Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHIẾN TRANH và QUÂN đội ý NGHĨA đối với VIỆC xây DỰNG QUÂN đội VỮNG MẠNH về CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.44 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là một trong những nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong tư tưởng quân sự
của Người nói riêng. Là sự đúc kết tinh hoa văn hoá quân sự Việt Nam và tinh
hoa văn hoá nhân loại. Đồng thời thể hiện sự kế thừa phát triển truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc lên một tầm cao mới. Trên cơ sở tích lũy các tư liệu,
kinh nghiệm trực quan thông qua hoạt động thực tiễn tìm đường cứu nước, Người
đã khái quát nâng lên thành lý luận cách mạng và giải quyết thành công hàng loạt
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận dụng, phát
triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh
và quân đội nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn chiến tranh
giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và vấn đề tổ chức và xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Lịch sử 86 năm dưới ánh sáng của Đảng, của tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, có ý nghĩa to
lớn không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà còn có ý nghĩa to lớn đối với cách
mạng thế giới. Hồ Chí Minh nghiên cứu và nắm vững tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội cùng với thực tiễn sinh động của cách
mạng thế giới, Người đã vạch trần bản chất, tính chất chính trị xã hội của cuộc
chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người làm rõ
nguồn gốc, bản chất của quân đội, từ đó Người cùng với Đảng ta sáng lập, rèn
luyện, giáo dục Quân đội nhân dân Việt Nam thành quân đội của dân, do dân, vì
dân. Với tư tưởng cách mạng và khoa học của Người, cuộc chiến tranh của nhân
dân Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh chính nghĩa, quân đội nhân dân Việt
Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản thực sự là công cụ bạo lực sắc bén
của Đảng của Nhà nước trong sự nghiệp chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

1



Tuy nhiên, sau khi Liên xô và hệ thống XHCN ở Đông âu sụp đổ, chủ
nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp. Với bản chất hiếu chiến xâm lược và tham vọng sen đầm quốc tế, chủ
nghĩa đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ luôn tìm mọi cách xoá bỏ chế độ
XHCN ở các nước còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Nhân danh
chống khủng bố, nhân đạo, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và núp dưới danh
nghĩa liên hiệp quốc, đế quốc Mỹ luôn tìm mọi cách quốc tế hoá các cuộc chiến
tranh nhằm che đậy bản chất xâm lược, hiếu chiến của chúng, che đậy bản chất,
tính chất phi nghĩa phản động của các cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành, đồng
thời chúng luôn xuyên tạc, phủ nhận vai trò chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong đó có tư tưởng về chiến tranh và quân đội.
Từ thực tiễn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới,
Đảng ta đã chỉ rõ: “Thế kỷ XXI được thế giới coi là “thế kỷ của đại dương”.
Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng
chiến lược biển. Khu vực Biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị trí
địa kinh tế, địa chính trị rất quan trọng....”[3, 70]. Ngày nay, Biển Đông cùng
các đảo vẫn còn diễn ra các tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa
các quốc gia, nơi tiềm ẩn những bất trắc khó lường, đang là thách thức đe dọa
đến chủ quyền lãnh thổ, an ninh của nước ta trên biển. Do đó, vấn đề đang đặt ra
nhiệm vụ mới cho quân đội là phải bảo vệ vững chắc chủ quyền cả trên “biển”
và trên “bờ” tạo ra môi trường hoà bình và ổn định để phát triển kinh tế - xã hội,
khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có của đất nước phục vụ cho công cuộc
xây dựng phát triển đất nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, hơn lúc nào hết phải nghiên cứu, học tập, quán triệt nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội, làm
cơ sở vạch trần bản chất, âm mưu thủ đoạn của chúng, từ đó có biện pháp xây
dựng quân đội vững mạnh mọi mặt, trong đó xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị làm cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới.
Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận tập trung đi sâu phân tích một số nội dung về:


2


“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội trong xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị hiện nay”.
NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh và quân đội
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội
Với khát vọng giành độc lập tự do cho Tổ quốc, mang lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về chiến tranh và quân đội nói riêng. Chủ
nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí lý luận của
giai cấp vô sản trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thoát
khỏi áp bức bóc lột. Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách đúng đắn,
khoa học về hiện tượng chiến tranh và quân đội. Đã vạch rõ nguồn gốc bản
chất, tính chất xã hội của chiến tranh,các quy luật cơ bản quyết định tiến trình và
kết cục của chiến tranh…vạch rõ nguồn gốc, bản chất của quân đội, các tiềm lực
tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội, chức năng quân đội. Thông qua sự
nghiên cứu tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước
nhận biết các quy luật khách quan của lịch sử, thấu hiểu ý nghĩa và giá trị của
chủ nghĩa Mác -Lênin, đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn cách mạng, tự
mình hoạch định chiến lược giải phóng dân tộc, tiến hành chiến tranh phù hợp
đặc điểm và điều kiện cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có tư tưởng về chiến tranh và quân đội
như cái cẩm nang thần kỳ đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người cộng
sản chân chính, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam và nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng mà không có chủ

nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam, chủ nghĩa
chân chính nhất chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-

