phẩm, Lênin; đã khái quát kinh nghiệm của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại và những kinh nghiệm của một
năm đầu tiên của Chính quyền Xô viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích.
Những luận điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung về chuyên chính vô sản
nói riêng trong tác phẩm trở thành một bộ phận khăng khít của lý luận mác xít về
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó là vũ khí lý luận của những người Mác xít - Lênin
nít trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, là chìa khoá để hiểu bản chất cách
mạng, khoa học của những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung và
về chuyên chính vô sản, cách mạng bạo lực nói riêng; đồng thời cũmg là cơ sở
khoa học để chúng ta hiểu thực chất những luận điệu xuyên tạc, sai trái hiện nay
của kẻ thù đối với cách mạng.
3. Ý nghĩa rút ra từ nội dung nghiên cứu trong tác phẩm
Tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky” của Lênin là tác phẩm
kinh điển, đã để lại một kiểu mẫu điển hình bằng phương pháp bút chiến trong đấu
tranh tư tưởng, lý luận. Những tư tưởng trong tác phẩm có ý nghĩa lịch sử, lý luận
8


và thực tiễn sâu sắc đối với nước Nga, đối với phong trào công nhân quốc tế và đối
với thời đại hiện nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tư tưởng chuyên chính vô sản và cách mạng bạo lực là một trong những
những vấn đề căn cốt này của chủ nghĩa xã hội đã đánh bại chủ nghĩa cơ hội

Cauxky trên nhiều luận điểm, cho đến nay đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh quyết
liệt, không ngừng nghỉ giữa những người cộng sản chân chính với các thế lực cơ
hội, phản bội và phản động đủ màu sắc. Ngày nay, nhiều phần tử cơ hội, phản bội
và phản động vẫn đang lặp lậi những quan điểm cũ rích của Cauxky và các bậc tiền
bối khác của họ nhằm tán dương dân chủ và nhân quyền tư sản, công kích, chống
đối, bôi nhọ chuyên chính vô sản. Họ xuyên tạc bản chất và nội dung của chuyên
chính vô sản, yêu sách từ bỏ chuyên chính vô sản thực hiện cơ chế chính trị tự do
tư sản.
Do đó, tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky với tư tưởng
chuyên chính vô sản và cách mạng bạo lực vẫn còn ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo
và đề ra phương hướng hành động cho các Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa trong cuộc đấu tranh bảo vệ và củng cố chuyên chính vô sản và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ ra con đường đấu tranh dành và giữ chính
quyền bằng bạo lực cách mạng trong điều kiện lịch sử mới; giác ngộ cho giai cấp
công nhân đập tan tư tưởng mơ hồ, ảo tưởng. Đồng thời, chỉ ra phương pháp cách
mạng, nhất là lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cần được bổ sung và phát
triển. Nó vẫn là vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh chồng phá hoại tư tưởng, “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của các sắc lệnh từ trên ban xuống.
Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do
vậy, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại ấy phải xây dựng, hoàn thiện và
thực thi một hệ thống pháp luật mới, khơi dậy nền dân chủ của đại đa số nhân dân
lao động, thu hút họ tham gia thường xuyên, tham gia một cách quyết định vào việc
9


quản lý nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng lợi nếu giai cấp vô sản và nhân dân lao động
biết bảo vệ sự nghiệp cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới theo
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học, đập tan mọi phản kháng của kẻ

thù giai cấp. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản là cả một thời kỳ lịch sử, chừng nào thời kỳ đó chưa chấm dứt,
thì bọn bóc lột nhất định vẫn nuôi hy vọng phục hồi, và hy vọng này sẽ biến thành
mưu đồ phục hồi”15. Trong trường hợp không nắm vững chuyên chính vô sản, vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, đảng cộng sản bị suy yếu, tinh thần cảnh giác
cách mạng bị lơi lỏng, thì nhất định bị kẻ thù ở ngoài nước và bọn phản động trong
nước lợi dụng, kích động quần chúng nhân dân gây bạo loạn để lật đổ chế độ mới.
Vì vậy, nắm vững chuyên chính vô sản, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả vai trò
lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản, phát huy dân chủ của nhân dân
lao động, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng của các Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
4. Vận dụng đấu tranh tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay
Đấu tranh tư tưởng, lý luận là một bộ phận của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu
tranh quyết liệt và phức tạp. Trong tình hình hiện nay, đấu tranh tư tưởng, lý luận
còn là một mặt trận hết sức nóng bỏng, chiếm vị trí hàng đầu của đấu tranh giai cấp
và đấu tranh dân tộc; góp phần đánh bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang tiếp tục đẩy mạnh các chiêu
trò nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây nên các “điểm
nóng”. Tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa được chúng coi là “mũi đột phá”,
hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra “những ly kỵ”
để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào nội bộ cán bộ, đảng viên và nhân dân,
15

. V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t 37, tr388.

