Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI góp PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH và TIẾN bộ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.76 KB, 13 trang )

1

Thực hiện bình đẳng giới góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống gia
đình và tiến bộ xã hội
Bình đẳng giới là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, được
cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải quyết để
đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, góp phần thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và phát triển bền vững.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột
phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và
đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm
qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn
thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Ngay từ năm 1946, trong
Hiến pháp đầu tiên của chế độ mới, mục tiêu bình đẳng giới đã được ghi nhận.
Tiếp đó, trong các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình đẳng giới
đều được quy định rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 quy định “công dân nam, nữ bình
đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng
giới” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 26).
Bên cạnh đó, Luật Bình đẳng giới (năm 2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình (năm 2007) được triển khai thực hiện. Nhiều bộ luật khác có liên quan mật
thiết đến quyền lợi của nam giới và nữ giới như Luật Phòng, chống mua bán người
(năm 2012), Bộ luật Lao động (năm 2012), Luật Việc làm (năm 2013),… đều được
lồng ghép vấn đề giới. Nhiều nghị định và văn bản dưới luật được ban hành để cụ
thể hóa các nội dung của Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Năm 2009, Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai
đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của Bộ
Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Ngày 24-12-2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động - việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa,


thông tin, gia đình và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới.


2

Các Bộ Luật ra đời thực hiện Bình đẳng giới được dư luận trong nước và
quốc tế đánh giá cao. Đây là một kết quả lớn của chính sách xã hội, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
1. Một số kết quả đạt được trong thực hiện bình đẳng giới
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, vị trí xếp hạng của chỉ số phát triển
giới (GDI) của Việt Nam tăng từ mức trung bình thấp năm 1995 (đạt giá trị 0,537,
đứng vị trí thứ 72/130 nước) lên mức trung bình cao năm 2009 (đạt giá trị 0,73,
đứng vị trí 94/182 nước được xếp hạng); hiện nay chỉ số quyền năng giới (GEM)
của Việt Nam đạt 0,554, đứng ở vị trí thứ 62/109 nước, thuộc nhóm nước có sự
phát triển trung bình về giới. Việt Nam được đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng
cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua.
Trong lĩnh vực chính trị
Giới nữ tham gia lãnh đạo quản lý là một trong những chỉ tiêu quan trọng về
sự tiến bộ xã hội và bình đẳng giới. Những năm qua, chỉ tiêu này đã được cải thiện
rõ rệt. Ngày càng có nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước và các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác đã do các cán bộ, công chức
nữ đảm nhiệm.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI (2011), tỷ lệ nữ tham gia
Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới đạt 9%, nhưng trong nhiệm kỳ này đã có 02
đồng chí nữ tham gia Bộ Chính trị; đến Đại hội XII có 20 nữ tham gia Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đạt tỷ lệ 10%, trong đó có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị
Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII là 24,4%; đến nhiệm kỳ 2016 - 2021 tỷ
lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIV đạt 39,23%; tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh là
25,7%, cấp huyện là 24,6% và cấp cơ sở là 27,7%. Việt Nam nằm trong nhóm nước có


tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao trong khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 quốc gia
và giữ vị trí thứ 2 trong 8 nước ASEAN có Nghị viện).
Trong lĩnh vực kinh tế, lao động
Bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ chỉ thực sự đạt được khi phụ nữ có khả
năng độc lập về kinh tế. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -


3

2020 đã đề ra mục tiêu: “Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động,
việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân
tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động”.
Năm 2012, lực lượng lao động cả nước khoảng 52,6 triệu người, trong đó lao
động nữ chiếm 48,7%. Như vậy, khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động
đã được cải thiện, phụ nữ ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong
gia đình và xã hội. Trên toàn quốc, tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động đạt 78,2%
so với nam giới là 86%. Lao động nữ đóng vai trò quan trọng trong các ngành chế
biến, xuất khẩu. Tỷ lệ lao động nữ cao hơn rõ rệt so với nam ở ngành dệt, may
(trên 70%), ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (53,7%). Tỷ lệ lao động nữ đi lao
động và làm việc có thời hạn ở nước ngoài hằng năm chiếm 33%.
Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp đạt hơn 20%
vào loại tỷ lệ khá cao so với khu vực và thế giới. Nhiều doanh nghiệp do phụ nữ
làm chủ đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, phát triển thương hiệu, giải quyết
nhiều việc làm và bảo đảm đời sống, thu nhập cho cán bộ, nhân viên; đồng thời
tham gia tích cực vào việc thực hiện trách nhiệm xã hội như xóa đói, giảm nghèo,
bảo vệ môi trường, từ thiện, nhân đạo,... Phụ nữ tham gia tích cực vào tất cả các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, hằng ngày tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
gia đình và xã hội.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục cũng được cải thiện, đặc biệt đối với
người dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối tượng bị
thiệt thòi. Về cơ bản, đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục phổ thông,
trong đó có giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Tỷ lệ biết đọc, biết viết của phụ nữ có chiều hướng tăng, nếu như năm 1993
đạt 82,3%, năm 2008 đạt 90,5%, năm 2010 đạt 91,6% thì năm 2011 đạt 92%, tuy
nhiên tỷ lệ này vẫn có sự chênh lệch đáng kể giữa nam và nữ. Tỷ lệ trẻ em gái ở
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, học sinh tiểu học và trung học cơ sở đạt
khoảng 80%; tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt trên 80%.


4

Bên cạnh đó, phụ nữ tham gia ngày càng chủ động, tích cực vào các hoạt
động khoa học - công nghệ, có nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc
hoạch định chính sách, ứng dụng vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi
ích kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực.
Trong lĩnh vực y tế
Hiện nay, mục tiêu bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã và đang được thực hiện. Công tác chăm sóc sức
khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đã được chú trọng.
Cùng với những tiến bộ của y học, sức khỏe phụ nữ tiếp tục được cải thiện.
Chính sách mới về y tế đã tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận tốt hơn các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là khi mang thai. Bước đầu đã triển khai nhiều can
thiệp hiệu quả như quản lý phụ nữ mang thai, phát hiện thai có nguy cơ, chuyển
tuyến kịp thời, nâng cao chất lượng chăm sóc tại các cơ sở y tế; đồng thời mở rộng
truyền thông giáo dục cho người dân tại cộng đồng về chăm sóc sức khỏe bà mẹ.
Tỷ lệ tử vong bà mẹ khi thai sản qua các năm đã không ngừng giảm: từ
80/100.000 trẻ đẻ sống (năm 2005) xuống 75,1/100.000 (năm 2006); 75/100.000

(năm 2007, 2008); 69/100.000 (năm 2009, 2010); 67/100.000 (năm 2011), năm
2012 còn khoảng 64/100.000 trẻ sơ sinh sống. Việc triển khai các biện pháp kiểm
soát khống chế tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm HIV/AIDS bước đầu đã đạt được
những kết quả tích cực,...
Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Nhiều nữ trí thức đã được Đảng và Nhà nước trao những giải thưởng cao quý,
nhiều nhà khoa học nữ được Nhà nước tôn vinh Anh hùng Lao động, cấp bằng lao
động sáng tạo và nhận được nhiều giải thưởng trong và ngoài nước.
Giải thưởng Kovalevskaia được trao hằng năm là một minh chứng cho việc
tôn vinh nữ trí thức Việt Nam. Trong 30 năm qua, đã có trên 40 cá nhân và 20 tập
thể các nhà khoa học nữ xuất sắc được nhận giải thưởng cao quý này. Giải thưởng
mang ý nghĩa quốc tế này đã góp phần động viên các nhà khoa học nữ của Việt
Nam phấn đấu để ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu khoa học mang giá trị


5

kinh tế - xã hội được ứng dụng trong thực tế, tăng thêm uy tín của hoạt động khoa
học của phụ nữ Việt Nam trên thế giới.
Trong lĩnh vực văn hóa, thông tin
Chủ trương xã hội hóa văn hóa đã tạo thêm nhiều cơ hội cải thiện, nâng cao
đời sống tinh thần cho phụ nữ và hướng tới mục tiêu bình đẳng giới. Các loại hình
hoạt động văn hóa phát triển ngày một phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc dân
tộc trên phạm vi toàn quốc.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, hình ảnh người phụ nữ tự tin vươn
lên, khẳng định mình trong công việc xuất hiện ngày càng nhiều, bên cạnh đó là
hình ảnh người nam giới chia sẻ công việc gia đình. Tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt
động văn hóa - xã hội và tiếp cận thông tin ngày càng cao hơn.
Với mục tiêu bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin,
những năm qua, các cơ quan thông tấn, báo chí đã thực hiện tốt chức năng tuyên