3


Lênin"[5,10]. Và Người còn khẳng định: "Đảng ta có chủ nghĩa Mác-Lê nin là
chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất"[11, 85]. Như vậy, việc bắt gặp thế giới
quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
đó những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi mà bấy lâu Người
nung nấu tìm tòi. Điều đó khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận trực
tiếp cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội. Chỉ có
chủ nghĩa Mác-Lênin mới vạch ra con đường đúng đắn, khoa học để giải phóng
giai cấp, nhân loại ra khỏi áp bức bóc lột.
Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh và quân đội còn là sự kế thừa kinh nghiệm truyền thống đánh giặc ngoại
xâm của ông cha ta và tinh hoa tư tưởng quân sự của nhân loại.
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng
nước đi đôi với giữ nước. Chính từ thực tiễn sinh động đó đã hun đúc truyền
thống và kinh nghiệm quý báu, trở thành những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của
quá trình hình thành và phát triển của dân tộc ta. Là một nước canh tác thuần
nông, với điều kiện khí hậu phức tạp, cho nên quá trình hình thành và phát triển
của dân tộc Việt Nam luôn phải đấu tranh với kẻ thù xâm lược, với thiên nhiên
để sinh tồn. Vì vậy, ông cha ta đã sáng tạo nên những kinh nghiệm truyền thống
đánh giặc quý báu với sức mạnh của mọi người, mọi lực lượng tham gia. Nét nổi
bật của ông cha ta là lấy dân làm gốc, tập hợp lực lượng ở quần chúng nhân dân,
trong thời bình cũng như trong thời chiến luôn chăm lo cho dân, giáo dục, rèn
luyện, tập luyện cho dân biết đánh giặc trong khả năng và điều kiện của mình;
luôn nêu cao đạo lý chính nghĩa đã tạo nên sức mạnh toàn dân, tạo nên đạo lý
của dân tộc: đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo.

Những kinh nghiệm truyền thống quý báu về nghệ thuật chiến tranh độc đáo đó
đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên tầm cao mới đó là tư tưởng về
chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tư tưởng về phát huy
sức mạnh tổng hợp, về xây dựng sức mạnh quân sự quốc gia và tư tưởng về
cuộc chiến tranh chính nghĩa.

4


Người còn kế thừa kinh nghiệm nghệ thuật dựng binh và dùng binh của
ông cha ta trong việc tập hợp lực lượng, chọn và sử dụng hiền tài; cách tổ chức
quân đội với các thứ quân khác nhau, thực hiện chính sách khen thưởng và xử
phạt nghiêm minh; nghệ thuật nắm bắt và đánh giá tình hình, chế tạo vũ khí, tìm
cách đánh phù hợp để giành thắng lợi, đặc biệt là nghệ thuật quân so sánh và
chuyển hoá lực lượng của ông cha ta, thể hiện nét độc đáo: "lấy nhỏ thắng lớn",
"lấy ít địch nhiều", "toàn dân vi binh", "dĩ đảm chế trường…". Các kinh nghiệm
quý báu đó được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển thành tư tưởng chiêu hiền
đãi sỹ, tuyển chọn người tài, tập hợp lực lượng chống giặc, tổ chức xây dựng
quân đội kiểu mới với 3 thứ quân; tư tưởng về so sánh lực lượng, phân hoá làm
suy yếu kẻ thù, nghệ thuật tạo thời cơ, chọn thời cơ tiến hành chiến tranh giành
thắng lợi; mặt khác còn hình thành ở Người tư tưởng công tác thương binh tử sĩ
và hậu phương quân đội, khen thưởng biểu dương những người có công, xử phạt
nghiêm minh với kẻ có tội, xây dựng kỷ luật nghiêm minh trong quân đội.
Mặt khác, Hồ Chí Minh còn nghiên cứu kỹ và tiếp thu có chọn lọc những tư
tưởng chiến tranh, xây dựng quân đội của các nước trên thế giới, đặc biệt là tư
tưởng quân sự truyền thống Á đông. Người nắm và kế thừa những tư tưởng quý
trong 13 chương của binh pháp Tôn Tử, Người đánh giá: "Nguyên tắc của Tôn Tử
chẳng những dùng về quân sự đúng mà dùng về chính trị cũng rất hay"[8, 519].
Khi phân tích chương 3 "đánh bằng mưu", Người viết: "Cho nên: biết sức ta, biết
sức địch thì trăm trận đều thắng. Biết sức ta mà không biết sức địch thì 1 thắng 1

bại. Không biết ta không biết địch thì trận nào cũng thua"[8, 519].
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tổng kết các kinh nghiệm chiến tranh du
kích của Trung Quốc, Pháp, Nga trong thời kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Khi
nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, trong lời hiệu triệu Người viết: "Kinh
nghiệm của Trung Quốc bày cách thực hành trường kỳ kháng chiến và toàn dân
kháng chiến bằng quân sự (dũng cảm, kỷ luật) bằng chính trị (đoàn kết trật tự),
bằng kinh tế (tăng gia sản xuất), bằng ngoại giao (thêm bạn, bớt thù), trước hết
là bằng tinh thần: Bại không nản, thắng không kiêu, thua trận này đánh trận
khác, được trận này không chểnh mảng, chung sức, đồng tâm, nhất trí, giữ gìn
trật tự, tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ"[7, 188].

5


Trên cơ sở kế thừa và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm truyền
thống chiến tranh giữ nước của dân tộc và những tinh hoa quân sự nhân loại,
trong đó nhân tố trực tiếp quyết định sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh và quân đội là sự tổng kết thực tiễn đấu tranh cách mạng ở
nước ta. Quá trình hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tổ chức xây dựng lực lượng để tiến hành vũ trang. Ngay sau
khi thành lập Đảng, Người tuyển chọn những thanh niên ưu tú đi đào tạo ở nước
ngoài, sau đó về nước là những cốt cán tuyên truyền vận động quần chúng nhân
dân xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Giai đoạn 2: Tiến hành chiến tranh giải phóng. Giai đoạn này Người tập
trung giải quyết vấn đề chuyển hoá lực lượng, giành thắng lợi từng bước, đỉnh
cao chọn điểm quyết chiến chiến lược giành thắng lợi hoàn toàn.
Giai đoạn 3: Giai đoạn bảo vệ Tổ quốc. Người phát triển lý luận về bảo
vệ Tổ quốc, bước đầu hình thành lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
chiến tranh nhân dân.
Tóm lại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận

dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và
quân đội, áp dụng vào thực tiễn chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời thể hiện sự kế thừa
và phát triển những kinh nghiệm truyền thống quý báu đánh giặc giữ nước của
dân tộc ta, tinh hoa quân sự nhân loại lên một tầm cao mới.
1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
tranh và quân đội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội được thể hiện trên
những vấn đề cơ bản sau:
* Về chiến tranh: Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh
đã luận giải một cách đúng đắn khoa học về bản chất, quy luật của chiến tranh
và sự tác động của nó đến đời sống xã hội. Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa
tư bản, của bọn đế quốc thực dân, Hồ Chí Minh thấy rằng: ở đâu dù chính quốc
hay thuộc địa thì giai cấp tư sản với mọi âm mưu thủ đoạn xảo trá, chúng bóc