10


từng bước chuyển hóa, xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận Cương lĩnh,

đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận
chắc chắn sẽ diễn ra ngày càng gay go, quyết liệt. Để giành thắng lợi trong cuộc
đấu tranh này, chúng ta cần phải tiến hành hàng loạt các giải pháp trên mặt trận tư
tưởng, lý luận; trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh và đối
ngoaị,... Trong đó, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận Chủ
nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta theo quỹ đạo
của chủ nghĩa tư bản phương Tây là vấn đề rất quan trọng.
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá
cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, trá hình. Cùng với các hoạt động
phá hoại vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước trên các phương diện khác, chúng ra sức sử dụng các
phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là Internet, các blog để chuyển tải thông
tin, quan điểm sai trái, thù địch và móc nối, tổ chức lực lượng chống đối Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin từ khi ra đời đến
nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững
của nó. Nhiều chính khách, nhà khoa học ở cả trong và ngoài nước có những bài
thuyết trình, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học khẳng định chủ nghĩa MácLênin vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Một số
học giả tư sản đã thừa nhận, tinh thần của C.Mác vẫn tỏa sáng và dù muốn hay
không người ta vẫn phải dựa vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có
thể phân tích đúng những khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản và sự tiến bộ của
loài người trong thế giới đương đại.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính
xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo
11


cách mạng Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách

mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”16. Theo Người, chủ nghĩa Mác-Lênin không những
là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà
báo Pháp Sác-lơ Phuốc-niô ngày 15-7-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh
rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không
gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin”17.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ 19 đến nay cho thấy, sở dĩ
dân tộc ta giành được những thành quả lớn lao trong các cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt
vì nhân dân ta giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải của mình,
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; mặt khác là nhờ vào đường lối lãnh đạo đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị và bản lĩnh lãnh đạo thể
hiện ở đường lối, chính sách, ở chiến lược và sách lược trong suốt chiều dài lịch sử
86 năm qua.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ tiếp tục khẳng định con đường xã hội chủ
nghĩa, mà đưa vào Văn kiện này những nội dung mới phù hợp với xu thế lớn của
thời đại. Đó là xu thế “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”,
đồng thời, Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay gắt trên thế
giới và khu vực. Đó là gần đây đã xuất hiện nhiều loại hình chiến tranh mới, rất đa
dạng, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, chiến tranh ủy nhiệm, can thiệp
quân sự từ bên ngoài kết hợp với các hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ từ bên trong,... Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự cạnh tranh chiến lược
16
17

. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, t.2. tr.268.
. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, t.12. tr.476, 554.


12


giữa các nước lớn sẽ tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn
ra phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Những nguy cơ, thách thức mà Đảng ta đã cảnh
báo vẫn tồn tại. Các thế lực thù địch cấu kết với bọn phản động trong nước và nước
ngoài tăng cường các hoạt động chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa
bình” với những thủ đoạn, hình thức mới hết sức thâm độc, nguy hiểm.
Thời gian gần đây, trên một số trang mạng xã hội, có cá nhân, thậm chí có
những người dưới danh nghĩa đảng viên “trung thành” viết và phát tán trên mạng
internet “Thư ngỏ” với những hình thức khác nhau, nhiều quan điểm sai trái, phê
phán, thậm chí xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ
cho rằng: “Công cuộc đổi mới gần 30 năm… vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn
trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”. Họ “kiến nghị” thay đổi Cương lĩnh
của Đảng, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang
đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị
sang dân chủ, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng… Đặc biệt, bọn chủ nghĩa cơ hội,
xét lại hiện đại còn xuyên tạc vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là không có dân chủ, nhà nước pháp quyền là của giai cáp tư sản…
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn có thể khẳng định, “những kiến nghị” mà
một số người đưa ra không có gì mới và xa lạ với thực tiễn của công cuộc đổi mới
đất nước suốt 30 năm qua của nhân dân ta. Chúng ta cũng không phủ nhận, trong
nhiều năm qua, xã hội ta vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề kinh tế, xã hội chưa được giải
quyết như xu hướng phân hóa giàu - nghèo chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Đời
sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, công nhân ở
nhiều khu công nghiệp còn nhiều khó khăn; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên các cấp dẫn đến làm suy
giảm lòng tin của nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Đảng ta chỉ rõ: Nước ta
vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, diễn biến phức tạp.