truyền đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trong đó có tập
trung tuyên truyền các nội dung về bình đẳng giới. Một số kênh phát thanh và
truyền hình đã dành nhiều thời lượng truyền tải nội dung này như: Hệ Thời sự Chính trị - Tổng hợp (VOV1); Hệ Phát thanh Văn hóa - Đời sống - Khoa giáo
(VOV2); Hệ Phát thanh dân tộc (VOV4), Hệ Phát thanh có hình (VOV TV); Báo
điện tử (VOV); Kênh VTV1 (Chuyên mục Sức sống mới, Làm đẹp, Tạp chí phụ
nữ, sống đẹp, Tiếng nói phụ nữ...); Kênh VTV3 (Chuyên mục Phụ nữ là số 1…);
kênh O2TV (chuyên mục Nam khoa); Kênh HTV Phụ nữ, HTV gia đình;
SCTV13: phụ nữ và gia đình. Thông qua các chuyên mục “Tiếp chuyện bạn nghe
đài”, “Tư vấn chế độ chính sách, các vấn đề xã hội”... Đài Tiếng nói Việt Nam đã
trả lời hàng trăm vấn đề, giải đáp thắc mắc về thực hiện bình đẳng giới, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình, các quyền bình đẳng giữa nam và nữ; quyền được
làm việc, quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền được lựa chọn bạn đời khi kết
hôn,... Với Chương trình phụ nữ có thời lượng phát sóng 15 phút/chương trình, 4
chương trình/1 tuần là diễn đàn cho chị em nói lên tiếng nói riêng của mình. Hiện,
có gần 30% cán bộ nữ làm công tác báo chí chuyên nghiệp trong hơn 700 cơ quan


6

báo chí, thông tấn và hàng trăm đài phát thanh, truyền hình từ Trung ương tới địa
phương.
Trong lĩnh vực gia đình
Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình là một trong các mục tiêu
quan trọng đã và đang được thúc đẩy thực hiện ở Việt Nam. Một trong những điểm
dễ nhận biết nhất trong kết quả thực hiện bình đẳng giới, đó chính là việc phân
công, sắp xếp lại công việc trong gia đình một cách hài hòa, hợp lý giữa người vợ
và người chồng. Trong gia đình hiện nay, người chồng đã biết chia sẻ với vợ về
công việc nhà, chăm sóc con; người vợ cũng đã chủ động chia sẻ với chồng gánh
nặng kinh tế gia đình. Năm 2011, cả nước có 12.727.903 gia đình được công nhận
đạt Danh hiệu “Gia đình văn hóa” trong tổng số 17.312.198 gia đình (chiếm tỷ lệ

73.5%). gia đình, người phụ nữ được tôn trọng và được tham gia nhiều hơn vào
các quyết định quan trọng vào hoạt động sản xuất nâng cao mức thu nhập về kinh
tế. Phụ nữ có nhiều điều kiện hơn để tham gia học tập và các hoạt động xã hội, đặc
biệt là phụ nữ ở thành thị.
Phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới đang nhận được sự
quan tâm của xã hội. Nhiều cơ quan, tổ chức xã hội và các chương trình dự án phát
triển đã triển khai các hoạt động tuyên truyền, phòng, chống và hỗ trợ nạn nhân
của bạo lực gia đình.
Công tác tư vấn, hỗ trợ hôn nhân, gia đình được đẩy mạnh. Nhiều mô hình
được duy trì và nhân rộng, thu hút các nhóm phụ nữ tham gia, trong đó nổi bật là
mô hình câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ gia đình không có tệ
nạn xã hội, nhóm tín dụng tiết kiệm lồng ghép truyền thông dân số/sức khỏe sinh
sản gắn với bình đẳng giới, mô hình phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường gắn với
cuộc vận động “Phụ nữ cả nước thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khỏe
gia đình và cộng đồng”, mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau… Các mô
hình mới trong tư vấn, hỗ trợ hôn nhân gia đình, hôn nhân có yếu tố nước ngoài,
phòng, chống bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ - trẻ em và các tệ nạn xã hội khác
đã được triển khai thực hiện, như Trung tâm hỗ trợ kết hôn; Địa chỉ tin cậy ở cộng
đồng; Ngôi nhà bình yên, đường dây nóng… bước đầu đáp ứng nhu cầu của các