6


lột, hà hiếp quần chúng nhân dân lao động nhằm vơ vét cho lợi ích của chúng.
Một mặt, chúng bóc lột nhân dân lao động ở chính quốc, mặt khác chúng ra sức
khai thác, vơ vét của cải ở thuộc địa. Chính sự phát hiện này, Hồ Chí Minh đã
ví: "Chủ nghĩa đế quốc như con đỉa có hai cái vòi, một cái vòi bám vào giai cấp
công nhân ở chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, muốn giết con vật này phải
đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó"[4, 298]. Rõ ràng sự ăn bám này đã dẫn đến
giai cấp vô sản, quần chúng nhân dân lao động ngày càng bần cùng, cuộc sống
khổ sở, bị chúng trà đạp lên phẩm giá con người. Với bản chất của chúng như
vậy, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: "Ngày nào còn bọn đế quốc thì nguy cơ chiến
tranh vẫn còn"[10, 20]. Khi phân tích và luận giải, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ
mặt thật của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa. Người phê phán, vạch mặt cái gọi là
khai hoá văn minh của thực dân Pháp, thực chất là sự bóc lột, đầu độc, dùng

chính sách ngu dân, Người viết: "Họ coi người An Nam như những súc vật phải
điều khiển bằng roi vọt"[4, 364]. Trên lĩnh vực giáo dục, thực dân Pháp không
chú ý đến xây dựng trường học, chỉ xây dựng một ít trường học để đào tạo phục
vụ cho lợi ích của nước Pháp, chúng chỉ dùng thuốc phiện, rượu để đầu độc
người dân: "Nên chú ý rằng lúc đó trong 1000 làng đã có 1500 đại lý rượu và
thuốc phiện mà trường học thì vẻn vẹn chỉ có 10 cái, mỗi năm người ta đã đầu
độc dân bản xứ cả đàn bà lẫn trẻ con bằng 23 tới 24 triệu lít rượu và hơn
100.000 ki lô gam thuốc phiện"[4, 385]. Điều đó thấy rõ bản chất cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Pháp, ở đây thực ra là sự áp đặt chế độ thống trị bóc
lột của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa mà thôi.
Người phân tích và vạch mặt cuộc chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của Mỹ
ở Đông Dương. Với bản chất thống trị bóc lột, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ ra sức đàn áp đồng bào Miền Nam, chúng dựng nên chính phủ bù nhìn
để đàn áp, bắn giết vô cớ đồng bào Miền Nam chúng muốn áp đặt nền văn minh
kiểu Mỹ đối với Việt Nam, làm cho nhân dân ta sống trong nỗi khổ cực. Người
chỉ rõ: "Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi Miền Nam nước ta
chưa giải phóng được ách thống trị tàn bạo của Mỹ diệm thì nhân dân ta chưa
thể ăn ngon ngủ yên được"[4, 385]. Người luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của các

7


Đảng cộng sản và coi cuộc đấu tranh vì hoà bình là nhiệm vụ hàng đầu của
mình, coi đó là cuộc đấu tranh cho chính nghĩa, cho hoà bình và an ninh của tất
cả các dân tộc trên thế giới, coi cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa
Mác-Lênin là giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại ra khỏi sự áp bức bóc lột
và bất công, mang lại ấm no tự do hạnh phúc cho mọi người.
Mặt khác, nghiên cứu quá trình tiến hành chiến tranh, Hồ Chí Minh khẳng
định quy luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Song, mạnh ở đây theo
Người phải đánh giá đầy đủ, toàn diện trên tất cả các mặt, và luôn quan tâm đến

sự chuyển hoá trong sức mạnh để tiến hành chiến tranh, đặc biệt là sự chuyển
hoá giữa thế, thời và lực; chỉ ra mối liên hệ giữa thế, thời, lực và khái quát thành
những vấn đề có tính quy luật. Sự khái quát trong bài thơ "Học đánh cờ" thể
hiện tư tưởng quân sự của Người về tính kiên quyết, quyết đoán, chọn thời cờ:
"Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ. Kiên quyết không ngừng thế tiến công. Lạc
nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công. Vốn trước hai bên
ngang thế lực. Mà sau thắng lợi một bên giành. Tấn công phòng thủ không sơ
hở. Đại tướng anh hùng mới xứng danh"[6, 287].
Từ đặc điểm, điều kiện và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc,
với tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo, Hồ Chí Minh khẳng định chiến tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân. Đây là một trong
những di sản quý báu của Người và được thể hiện sâu sắc trong lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực
dân Pháp cứu nước"[7, 480]. Qua đó thể hiện rõ mọi lực lượng tham gia không
phân biệt tầng lớp, giai cấp, tôn giáo nào. Với tất cả các loại vũ khí trang bị có
thể có được, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với vũ khí trang bị;
cho dù gươm giáo, cuốc thuổng, gậy gộc nhưng có ý chí quyết tâm và tinh thần
yêu nước thì sẽ bảo vệ được nền độc lập tự do của Tổ quốc, điều này càng làm