13


Tình trạng suy thái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng,… Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến
phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây
bạo loạn, sử dụng các chiêu bài “dân chủ, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta”18. Điều đặc biệt chú ý là trong xây dựng chỉnh đốn Đảng cần
xác định, chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng được xem như
một nội dung liên quan trực tiếp tới vận mệnh của Đảng và quyết định đến thành
công của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, chống sa
vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn
minh”. Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là “địch nội xâm”, một trong những
nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng. “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên
trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”19. Nếu ai đó cho rằng, thể chế
hiện nay là “độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ, chia rẽ dân tộc” và kiến nghị
thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
chẳng những họ đã xuyên tạc lịch sử, mà còn là một sai lầm nghiêm trọng về tư
tưởng, chính trị. Như chúng ta đều biết, sở dĩ Việt Nam trụ vững sau sự kiện Liên
Xô tan rã, Hoa Kỳ bao vây, cấm vận, đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân được
cải thiện, chủ quyền quốc gia được giữ vững là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về tư tưởng, chính trị, việc một số người kêu gọi
thay đổi Cương lĩnh có nghĩa là xóa bỏ mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành một
xã hội “…Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; là xóa bỏ chế độ
xã hội do “nhân dân làm chủ” với “Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
18


19

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.29, 173.

. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.5, tr.238-239.

14


dân, vì nhân dân”. Hơn nữa, điều này cũng có nghĩa là xóa bỏ cả quyền con người
và quyền công dân được Cương lĩnh năm 2011 ghi nhận, đặc biệt được quy định tại
Chương II, Hiến pháp năm 2013. Về kinh tế, việc kêu gọi xóa bỏ Cương lĩnh cũng
có nghĩa là xóa bỏ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối...”.
Về đối ngoại và quốc phòng, an ninh, họ kêu gọi xóa bỏ Cương lĩnh cũng có
nghĩa là xóa bỏ đường lối “Đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế…”; là xóa bỏ đường lối quốc phòng - an ninh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Cương lĩnh năm 2011 đã xác
định. Nếu đi theo con đường mà một số người kiến nghị: “Chuyển hẳn sang đường
lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân
chủ”… thì kịch bản và hậu quả sẽ như thế nào? Họ không hề quan tâm đến sự khác
biệt về văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc,
vùng miền. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang muốn phủ lên các quốc
gia, dân tộc đang phát triển “làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây”,
buộc mọi người phải thừa nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương
Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất. Sự giáo điều về lý luận ấy đã và đang hợp lý
hóa các hành vi bạo lực “đánh trước”, “đánh phủ đầu” nhằm “phòng, chống, ngăn
chặn chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây”,

kể cả chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Sự thật về lòng “trung thành” của những ai đó đã và đang tung ra luận thuyết
“dân chủ không biên giới”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và coi đó là chuẩn
mực để thực hiện “chủ nghĩa can thiệp mới” và sẵn sàng đổi trắng thay đen. Trong
những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến một số thành công của mô hình “thúc
đẩy xã hội dân sự” lật đổ chế độ chính trị ở một số quốc gia Đông Âu, Trung
15


Đông,... bằng các cuộc “cách mạng màu”. “cách mạng hoa”, “cách mạng đường
phố” bắt nguồn từ các “xã hội dân sự”. Lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra
nhiều hội, nhóm không đúng quy định pháp luật, gây khó khăn cho công tác quản
lý nhà nước của các cơ quan chức năng, thậm chí trá hình, hoạt động chống Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Thử hỏi, nếu họ là những cán bộ, đảng viên “trung thành” thì
tại sao có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng lại không trình
bày tại các hội nghị nội bộ Chi bộ, Đảng bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt Đảng mà lại tùy tiện phát tán tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng trong và ngoài nước; đảng viên phải chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định
của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
Những việc làm trên có thể chứng minh rõ ràng rằng, họ tìm mọi phương cách
nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta;
tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây “điểm nóng” về xung đột, gây rối loạn tình hình
chính trị, xã hội và khi có điều kiện thì xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Việc can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
thể hiện ở việc, họ viện dẫn với các màn kịch nhiều hồi, nhiều lớp, với lý do “chăm
lo cho xây dựng nền dân chủ, đem lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam,...”.
Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” chỉ là một trong những
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đã và đang áp dụng
nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế
độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết “dân chủ, nhân quyền
kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của
Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản. Họ sử dụng
chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích từng bước phá hoại Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, không thừa nhận chế độ xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm gắng sức xây đắp nên. Họ
16


