Tải bản đầy đủ (.ppt) (23 trang)

Hoạt Động Và Kinh Nghiệm Truyền Giáo Của Dòng Tên Tại Việt Nam Giai Đoạn 1615-1773

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 23 trang )

* Ngày 27.09.1540, Dòng Chúa Giêsu (Societas Jesu – S.J.)

được thành lập với 10 thành viên.
* Cha I-nhã (Inhaxiô, 1491-1556)) được tất cả anh em bầu
làm Tổng Quản tiên khởi (1541-1556).
* Tại Việt Nam, vì tục kỵ tên và vì tránh gọi Tên cực trọng
Chúa Giêsu, nên Dòng Chúa Giêsu được gọi là Dòng Tên.
* Mục đích và sứ mạng của Dòng là “phụng sự một mình
Chúa và Giáo Hội, Hiền Thê của Người, dưới quyền Đức
Giáo Hoàng Rôma, vị đại diện của Đức Kitô ở trần gian.”
* Các Giêsu-hữu cố gắng làm mọi sự theo tôn chỉ Cho Vinh
Danh Thiên Chúa Hơn (Ad Majorem Dei Gloriam - A.M.D.G.).










Ngay từ lúc Dòng mới khai sinh, các Giêsu-hữu tiên khởi đã
phải phân tán nhiều nơi để phục vụ Giáo Hội.
Họ rất nhiệt thành trong việc bảo vệ và truyền bá đức tin,
trong việc mục vụ và tông đồ như giáo dục, thuyết giảng,
huấn giáo, giảng Linh Thao và truyền giáo. Dòng phát triển
rất nhanh. Trong vòng 16 năm, từ lúc thành lập cho tới năm
cha I-nhã qua đời (1556), Dòng đã có khoảng 1.000 Giêsuhữu, hiện diện và phục vụ tại nhiều nước ở Châu Âu cũng như
tại các vùng đất truyền giáo. Họ đã có mặt tại Châu Á năm
1542, tại Châu Phi năm 1548, tại Nam Mỹ trước năm 1552.


Thánh Phanxicô Xaviê (1506-1552) đến Ấn Độ năm 1542, đến
Nhật Bản năm 1549.
Hiện nay, Dòng Tên có hơn 19.000 Giêsu-hữu hiện diện và
phục vụ tại 133 quốc gia trên thế giới. Bề Trên Tổng Quyền
thứ 30 đương nhiệm là cha Adolfo Nicolás (1936), người Tây
Ban Nha.








Các thừa sai Dòng Tên đã đặt chân đến Đàng Trong và
bắt đầu giới thiệu Tin Mừng tại đây năm 1615 – Dòng
Tên đang chuẩn bị mừng 400 năm đặt chân đến Đất Việt
để truyền giảng Tin Mừng (1615-18.01-2015) – đến Đàng
Ngoài thăm dò tình hình năm 1626 và khởi đầu truyền
giảng Tin Mừng tại đó năm 1627 (19.03.1627).
Các Giêsu-hữu đã nhiệt tình truyền giảng Tin Mừng tại
Việt Nam cho đến năm 1773 (158 năm, với sự hiện diện
của hơn 155 Giêsu-hữu ngoại quốc và 33 Giêsu-hữu Việt
Nam).
Tích cực hoạt động tông đồ và mục vụ tại đất nước này
từ năm 1957 cho tới nay (58 năm).  Dòng Tên đã đặt
chân đến Đất Việt cách đây 400 năm, hiện diện và phục
vụ Giáo Hội tại Việt Nam cho đến thời điểm này của năm
2015 là 216 năm.



Giai đoạn 1615-1773: Mở đường và xây dựng Giáo
Hội tại Việt Nam
 Giai đoạn 1957-1975: Trở lại Việt Nam – Huấn luyện
và đào tạo giới trí thức và giáo sĩ
 Giai đoạn 1975- Nay (2014): Hoà mình với Giáo Hội
trong hoàn cảnh xã hội mới




Để biết thêm về hoạt động truyền giáo của Dòng
Tên, xin chia sẻ một vài kinh nghiệm truyền giáo
của các thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam trong giai
đoạn đầu (1615-1773). Đây là giai đoạn truyền
giáo chính thức của Dòng Tên tại Việt Nam,
nhằm mở đường và xây dựng Giáo Hội tại đây.








Ngày 18.01.1615, 03 Giêsu-hữu đầu tiên đặt chân
đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) – cha Buzomi, trưởng nhóm.
Tin Mừng bắt đầu được giới thiệu cho người Việt.
Trước năm 1615, đã có một số người công giáo
Nhật kiều trốn chạy các cuộc bắt đạo ở Nhật đến

sinh sống tại Hội An. Lúc đầu mục đích chính
của các Giêsu-hữu là giúp họ về mặt đạo.
Khi tiếp xúc, các thừa sai thấy người Việt hiếu
khách, cởi mở, rộng lượng, dễ đón nhận Tin
Mừng, nên từ cuối năm 1615, các ngài đã chú ý
hơn đến việc giới thiệu Tin Mừng cho người
Việt.
