8


phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng chiến tranh của chủ nghĩa Mác-Lênin trong
điều kiện cụ thể.
Mặt khác, cuộc chiến tranh nhân dân theo tư tưởng của Người không chỉ
riêng về mặt quân sự mà bao gồm tất cả các lĩnh vực khác. Người chỉ rõ:
"Nhưng chiến tranh ngày nay, không những riêng về mặt quân sự mà bao gồm

cả chính trị, kinh tế, ngoại giao"[7, 250].
Tư tưởng về chiến tranh nhân dân Người còn thể hiện rõ trong thư kêu gọi
tổng khởi nghĩa: "Hiện nay quân Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn
khắp nước Việt Nam độc lập đồng minh (việt minh), có hàng chục triệu đội viên
gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh; gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ,
Nùng, Mường, Mán. Trong việt minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ không
phân việt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu nghèo"[6, 101]. Điều này càng thể
hiện rõ tính chất, đặc điểm, lực lượng và sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
Người còn khẳng định vai trò nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh
nhân dân, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng; mỗi khi được giáo dục, được giác
ngộ, toàn dân nhất tề đứng lên giết giặc thì không có thế lực nào ngăn cản được:
"Mặc dù quân Pháp có đủ khí giới tối tân, tôi biết chắc chúng không bao giờ
cướp được nước chúng ta đâu. Từ Nam chí Bắc đồng bào ta luôn luôn sẵn sàng.
Mấy triệu người như một, quyết tâm đánh tan quân cướp nước. Không quân đội
nào, không khí giới nào có thể đánh giá được tinh thần hy sinh của toàn thể dân
tộc"[7, 77]. Như vậy, cho dù khó khăn nhưng với ý chí quyết tâm cao, đoàn kết
chặt chẽ, đồng sức đồng lòng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, điều đó thể hiện sự
chuyển hoá yếu tố tinh thần thành sức mạnh vật chất. Do vậy, theo Hồ Chí
Minh, muốn cuộc chiến tranh giành thắng lợi trước hết phải lấy được lòng dân,
tập hợp được lực lượng, xây dựng được ý chí quyết tâm, tinh thần quả cảm, sẵn
sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Người còn khẳng định tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước,
đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiẻm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và bè lũ cướp nước"[6, 553].

9



Như vậy, trên lập trường duy vật biện chứng và sự nhạy bén sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm rõ bản chất, quy luật
của chiến tranh, chỉ ra tính chất xã hội của chiến tranh; đặc biệt là tư tưởng về
chiến tranh nhân dân - một trong những di sản quý báu của Người. Khi đề cập
đến chiến tranh, chính những tư tưởng cách mạng và khoa học cùng với thiên tài
thao lược, Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân giành độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc ta.
* Về quân đội: Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất
yếu lịch sử, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trên cơ
sở nghiên cứu và nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững đặc điểm
xã hội và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định: Để xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng, từ lực lượng chính trị mà phát triển thành lực lượng quân sự, từ đấu tranh
chính trị mà chuyển thành đấu tranh quân sự.
Mặt khác, Hồ Chí Minh đi sâu phân tích bản chất của chủ nghĩa thực dân
và Người sớm chỉ ra rằng: Chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Sức mạnh vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng sức mạnh vật chất. Vì vậy, đối với các dân tộc thuộc địa, muốn chiến thắng
kẻ thù hung bạo, không có sự lựa chọn nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.
Theo Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do
bản chất và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi: Đế quốc có chết thì
chết, nết không chừa. Cho nên giành được chính quyền đồng thời phải giữ chính
quyền, giành được độc lập dân tộc phải luôn cảnh giác để giữ vững nền độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, cho nên quân đội luôn là nòng cốt trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ


10


quốc. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh: xây dựng quân đội - một vấn đề có tính quy luật
là phải xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải
được giải phóng. Muốn giải phóng được thì phải có lực lượng quân sự. Muốn
có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức…”[7, 329]. Quân đội nhân dân Việt
Nam được ra đời từ nhu cầu giải phóng dân tộc gắn liền với nhu cầu giải phóng
giai cấp, giải phóng nhân dân lao động. Là quân đội kiểu mới của giai cấp vô
sản, do Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức ra, xây
dựng nên nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, nhân dân lao động và những thành
quả của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh vạch rõ bản chất của quân đội là công cụ bạo lực của một
giai cấp, Nhà nước nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp, nhà nước.
Người khẳng định: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng"[10,350]. Trung với Đảng hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một
trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân
quốc gia đầu tiên cứu nước. Quân đội trung với Đảng đồng thời trung thành với
nhà nước cách mạng, nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Do vậy, quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của
nhà nước Việt Nam XHCN.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, nuôi dưỡng, xây dựng phẩm chất
chính trị và coi đó là cơ sở để xây dựng đội quân cách mạng. Người đã nêu khái
quát những phẩm chất của quân đội ta. Người viết: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chính phủ, được sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân, trải qua 14 năm phấn
đấu, quân đội ta đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã
có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân, chiến

đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực; tiết kiệm,cần cù, khiêm tốn, giản
dị; đoàn kết nội bộ; đồng cam cộng khổ với nhân dân, luôn luôn sẵn sàng khắc

11


phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ"[9, 274]. Như vậy, bản chất giai cấp công
nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân, đây là điểm quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh khi Người khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân
mà chiến đấu. Đó là một cống hiến lớn của Hồ Chí Minh trong sự phát triển lý
luận về quân đội.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu là đặc trưng nổi bật của
quan đội nhân dân Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, có mục tiêu chiến đấu phù hợp với khát
vọng tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân và các dân tộc Việt
Nam. Do đó, quá trình ra đời và trưởng thành của quân đội ta đã thu hút rộng rãi
mọi tầng lớp nhân dân tự nguyện đóng góp sức người sức của để xây dựng quân
đội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội"[12, 215].
Bởi vậy, Người luôn coi trọng giáo dục xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa
quân đội với nhân dân, bảo đảm cho quân đội luôn tận tậm tận lực phụng sự
nhân dân, vì nhân dân quên mình. Người còn nhắc nhở: lực lượng vũ trang phải
giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân, đồng thời phải biết dựa chắc vào
nhân dân thì mới hoàn thành được nhiệm vụ. Người dạy: "Bất kỳ bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám lấy dân, rời dân ra nhất
định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân
yêu. Như vậy bất kỳ việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi"[12,
215].
Theo Hồ Chí Minh: "Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em
ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc,
để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội

ta không có lợi ích nào khác"[8, 426]. Người luôn nhắc nhở quân đội ta phải biết
rằng toàn bộ cơm ăn, áo mặc, vũ khí của quân đội đều do mồ hôi nước mắt của
nhân dân. Tuy nhiên hiện nay cơ cấu xã hội giai cấp có nhiều thay đổi lực lượng
tham gia nghĩa vụ quân sự với mọi thành phần giai tầng khác nhau hết sức phức
tạp điều quan trọng là đặc biệt chú ý là phải giáo dục bản chất giai cấp công