7

nhóm phụ nữ. Các mô hình nhóm trẻ gia đình, dịch vụ đưa đón con đi học, chăm
sóc người cao tuổi, dịch vụ giúp việc gia đình đã được một số cấp hội thí điểm,
góp phần hỗ trợ phụ nữ giảm bớt công việc gia đình để có điều kiện tham gia công
tác xã hội nhiều hơn.
2. Những thách thức cơ bản thực hiện bình đẳng giới trong giai đoạn hiện
nay
Những kết quả quan trọng trên đây sẽ là tiền đề để chúng ta tiếp tục thực hiện

bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm tới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đó, bất bình đẳng giới trên các lĩnh vực vẫn còn tồn tại mà sự thiệt thòi chủ
yếu vẫn thuộc về phụ nữ.
Khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống.
Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt
là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo còn thấp so với các
vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ.
Định kiến giới truyền thống về vai trò của phụ nữ, gắn phụ nữ với công việc chăm
sóc gia đình và nam giới với việc kiếm tiền giúp gia đình vẫn còn tồn tại. Chính
sách, cơ chế công tác cán bộ nữ chưa triển khai đồng bộ, thiếu một lộ trình tạo
nguồn cán bộ cụ thể.
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao
và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu đặt ra ở
Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa đạt được.
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi
được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013, bằng gần một
nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các công việc dễ bị
tổn thương cao hơn nam giới; Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn
hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực.
Nam giới còn ít được tiếp cận thông tin liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh
sản, sức khỏe tình dục. Tỷ lệ nam giới thực hiện các biện pháp tránh thai an toàn
chưa cao. Định kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến.


8

Phụ nữ vẫn được coi là người đảm nhận chính công việc chăm sóc gia đình, nam
giới vẫn được kỳ vọng trở thành người thành đạt, bảo đảm kinh tế cho gia đình.
Điều này đang tạo ra những rào cản đối với sự lựa chọn các cơ hội phát triển của

cả nam và nữ.
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận thức về
pháp luật của cán bộ và người dân về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế.
Tại không ít địa phương, các cấp chính quyền, cộng đồng coi bạo lực gia đình là
chuyện riêng tư của mỗi gia đình. Chế tài thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các hành vi bạo lực gia đình.
Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa quy định của pháp
luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển khai quy định
lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và
đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao.
Nhìn chung, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay có tiến bộ vượt bậc so với trước. Phụ nữ và nam giới có sự bình đẳng về
thực chất trên các lĩnh vực cuộc sống, tuy nhiên, việc thực hiện quyền bình đẳng
giữa nam và nữ còn nhiều hạn chế. Phấn đấu để khắc phục những khoảng cách giới
là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm lợi ích của từng giới trong việc thực thi
quyền con người ở Việt Nam như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi vấn
đề bình đẳng nam - nữ là “một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh
gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi
người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội... Phải cách mạng từng người, từng gia
đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”
3. Một số giải pháp cơ bản thực hiện bình đẳng giới nâng cao chất lượng
cuộc sống gia đình và toàn xã hội.
Để tiến tới bảo đảm bình đẳng giới góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
gia đình và tiến bộ xã hội đòi hỏi nhiều giải pháp tổng hợp, mang tính đột phá.
Chúng tôi cho rằng, trong quá trình tìm kiếm các giải pháp phù hợp để gia tăng tỷ
lệ phụ nữ tham gia trong các lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc thông qua quá