Từ năm 1618, các Giêsu-hữu đã truyền giáo đến tận Qui Nhơn,
giáp ranh giới phía Nam của Đàng Trong thời đó.
Từ 1615 đến 1623, các Giêsu-hữu đã thành lập được 3 cư sở
(residentia): Hội An (1615), Nước Mặn (1618), Thanh Chiêm
(Quảng Nam Dinh) (1623), cách thành Qui Nhơn thời đó trên
10km về phía đông, nay gọi là An Nhơn.
Số người tin vào Tin Mừng ngày càng gia tăng. Vào năm 1618, tại

khu Cửa Hàn – Thanh Chiêm – Hội An, số bổn đạo đã lên tới 300
người.
Năm 1620, tại Hội An, có 82 người Việt và 27 người Nhật được
rửa tội.
Đặc biệt, tại Hội An, năm 1620, một Sách giáo lý bằng tiếng Đàng
Trong đã được soạn thảo.
Tờ biểu đệ trình lên Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII ngày
17.07.1640 cho biết số giáo hữu Đàng Trong là 15.000 người.
Tới năm 1663, số bổn đạo của Đàng Trong đã lên tới khoảng
50.000 người.










Người đã có nhiều đóng góp lớn cho công cuộc truyền giáo
và cho xã hội Việt Nam, nhất là trong việc hình thành chữ
Quốc Ngữ.
Đến và ở lại Đàng Trong một năm rưỡi (từ tháng 12.1624
đến tháng 07.1626) để học tiếng Việt và phong tục tập quán
của người Việt là chính, nhằm chuẩn bị cho sứ vụ Đàng
Ngoài.
Năm 1639, tất cả các Giêsu-hữu đều bị Chúa Thượng
Nguyễn Phước Lan trục xuất khỏi Đàng Trong. Đạo bị cấm
cách, các bổn đạo gặp nhiều khốn khó.

Cha Đắc Lộ được sai đến Đàng Trong từ 1640-1645. Trong
thời gian đạo bị cấm cách, các bổn đạo bị bách hại, 04 lần
ngài phải đi đi về về rất nguy hiểm giữa Đàng Trong và Áo
Môn. Tuy gặp nhiều sóng gió, gian truân và thử thách, ngài
vẫn kiên trì bám trụ, vẫn một lòng hăng say dấn thân truyền
giáo.












Ngài đã thành lập Hội Thầy Giảng để cùng cộng tác với các thừa
sai trong việc loan truyền đạo thánh. Điều này cho thấy tầm quan
trọng và hiệu quả của giáo dân trong việc truyền giảng Tin Mừng
Các thầy giảng đóng một vai trò rất lớn trong việc củng cố giáo
đoàn và hăng say hoạt động truyền giáo, nhất là trong những lúc
vắng bóng các thừa sai.
Thầy giảng đầu tiên anh dũng đổ máu làm chứng cho Tin Mừng là
Anrê Phú Yên, chịu tử đạo tại Thanh Chiêm ngày 26.07.1644, lúc
mới 19 tuổi, trước sự chứng kiến của các bổn đạo và cha Đắc Lộ,
người trước đó đã rửa tội cho Anrê. Anrê Phú Yên được phong
Chân phước Ngày 05.03.2000.
Khi về đến Rôma, cha Đắc Lộ cho xuất bản 5 cuốn sách về Việt

Nam (1650-1651), đồng thời tích cực vận động Toà Thánh gởi
các Giám Mục đến Việt Nam.
Ngày 09.09.1659, Toà Thánh đã bổ nhiệm Giám Mục Pallu làm
Đại diện Tông Toà tại Đàng Ngoài và Giám Mục Lambert làm Đại
diện Tông Toà tại Đàng Trong.










Tiếp sau khi cha Đắc Lộ bị trục xuất, tuy tình hình ngày
càng nghiêm trọng, nhưng Dòng Tên ở Áo Môn vẫn
tiếp tục gởi các Giêsu-hữu đến Đàng Trong.
Năm 1658, có tất cả 38 Giêsu-hữu thuộc 10 quốc tịch
khác nhau được gởi đến Đàng Trong.
Cho tới năm 1663, có khoảng 50.000 Kitô hữu ở Đàng
Trong; nhiều nhà nguyện được lập.
Các thừa sai Dòng Tên đã hoạt động từ sông Gianh
đến Lâm Tuyền (Chợ Mới) ở Nha Trang, tới tận Phan
Rí bấy giờ thuộc quyền vua Chăm.
Từ 1615 đến 1773, năm Dòng Tên bị giải thể, có tất cả
77 Giêsu-hữu nước ngoài và 7 Giêsu-hữu Việt Nam
hoạt động tại cánh đồng truyền giáo Đàng Trong.