12


nhân, tính nhân dân cho quân đội, để bảo đảm cho quân đội thực sự từ nhân dân
mà ra vì nhân dân mà chiến đấu.
Quân đội của dân, vì dân theo Hồ Chí Minh còn thể hiện ở thái độ và tinh
thần phục vụ nhân dân. Người nói: Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ
ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước yêu dân cho nên hy sinh kham khổ. Người
luôn nhắc nhở: Mình đánh giặc là vì dân nhưng mình không phải là "cứu tinh"
của nhân dân mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân cho nên Người luôn
khuyên bảo căn dặn cán bộ, chiến sĩ dù ở cương vị nào đều phải cố gắng tận tuỵ
trung thành với nhân dân, phải biết kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân,
biết dựa chắc vào dân đồng thời phải giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân
dân cùng với nhân dân chiến đấu và sản xuất thắng lợi.
Để quân đội luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó, Hồ
Chí Minh khẳng định Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp mọi mặt đối với quân đội,
bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng với mục tiêu lý tưởng cách
mạng, sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp mọi mặt của Đảng đối với quân đội là đặc
trưng cơ bản nhất của quân đội cách mạng. Quân đội nghiêm chỉnh chấp hành sự
lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và
sức mạnh chiến đấu của quân đội. Người khẳng định: "Quân đội ta có sức mạnh vô
địch và nó là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo
dục"[8, 426]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội không có mục tiêu chiến đấu
nào khác ngoài mục tiêu cách mạng, trong đường lối chính trị, đường lối quân sự

do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân xác định. Nhờ vậy, từ khi ra đời đến
nay quân đội ta luôn giành được những thắng lợi to lớn .
Mặt khác, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lập ra quân uỷ Trung ương
để lãnh đạo quân đội. Người định ra hệ thống tổ chức Đảng, tổ chức cơ quan
chính trị, hệ thống chính trị viên, chính uỷ để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội. Đặc biệt, Người luôn quan tâm chăm lo xây dựng các tổ chức
Đảng và giáo dục rèn luyện đội ngũ đảng viên trong quân đội. Trong chỉ đạo xây
dựng đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người yêu cầu: "tổ chức của
đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo". Hồ Chí Minh yêu cầu xây

13


dựng các tổ chức Đảng vững vàng về chính trị, đủ năng lực lãnh đạo đơn vị
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người chú trọng xây dựng chi bộ Đảng vững mạnh và
đặc biệt quan tâm giáo dục đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo
chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào. Trong giai
đoạn hiện nay, quân đội ta luôn là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước xứng
đáng là công cụ bạo lực bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đó chính
là nhờ sự lãnh đạo trực tiếp mọi mặt của Đảng đối với quân đội.
*Tóm lại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận
dụng, phát triển sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến
tranh và quân đội vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời thể
hiện sự kế thừa và phát triển những kinh nghiệm truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh và quân đội được đề cập sâu sắc nhiều vấn đề. Hồ Chí Minh đã làm
rõ bản chất, quy luật, tính chất xã hội của chiến tranh, đặc biệt Người có quan
điểm sâu sắc về chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, theo đó Người khẳng định sự
ra đời của quân đội ta là tất yếu lịch sử,là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh
giai và cấp đấu tranh dân tộc ở Việt Nam. Luận giải rõ bản chất của quân đội;

khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Điều cốt
lõi trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, coi đây là nhân tố cơ bản quyết định mọi
thắng lợi của quân đội ta.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội trong
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay
2.1. Tính tất yếu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo xây
dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để Quân
đội luôn trưởng thành và lớn mạnh, xứng đáng là đội quân tinh nhuệ, đội quân
bách chiến bách thắng, luôn trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân

14


dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong
đó đặc biệt chú trọng đến xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Điều đó
chứng tỏ Hồ Chí Minh đã quán triệt và vận dụng sâu sắc nguyên tắc xây dựng
quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin vào xây dựng quân đội cách mạng
ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến.
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng quân đội kiểu
mới; kế tục tinh thần, truyền thống đánh giặc của cha ông ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ
phải xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, trong đó trước hết
cần tập trung xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Để quân đội trở thành
đội quân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thì trước tiên cần
chú trọng xây dựng quân đội về chính trị. Không chăm lo xây dựng về chính trị
thì quân đội dù chính qui tinh nhuệ, hiện đại bao nhiêu cũng sẽ mất phương
hướng, rã đám trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc, bài học về xây

dựng quân đội của các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh. Từ
đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng quân đội về chính trị trong quá
trình tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện quân đội, nhằm xây dựng quân đội có bản
lĩnh chính trị, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân trong quá
trình tiến lên chính qui hiện đại. Tư tưởng của Người được bắt nguồn từ quan
điểm đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô
sản, nhằm mục tiêu giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều đó tất yếu
đưa Người đến với học thuyết quân sự Mác- Lênin, để từ đó Người vạch ra
phương hướng tổ chức, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị,
đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp ở nước ta. Người
luôn xác định phải xây dựng Quân đội về chính trị, coi đó là cái gốc - cái nền
tảng của quân đội cách mạng, là vấn đề mang tính chất sống còn của một quân
đội cách mạng. Khẳng định “Chính trị là vận mệnh của quân đội cách mạng”,
vì vậy ngay từ năm 1941, sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã chỉ ra vấn đề hàng đầu đối với xây dựng lực lượng vũ trang là
“phải có con đường chính trị đúng”.[6, 469]. Con đường chính trị đúng chính là
con đường cách mạng vô sản đã được Hồ Chí Minh cùng Đảng ta xác định ngay