cũng cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “thiếu nền dân chủ”, “vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo”, lấy đó làm cớ để tuyên truyền sai lệch, nhằm kích động
những phần tử bất mãn, phản động chống đối Đảng, Nhà nước ta, tiến tới phủ nhận
con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh để tự bảo vệ
mình, tự giải phóng mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy, đương nhiên, nhân dân Việt Nam sẽ biết nhìn
nhận ai là bạn, ai là thù. Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý,
không ai có thể dùng ý muốn chủ quan để áp đặt. Công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo 30 năm qua đã thu
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất nước Việt Nam
ngày càng được nâng cao, đời sống của nhân dân Việt Nam ngày càng được cải
thiện. Khách quốc tế, bạn bè khắp năm châu đến Việt Nam đều thấy một sự thật:
Đất nước Việt Nam đã thay da đổi thịt, dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa
thật sự khá giả, song chính trị - xã hội của đất nước luôn ổn định, cuộc sống thật sự
có hòa bình, tự do, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ
nhân của đất nước.
Ngày nay, các thế lực thù địch tiếp tục không từ một thủ đoạn nào để chống
phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta, chống phá Đảng, chống phá chế độ ta. Còn
đối với những cán bộ, đảng viên có ý kiến khác với đường lối, quan điểm của

Đảng, đây là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chúng ta cũng phải đấu tranh, phê
phán, làm rõ đúng - sai thông qua đối thoại, trao đổi, tọa đàm, thuyết phục trên tinh
thần đồng chí, tăng cường đoàn kết, đồng thuận, không đẩy họ về phía các thế lực
thù địch mà cố gắng lôi kéo họ về phía chúng ta; chúng ta phê phán quan điểm sai
chứ không phê phán con người, xúc phạm, đả kích cá nhân.
Đấu tranh với các quan điểm sai trái, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng,
17


chúng ta cũng phải đánh giá nhìn nhận một cách khách quan, nghiêm túc, xem lại
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có chỗ nào không đúng, còn khiếm
khuyết cần phải sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện; những nội dung nào thực hiện chưa
tốt cần phải chấn chỉnh, thực hiện tốt hơn để giải tỏa bức xúc của nhân dân và cán
bộ, những nội dung nào có vấn đề hoặc chưa rõ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để
bổ sung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó hoàn thiện chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Như vậy, sự phê phán đã chuyển thành tự phê phán, sự phê
phán tiêu cực đã chuyển thành phê phán tích cực.
5. Liên hệ nhiệm vụ quân đội và trách nhiệm bản thân
Nằm trong chiến lược tổng thể của “diễn biến hòa bình”, để thực hiện âm mưu
“phi chính trị hóa quân đội”, kẻ thù rất coi trọng phá hoại ta trên lĩnh vực tư tưởng,
lý luận. Mục tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên lĩnh vực này là phủ nhận quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản
chất cách mạng, mục tiêu, lí tưởng chiến đấu cao cả của quân đội ta và gieo rắc,
truyền bá các quan điểm tư sản sai trái phản động về “quân đội trung lập”, “quân đội
phi giai cấp”, làm cơ sở biện minh cho việc tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với
quân đội, gây tâm lý hoang mang, dao động trong cán bộ, chiến sĩ. Âm mưu tạo ra
những yếu tố làm mất ổn định trong quân đội tiến tới làm suy yếu về chính trị, vô
hiệu hóa quân đội.
Bản chất của “Phi chính trị hóa” quân đội là làm cho quân đội vô sản trở thành
một quân đội tư sản. Cái mà các thế lực thù địch rêu rao rằng, quân đội phải trung

lập, phải đứng ngoài chính trị chỉ là cái “bánh vẽ” để lòe bịp. Quân đội bao giờ
cũng là một tổ chức vũ trang, gắn liền với một tập đoàn người, một giai cấp, một
nhà nước, một kiểu chế độ chính trị nhất định. Không có quân đội nào đứng ngoài
chính trị và vô chính trị. Quân đội được sinh ra là để thực hiện mục tiêu chính trị
của giai cấp đã tổ chức ra nó. Lĩnh vực mà quân đội hoạt động - lĩnh vực đấu tranh
vũ trang - cũng xuất phát từ mục tiêu chính trị và phục vụ cho mục đích chính trị.
Đến lượt nó, bản thân quân đội cũng là một lực lượng chính trị, cái khác là ở chỗ,
18