9


trình xã hội hóa cá nhân (qua các kênh nhà trường, gia đình, nhóm bạn bè, truyền
thông đại chúng...) để thay đổi những định kiến về vai trò, vị thế của phụ nữ là hết
sức quan trọng. Các giá trị, khuôn mẫu giới cần được tiếp biến, chuyển tải qua các
thế hệ theo hướng bình đẳng về cơ hội, điều kiện cho cả hai giới cùng phát triển.
Thứ nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc cụ thể các chủ
trương và định hướng về sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn ý thức và đánh giá cao vai trò
của phụ nữ Việt Nam - một lực lượng quan trọng trong suốt chặng đường phát
triển của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước, Đảng đã ban hành
Chỉ thị số 44- CT/TW (năm 1984) về Công tác cán bộ nữ, đến Nghị quyết số 04NQ/TW (năm 1993) của Bộ Chính trị về Đổi mới và tăng cường công tác vận
động phụ nữ trong tình hình mới và gần đây nhất là Nghị quyết số 11-NQ/TW
(năm 2007) của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh phấn đấu đến năm 2020 nước ta
trở thành một trong các quốc gia có thành tích bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực.
Thông báo số 196-TB/TW, ngày 16/3/2015 về kết luận của Ban
Bí thư về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình
mới”, Đảng ta tiếp tục triển khai thực hiện khắc phục những hạn
chế, yếu kém, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị
khóa X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư khóa
XI: “Cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân
dân phải xác định công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ
nữ là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài và thường xuyên ở từng cấp,
từng ngành. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho
cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân. Lên án và đề ra biện



10

pháp khắc phục tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân
biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến phụ nữ và bình đẳng
giới”. Trong văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục xác định:“ Thực hiện hiệu
quả các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ”(tr 304)
Điều đó thể hiện cam kết chính trị của Đảng trong việc thúc đẩy vai trò, vị thế
của phụ nữ trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Tuy nhiên có một thực tế là từ quyết tâm chính trị và chủ trương, đường lối
đến việc triển khai thực hiện còn có khoảng cách khá rõ, nhất là trong bối cảnh đất
nước bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo và các quan niệm truyền thống
về phụ nữ như ở Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực nữ, trong đó chú trọng đến công tác quy hoạch nguồn lãnh đạo nữ các cấp,
các ngành.
Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định “Xây dựng, phát
triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu
cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của
Ðảng”. Do đó “Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán
bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Ðảng ở từng cấp, từng ngành, từng
địa phương. Ðối với cán bộ nữ, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch, phải chăm
lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm tiêu
chuẩn của từng chức danh, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được
thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ
về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm”.
Tiếp tục thực hiện Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2015, của Chính phủ trong đó xác định 5 dự án thành phần của Chương trình gồm:
nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới; nâng cao năng lực và hiệu

quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới; nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu


11

Quốc hội, nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo
các cấp; nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, nữ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020, nữ cán bộ thuộc diện quy hoạch; hỗ trợ thực hiện bình
đẳng giới trong những lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới
hoặc có nguy cơ cao bất bình đẳng giới; hỗ trợ xây dựng, phát triển dịch vụ tư vấn,
hỗ trợ về bình đẳng giới. Đây là một trong những chiến lược quốc gia quan trọng
đối với việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, các cơ quan, nhất là người đứng đầu cơ quan phải đặt nhiệm vụ
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong tổng thể công tác cán bộ của
cấp ủy; “có chính sách đặc thù đối với phụ nữ ở vùng cao, vùng
sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số”. Trong từng
cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ nữ theo quan điểm
phát triển, chú trọng yếu tố giới. Trong quy hoạch, đào tạo của cơ quan phải nhất
thiết bảo đảm tỷ lệ nữ phù hợp. Công tác luân chuyển cán bộ nữ phải phù hợp với
điều kiện, sở trường công tác để đào tạo toàn diện từ thực tiễn đối với cán bộ nữ.
Đồng thời, mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ trẻ có triển vọng phát triển.
Thứ ba, nâng cao vai trò của tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ các cấp.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thông qua quy định trách nhiệm của các cấp
Hội trong công tác cán bộ nữ cần tăng cường thực hiện chức năng đại diện của tổ
chức; chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các
chủ trương, chính sách về công tác cán bộ nữ; phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu
nguồn cán bộ nữ có chất lượng cho Đảng; tham gia có hiệu quả vào công tác quy
hoạch, đào tạo cán bộ nữ ở các cấp. Trong đó cần coi trọng công tác tham mưu, đề
xuất, tham gia giám sát và phản biện xã hội; giới thiệu nguồn cán bộ nữ; tham gia
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên... góp

phần vào thành tựu chung về bình đẳng giới của Việt Nam. Thông qua chức năng,
nhiệm vụ của mình, các cấp hội phụ nữ cần khuyến khích mỗi hội viên không
ngừng nâng cao sự hiểu biết, kiến thức xã hội, chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng
phát hiện các nhân tố có năng lực để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn
cho các vị trí trong hệ thống chính trị. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền


12

để từng bước nâng cao nhận thức về vai trò và vị thế của phụ nữ Việt Nam là một
trong những công việc thường xuyên. Cần có những sáng kiến trong các chương
trình, kế hoạch của Hội, như tổ chức thi tìm hiểu về Luật Bình đẳng giới và khuyến
khích các gương điển hình, tiên tiến trong các phong trào của Hội, tránh bệnh hình
thức, quan liêu. Thông qua mỗi hội viên để xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới,
hình thành những giá trị, chuẩn mực mới về bình đẳng giới để từng bước đẩy lùi
những quan niệm định kiến giới đã ăn sâu trong tiềm thức của các nhóm xã hội.
Thứ tư, thường xuyên tổng kết nhân rộng các mô hình mới, cách làm hay, tiến
hành tổ chức các đợt bòi dưỡng, tập huấn kiến thức về bình đẳng giới.
Một trong những điểm quan trọng để thực hiện tốt mục tiêu bình đẳng giới là
phải xây dựng được cơ sở dữ liệu cũng như xây dựng bộ chỉ số giám sát, đánh giá
tình hình thực hiện Luật Bình đẳng giới. Ngoài ra còn có các hoạt động khác như
hoạt động hỗ trợ, xúc tiến thực hiện lồng ghép giới trong quá trình xây dựng và
thực hiện chính sách, pháp luật, các chương trình, dự án của các bộ, ngành và địa
phương; tổ chức các hoạt động hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong một số lĩnh
vực và vùng có khoảng cách lớn về bình đẳng giới; trên cơ sở xây dựng một số mô
hình điểm giai đoạn 2011 - 2015 tiến hành xây dựng Chương trình quốc gia trong
giai đoạn 2016 - 2020 với những điều chỉnh phù hợp.
Giai đoạn 2016 - 2020 sẽ nhân rộng những mô hình thực hiện tốt trong giai
đoạn 1 và tiếp tục xây dựng các mô hình mới về bình đẳng giới; khai thác, sử dụng
có hiệu quả cơ sở dữ liệu phục vụ công tác hoạch định chính sách; tăng cường chia

sẻ thông tin, bài học kinh nghiệm, các sáng kiến hay, mô hình có hiệu quả về bình
đẳng giới và tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược.
Đây là mục tiêu rất quan trọng cần được tập trung triển khai với các biện pháp
khảo sát, xây dựng đề án kiện toàn đội ngũ làm công tác bình đẳng giới các cấp,
thực hiện chỉ tiêu “bố trí đủ cán bộ làm công tác bình đẳng giới”. Theo kết quả
khảo sát trong năm 2010, chỉ có 9 tỉnh, thành phố trong cả nước có phòng bình
đẳng giới, trong đó 4 địa phương có phòng bình đẳng giới riêng, còn 5 địa phương
còn lại thì phòng bình đẳng giới ghép với phòng bảo vệ chăm sóc trẻ em hoặc gọi
là phòng bình đẳng giới và bảo hiểm xã hội. Kết quả khảo sát cho thấy, địa phương


13

nào có tổ chức và được bố trí đủ nhân lực có chuyên môn thì việc quản lý nhà
nước cũng có thuận lợi hơn.
Hằng năm, tiến hành tổ chức các đợt tập huấn kiến thức về giới, phân tích
giới và lồng ghép vấn đề giới cho thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập xây dựng
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình
đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới. Cuối cùng là
xây dựng mô hình thí điểm về thực hiện bình đẳng giới, trên cơ sở đó nhân rộng
các mô hình tốt. Công tác bình đẳng giới phải gắn liền với những hoạt động xã hội
thường xuyên ở cơ sở, từ đó sẽ góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược
quốc gia, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và xã hội./.
21:22' 28/6/2013



×