15


từ Hội nghị thành lập Đảng. Tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của Người
được thể hiện trong “Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân”. Trong đó, Người chỉ rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”[6, 507]. Đây là luận điểm hết sức đặc sắc
trong tư tưởng của Người về xây dựng quân đội, bởi theo Người qui luật phát
triển của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta là “phải đi từ hình thức chính trị
tiến đến hình thức quân sự”. Theo qui luật đó, “Muốn có đội vũ trang mạnh,
trước hết phải có đội quân tuyên truyền mạnh, đội quân chính trị vững”[16,260].
Bởi theo Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến

toàn dân, cần phải huy động lực lượng vũ trang toàn dân, theo phương châm đó,
Người chỉ rõ phải dựa vào lực lượng chính trị mạnh mẽ, phải lựa chọn những đội
viên hăng hái nhất, kiên quyết nhất để lập ra đội quân đầu tiên cho quân đội ta.
Ngay sau khi thành lập, các đội vũ trang đã nhanh chóng tiến hành vận động quần
chúng, xây dựng cơ sở chính trị, lực lượng chính trị, để làm chỗ dựa xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. Quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa
là lực lượng vũ trang chiến đấu cho lý tưởng của Đảng.
Quá trình xây dựng quân đội về chính trị, thực chất là quá trình tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung
thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng
quân đội cách mạng, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của
quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì
nó là một quân đội nhân dân, do Đảng xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo
dục”[10, 350]. Từ đó, quân đội luôn trung thành tuyệt đối, là công cụ bạo lực
sắc bén của Đảng của Nhà nước và của nhân dân.
Trong mối quan hệ giữa chính trị và quân sự, Hồ Chí Minh luôn kết hợp
chặt chẽ, thống nhất với nhau, trong đó chính trị quyết định quân sự, quân sự phục
tùng chính trị. Người khẳng định: “Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ
chính trị”, bởi theo Người: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có

16


gốc, vô dụng lại có hại”[5, 53]. Từ đó, Người luôn coi chính trị là “gốc”, là cơ sở
cho việc xây dựng quân đội trên các mặt khác. Trong khi đó, quân sự phục tùng
chính trị sẽ phản ánh đúng qui luật khách quan trong mối quan hệ chính trị và
quân sự, nó sẽ định hướng cho toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này.

Mối quan hệ giữa chính trị và quân sự theo Hồ Chí Minh trên lĩnh vực xây
dựng và phát huy nhân tố con người là đảm bảo cho sự phát triển vững chắc, liên
tục của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Con người được Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện đã có ý thức giác ngộ chính trị,
giác ngộ giai cấp, hình thành nên những con người mới Việt Nam. Đó là những
cán bộ, chiến sĩ có tinh thần chiến đấu cao, có ý thức kỷ luật tự giác và nghiêm
minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa con
người, trang bị, vũ khí và huấn luyện cách sử dụng, thấy rõ mối quan hệ của
những nhân tố đó đề ra phương hướng xây dựng thích hợp, phát huy sức mạnh to
lớn của lực lượng vũ trang để đánh thắng địch [18, 279].
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng quân đội về chính trị nhằm làm cho
quân đội luôn “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[5, 53]. Chính trị của quân
đội là chính trị trong quân sự, do đó trước hết “Chính trị được biểu hiện ra trong
lúc đánh giặc”, ngoài ra nó còn được biểu hiện trong quá trình thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ khác của quân đội, như trong lao động sản xuất, trong công tác,
nhằm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, theo Hồ Chí Minh điều cơ
bản, cốt yếu nhất là phải xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội,
nhằm tăng cường tính nhân dân, tính dân tộc cho quân đội. Đồng thời qua đó
xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội, thống nhất cơ bản về mặt lợi ích
giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đối với quân đội,
chỗ dựa vững chắc nhất chính là lòng dân, vì vậy phải lấy dân làm gốc, dựa vào
sức mạnh của dân chúng để đánh giặc. Phải làm cho quân đội ta thành một quân

17


đội chân chính của nhân dân, phải thực hiện “đi dân nhớ, ở dân thương”, mối

quan hệ quân dân phải không ngừng củng cố và phát triển, hình ảnh “Bộ đội Cụ
Hồ” không ngừng được khắc sâu trong tâm chí mỗi người dân [16]. Muốn vậy,
quân đội ta phải không ngừng xây dựng trở thành đội quân trung- hiếu, đây là
nội dung nổi bật, xuyên suốt trong tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của
Hồ Chí Minh. Ngày 26 tháng 5 năm 1946, đến thăm trường võ bị Trần Quốc
Tuấn, Người dạy: “Trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một
trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo
quân quốc gia đầu tiên của nước ta”. Quán triệt lời dạy của Bác, trong quá trình
xây dựng và trưởng thành, quân đội ta luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với
nhân dân, luôn sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc
của nhân dân.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của quân đội có bước
phát triển mới được Đảng ta xác định là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc
phòng và an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự,
an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi
truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng và
an ninh.[3, 237]. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay phát triển cả về quy mô, tính
chất với phạm vi rộng hơn, phức tạp hơn. Đồng thời, sự đan xen, gắn bó nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc XHCN với các nhiệm vụ khác ngày càng tăng, như kinh tế phải
kết hợp với quốc phòng và an ninh; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN
ngày càng gắn chặt với nhiệm vụ an ninh, đối ngoại và hoạt động của các lực
lượng, các đoàn thể chính trị-xã hội. Quân đội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN không chỉ bằng biện pháp quân sự vũ trang mà còn cả trên lĩnh
vực phi vũ trang.