đó là lực lượng chính trị được tổ chức, chỉ huy chặt chẽ, được vũ trang đầy đủ mà
thôi. Do đó, nếu quân đội không chiến đấu vì mục tiêu chính trị này thì thay vào đó
sẽ là một mục tiêu chính trị khác; không đặt dưới sự lãnh đạo của một chính đảng
vô sản, tất yếu sẽ chịu sự lãnh đạo của đường lối chính trị tư sản. Như thế, bản chất
của cái gọi là “phi chính trị hóa” quân đội không gì khác hơn là làm biến chất quân
đội của chúng ta, nhằm làm cho một quân đội của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một quân đội tư sản, chống lại quyền
lợi của nhân dân lao động, bảo vệ quyền lợi của các thế lực thù địch.
Những năm qua, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội đã đi trước một
bước trong việc góp phần cung cấp luận cứ khoa học để Đảng, Nhà nước xây dựng
các quan điểm, chủ trương, chính sách về quân sự, quốc phòng và vận dụng vào
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và xây
dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân trong điều kiện mới. Công
tác tư tưởng, lý luận trong quân đội đã nhạy bén và đi đầu kiên quyết đấu tranh
chống lại những quan điểm, nhận thức mơ hồ, sai trái, những luận điệu phản động
của các thế lực thù địch trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.
Tuy nhiên, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội những năm qua cũng còn
có những hạn chế. Đó là sự chủ quan, giản đơn của một số cấp ủy, chất lượng và
hiệu quả ứng dụng các công trình nghiên cứu còn khiêm tốn, tính chủ động và sắc

sảo, tính thuyết phục trong đấu tranh tư tưởng, lý luận chưa thật cao. Việc giáo dục
lý luận còn rập khuôn máy móc, có biểu hiện chạy theo thành tích, chưa thực sự
linh hoạt, sáng tạo.
Do vậy, đấu tranh với các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận
chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có tầm quan trọng đặc biệt và là mặt
trận xung yếu, nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống âm
mưu “phi chính trị hóa quân đội” hiện nay là: cùng với việc đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng, văn hóa nói chung của toàn Đảng, quân đội ta phải hết sức coi trọng, góp
19


phần đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan
nhượng vạch trần bản chất phản động chính trị, phản động khoa học của âm mưu
“phi chính trị hóa quân đội”. Những luận điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội
phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn; thực chất là từ
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta, hòng chuyển hóa lập trường chính
trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, cần tiếp tục khẳng định:
Bản chất của chiến tranh không thay đổi trong điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng
thâm nhập, liên kết, ràng buộc đan xen lợi ích lẫn nhau. Trong từng quốc gia dân
tộc vẫn xác định sức mạnh quân sự quốc gia có ý nghĩa quyết định đến nền hòa
bình của đất nước. Mối quan hệ giữa đối tác, đối tượng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có bước phát triển mới. Có tư duy thực tiễn sắc
sảo để nhận rõ kẻ thù của cách mạng Việt Nam, đối tượng tác chiến của quân đội,
đồng thời phân tích rõ bản chất quân đội nhà nghề của chủ nghĩa tư bản để bộ đội có
nhận thức và hành động đúng đắn, nhất là trong điều kiện quân đội ta tham gia làm
nhiệm vụ quốc tế, tang cường công tác đối ngoại quân sự, quốc phòng...
Để tiến hành đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính

trị hóa quân đội” có hiệu quả, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tích cực đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; chú trọng và
thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận trong quân đội có đủ
phẩm chất, năng lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh với kẻ thù trên mặt trận tư tưởng,
lý luận. Công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần đắc lực trong việc xây dựng, nâng
cao bản lĩnh chính trị cho bộ đội ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho họ đủ sức “đề kháng”
và tự “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Là người cán bộ đảng viên, sĩ quan trong quân đội, đồng thời là một cán bộ
khoa học tương lai, bản thân tôi luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn
20


các nội dung trên để trong hoạt động thực tiễn tránh những sai lầm cả về nhận thức
và hành động.
Chúng ta cần nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới đó
là: bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
trong mọi tình huống; xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố
nền an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện và “thế trận lòng dân” vững chắc, ngăn
ngừa đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, không để bị động bất ngờ, góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là việc làm trọng yếu thường
xuyên, liên tục. Do vậy cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội không bao giờ lơ là mất cảnh
giác trước mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, dẫn đến “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ từng đơn vị. Tích cực đấu tranh phán bác
các quan điểm sai trái trong đó có quan điểm phi chính trị hóa quân đội, xuyên tạc để
che dấu hoặc xóa nhòa bản chất quân đội và bản chất giai cấp của quân đội cách
mạng. Từng quân nhân và toàn quân luôn thống nhất ý chí và hành động sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống vì mục tiêu lý tưởng của Đảng
và nhân dân ta; thực hiện quyết tâm chính trị tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ

quốc và nhân dân, “phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ
Hồ” xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

21



×