18


Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng quân đội về chính trị là sự kết
hợp nhuần nhuyễn lối tư duy biện chứng đặt mối quan hệ sức mạnh chính trị vừa
quyết định chi phối, vừa tác động chặt chẽ với sức mạnh các yếu tố khác và nằm
trong sức mạnh tổng hợp của quân đội cách mạng. Nó trở thành nguyên tắc hàng
đầu, bất di bất dịch đối với sự nghiệp xây dựng quân đội trong tình hình mới.
Bởi vì: “Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta kiên
quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận
thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an
ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát
triển”[3,145-146]. Đảng ta chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ “Xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bưóc
hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững
mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối
trung thành vối Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”[3, 149]. Đúng như
trong dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang huấn thị:“Nắm vững nguyên tắc xây dựng Quân đội về
chính trị, nâng cao chất lượng chính trị, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội…”[15]. Do đó,
quân đội ta không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc, thấu suốt sự lãnh đạo chính trị, giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, cần tăng cường xây dựng quân đội về chính trị đặt trong mối quan hệ
với các yếu tố khác là tất yếu khách quan và là yêu cầu cấp bách hiện nay.
2.2. Một số nội dung, giải pháp cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam vững mạnh về chính trị hiện nay
Từ khi thành lập đến nay, dựa trên nền tảng lý luận cách mạng, khoa học

của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư trưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những truyền
thống quý báu trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân đội ta
luôn đặt việc xây dựng vững mạnh về chính trị là nguyên tắc cơ bản, quan trọng
hàng đầu, làm cơ sở cho các mặt xây dựng khác.

19


Thấm nhuần những nguyên lý, nguyên tắc cơ bản đó, hiện nay tiếp tục
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị cần thực hiện đồng bộ các nội dung,
giải pháp như sau:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của
Đảng Cộng sản Việt Nam cho quân đội ta.
Đây là giải pháp cốt lõi thể hiện nội dung mối quan hệ bản chất chính trị giai cấp giữa Đảng, Nhà nước với Quân đội ta là một chỉnh thể thống nhất cùng
tồn tại, vận động và phát triển theo tiến trình cách mạng từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời cho đến nay.
Trên cơ sở khẳng định bản chất chính trị - giai cấp của quân đội; vai trò của
nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh và trong sức mạnh chiến đấu của quân
đội, các nhà lý luận mácxít đã giải quyết thành công nhiều vấn đề trong cách mạng
vô sản; chỉ ra những nguyên lý cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai
cấp vô sản. Từ cơ sở logic khoa học của Học thuyết Mác - Lênin về Quân đội,
Đảng ta tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam là
của giai cấp công nhân Việt Nam tất yếu phải mang bản chất cách mạng sâu sắc; từ
đó, cần đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội về chính trị, nhất là củng cố và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, cói đó là vấn đề sống còn của quân đội cách
mạng; là nguyên lý hết sức cơ bản hàng đầu trong xây dựng quân đội ta.
Mục tiêu xây dựng quân đội ta về chính trị là nhằm làm cho quân đội "Trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến dấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,,
kẻ thù nào cũng đánh thắng". Như vậy, xây dựng Quân đội nhân dận Việt Nam về

chính trị là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính
dân tộc của quân đội. Quán triệt và cụ thể hóa đường lối chính trị, đường lối quân
sự của Đảng Cộng sản Việt Nam vào xây dựng quân đội; bảo đảm sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Trên cơ sở đó, đảm bảo
cho quân đội ta luôn là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành
với Đảng, Nhà nước, với dân tộc và nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.

20


Chú trọng giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc rằng, quân
đội bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, không có quân đội
“phi giai cấp”, “siêu giai cấp”. Công tác giáo dục là phải làm cho bản chất cách
mạng ấy của quân đội thấm sâu, tồn tại và phát triển trong tư tưởng, tình cảm của
mỗi cán bộ, chiến sĩ. Chống mội biểu hiện coi nhẹ công tác giáo dục giác ngộ bản
chất giai cấp công nhân cho bộ đội, bỏ quên nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Đó là
những nhận thức sai lầm, dẫn đến mắc mưu kẻ thù.
Quá trình xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội cần phải
chú ý đến tính đồng bộ và sự thống nhất lợi ích căn bản của nhân dân, dân tộc
với giai cấp lãnh đạo.
Thứ hai, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội
Đây là giải pháp giữ vị trí, vai trò nền tảng gốc quyết định đến “chất” của
quân đội cách mạng trong xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị hiện
nay. Bởi vì:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
Quân đội nhân dân việt Nam là nguyên tắc, quy luật cơ bản trong xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sự lãnh đạo của Đảng
với quân đội được thể hiện ở cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, đường lối của

Đảng, cũng như ở Hiến pháp, pháp luật của Nhà nưóc; ở điều lệnh, điều lệ của
quân đội. Sự lãnh đạo đó được, thể hiện thông qua cơ chế lãnh đạo bao gồm: hệ
thống tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ
chính trị, các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở và các nguyên tắc quy chế cụ
thể trong lãnh đạo. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ được giao “phải
tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân
dân”[3, 150].
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực chất
là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội; là làm cho
quân đội quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường

21


lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng
vào quân đội; là tập trung nâng cao sức mạnh về chính trị, tinh thần, làm cơ sở
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội. Đảm bảo cho Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội.
Quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng.
Vấn đề then chốt nhất để đảm bảo thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên là
phải xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, thống nhất và có sức
chiến đấu cao. Xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh, có trình độ
trí tuệ, năng lực lãnh đạo toàn diện, góp phần cụ thể hóa đường lối của Đảng,
nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Kiên quyết đấu tranh chống các
quan điểm sai trái, thù địch; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; tăng cường đoàn kết nội bộ, không để các thế lực thù địch thâm
nhập, móc nối, phá hoại,... đang là vấn đề cấp bách đặt ra để đảm bảo nguyên
tắc Đảng lãnh đạo quân đôi tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Đồng thời, cần thấy
đựợc đây là nguyên tắc hàng đầu, có ý nghĩa quyết định quá trình xây dựng quân

đội ta vững mạnh về chính trị hiện nay [14, 142].
Thứ ba, giữ vững mục tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN cho quân đội trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế
Đây là giải pháp có tính nguyên tắc tạo nên nhân tố cơ bản để nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Quân đội ta là công cụ bạo lực vũ trang, cũng có nghĩa là công cụ chính
trị sắc bén của Đảng và Nhà nước, vì vậy, chỉ có trên cơ sở vững mạnh về chính
trị làm nền tảng và kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác thì quân đội mới đủ sức
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao [1, 197].
Sự ổn định chính trị của quân đội góp phần ổn định chính trị của đất nước.
Giữ vững bản chất chính trị, bản chất cách mạng của quân đội chính là giữ vững
mục tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN. Bản chất chính trị, bản chất cách mạng của
quân đội là “gốc” của Quân đội ta - quân đội mang bản chất giai cấp công nhân,
thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Mục tiêu chiến đấu của
quân đội ta cũng là mục tiêu chiến đấu của Đảng. Vì vậy, chỉ trên cơ sở giữ
vững bản chất chính trị, bản chất cách mạng của quân đội thì mới giữ vững mục
tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN.

22


Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá, trong điều kiện hội nhập, nước ta
thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, những tác động tích
cực, tiêu cực đan xen. Vì vậy sự thử thách “vàng-lửa” đối với đội ngũ cán bộ
trong quân đội diễn ra gay gắt. Bên cạnh đó, kẻ thù luôn chống phá quyết liệt
cách mạng nước ta và chúng rất coi trọng việc lôi kéo, làm tha hóa đội ngũ cán
bộ của Đảng; việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho quân đội là một
yêu cầu bức thiết đối với sự nghiệp xây dựng quân đội.
Chúng ta cần coi trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là vấn đề cơ bản,

xuyên suốt nhằm xây dựng lập trường giai cấp, nâng cao bản lĩnh chính trị cho
bộ đội và là cơ sở để xây dựng các nhân tố khác. Giáo dục bản chất tốt đẹp của
chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Tiếp tục giáo dục, bồi
dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân đội và nhân dân ta, đi đôi với
chăm lo xây dựng quân đội trên các mặt khác nhằm nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần
thứ X đã khái quát: “…tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Phát huy
truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”.”[15]. Những yếu tố
trên là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp “Bộ
đội Cụ Hồ” tỏa sáng trong lòng nhân dân.
Thường xuyên bồi dưỡng lòng căm thù địch và tình yêu đối với Tổ quốc,
với chế độ, với nhân dân. Nếu không căm thù địch thì không bao giờ có lòng yêu
nước nồng nàn và thương yêu tha thiết chế độ [1, 213]. Có tư duy thực tiễn sắc
sảo để nhận rõ kẻ thù của cách mạng Việt Nam, đối tượng tác chiến của quân đội,
đồng thời phân tích rõ bản chất quân đội nhà nghề của chủ nghĩa tư bản để bộ đội
có nhận thức và hành động đúng đắn, nhất là trong điều kiện quân đội ta tham gia
làm nhiệm vụ quốc tế.
Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của hệ thống tổ
chức đảng trong quân đội; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức.

23


Đây là giải pháp then chốt, vận dụng quan điểm toàn diện trong xây dựng
quân đội, đặt ra mục đích, yêu cầu và tiêu chí xây dựng hệ thống tổ chức đảng
trong quân đội; xây dựng quân đội ta hiện nay không chỉ tinh nhuệ về quân sự
mà còn phải tinh nhuệ cả về chính trị trước những điều kiện, hoàn cảnh biến
động của khu vực và thế giới hiện nay.

Trong quân đội ta, từ trước tới nay, dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay
hòa bình; xây dựng, chiến đấu hay công tác, bất kể trong thời kỳ nào, đều xác
định rõ công tác xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ trung tâm, then chốt, tác động
chí phối, đến các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của quân đội. Những năm
vừa qua, việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương về đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, từ Quân ủy Trung ương đến các tổ chức đảng, các ngành, các
cấp trong quân đội đã tích cực triển khai, thực hỉện và đã đạt được những kết
quả tích cực. Mặt khác, trong quá trình xây dựng và thực hiện chức năng lãnh
đạo của các tổ chức đảng trong quân đội cũng còn bộc lộ những thiếu sót,
khuyết điểm. Những khuyết điểm, thiếu sót này trong các cấp bộ đảng, các tổ
chức đảng có mức độ khác nhau, nhưng là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cảa các tổ chức đảng [14, 143].
Để thực hiện được yêu cầu trên, phải triển khai xây dựng đồng bộ, toàn
diện cả chính trị tư tưởng và tổ chức, trước mắt cần tập trung vào một số nội
dung cơ bản sau: thường xuyên nắm chắc việc xây dựng nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên kết hợp với xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội đáp ứng
yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới. Tập trung thực hiện và hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Nhanh chóng triển khai thực hiện tốt Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X về: “tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; làm nòng cốt xây dựng
nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN”[15]. Nghiêm chỉnh chấp hành nguyên

24


tắc tổ chức và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm túc, thành nền

nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ Quân đội.
Hiện nay, các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ quân đội cần duy trì có
nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình, đặc biệt hiện nay là quán triệt và thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công
cá nhân phụ trách; qua đó xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, có
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được
thông suốt từ trên xuống dưới, tới từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ.
Kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng buông lỏng xây dựng tổ chức
đảng, hoặc không gắn việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đồng thời, chống mọi hiện tượng
tiêu cực tập thể, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, chỉ
huy các cấp; hết sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp vai trò lãnh đạo của cấp ủy,
chi bộ, đảng bộ đối với đơn vị.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần
bản chất phản động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa
quân đội”.
Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”, kẻ thù rất coi trọng phá
hoại ta trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận. Mục tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên lĩnh
vực này là phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng quân đội kiểu mới, về bản chất cách mạng, mục tiêu, lí tưởng chiến
đấu cao cả của quân đội ta và gieo rắc, truyền bá các quan điểm tư sản sai trái
phản động về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp”, làm cơ sở biện minh
cho việc tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, gây tâm lí hoang
mang, dao động trong cán bộ, chiến sĩ. Âm mưu tạo ra những yếu tố làm mất ổn
định trong quân đội tiến tới làm suy yếu về chính trị, vô hiệu hóa quân đội.
Do vậy, đấu tranh với các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lí luận
chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có tầm quan trọng đặc biệt và là mặt
trận xung yếu, nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.


25


×