Ngày 15.03.1626, hai Giêsu-hữu, cha Giuliani
Baldinotti (người Ý) và tu huynh Giulio Piani (người
Nhật) theo tàu buôn BĐN đến Đàng Ngoài để thăm dò
nhằm dọn đường cho sứ vụ truyền giảng Tin Mừng tại
đây. Họ rời Kẻ Chợ ngày 11.08.1626.
Ngày 19.03.1627, lễ kính thánh Giuse, cha Đắc Lộ và
cha Pedro Marques đặt chân đến Cửa Bạng (Thanh
Hoá) và chính thức truyền giảng Tin Mừng.
Cha Đắc Lộ thành thạo tiếng Việt hơn, nên đóng vai trò
chính trong việc giới thiệu Tin Mừng cho người Đàng
Ngoài.
Cha Đắc Lộ thuật lại việc gặp gỡ đầu tiên với người
Đàng Ngoài bằng một “bài giảng” bằng tiếng Việt rất
tuyệt vời. Kết quả là sau đó vài ngày, có 02 người xin
rửa tội.











Không chờ được an cư, hai cha bắt đầu tác nghiệp truyền giáo ngay.
Trong hai tuần đợi lệnh Chúa Trịnh (Trịnh Tráng) cho phép tàu lên Kẻ
Chợ, hai cha rửa tội được cho 32 người, trong số đó có một thầy đồ
và một pháp sư.
Sau khi được gặp Chúa Trịnh, bấy giờ đang tiến quân đi đánh Đàng
Trong bằng đường thuỷ, hai thừa sai được đến ở tại An Vực để chờ
Chúa Trịnh đánh trận trở về. Trong 2 tháng chờ đợi, các ngài cho
dựng một nhà thờ và cất một ngôi nhà dành cho những người bị bệnh
phong.
Mở rộng hoạt động truyền giáo đến Vân No và các làng xã chung
quanh, rửa tội được cho 200 người.
Thất trận trở về, nhưng Chúa Trịnh vẫn ân cần tiếp đón các ngài, và
cho về Thăng Long, cấp đất và vật liệu để dựng một căn nhà khang
trang. Một phần gian nhà này được dùng làm nhà nguyện. Có rất
nhiều người đến xin học đạo, nên có những lúc cha Đắc Lộ phải dạy
sáu lần một ngày và dành hai ngày trong một tuần để rửa tội cho các
dự tòng. Nhưng cũng có những người đến để phản đối và tranh luận
với các ngài. Cha Đắc Lộ ra điều kiện là những ai muốn đặt câu hỏi
hay muốn tranh luận, thì buộc phải nghe giảng trong tám ngày liền
mới được!


Cha Đắc Lộ hiểu rõ về văn hoá của người Việt,
nên “Khi thuyết giảng, Rhodes [Đắc Lộ] cố gắng
tránh lối trình bày tiêu cực, không chê bai Tam
giáo, giảng giải thế nào để ngay từ đầu, nhờ lý
luận tự nhiên, hợp với văn hoá Việt Nam, người

nghe hiểu được dễ dàng. Vìthế, bước đầu giảng
về việc đấng Tạo hoá tác thành muôn vật, đặc biệt
con người, nên con người phải có lòng hiếu thảo
tôn thờ đấng Tạo hoá …. Từ đó, dần dần mới đi
vào các mầu nhiệm trong đạo.”


Trong số những người được rửa tội, có một số
khuôn mặt thế giá và trí thức, như người trong phủ
Chúa là mẹ của Chúa Trịnh, Catarina (con gái của
bà), 12 nhà sư ở “Cầu giền”, 3 nhà sư (Đức, Tri,
Nhuận) sau này trở thành ba thành viên rất nhiệt
thành và tích cực trong Hội Thầy Giảng, một ông
nghè 70 tuổi cùng bà vợ, ông Tiến sĩ Gioakim trên
70 tuổi, hai ông Hương cống (Cử nhân) Giuong và
Phêrô. Những người này sau đó đã góp phần tích
cực vào công cuộc truyền giáo.


Công cuộc truyền giảng Tin Mừng đang trên đà phát triển
thành công, thì các ngài lại bị nhiều người chống đối quyết
liệt, họ kêu lên và đòi Chúa Trịnh phải ‘trị tội’ các ngài.
Các bà vợ lẽ bị những ông chồng mới theo đạo bỏ rơi,
Các cung phi, thái giám lo sợ bị thải hồi nếu vua chúa
theo đạo mới,
Các thầy pháp vu cáo các cha phù phép, dùng dầu và hơi
thở để làm bùa mê, v.v.
Các ngai bị vu cáo thêm về tội làm chính trị.
 Chúa Trịnh thay đổi thái độ, ra lệnh cấm các cha không
được rao truyền đạo mới. Nếu bất tuân sẽ bị chém đầu.

 Cuối cùng, ngày 25.05.1628, Chúa Trịnh ra lệnh quản
thúc các ngài tại gia, không cho các bổn đạo đến gặp.






Dù bị hiểu lầm, nghi kỵ, vu khống, chống đối,
đe doạ và bị quản thúc, hai cha vẫn vẫn khéo
léo và kín đáo gởi thư thăm hỏi, an ủi, động
viên tinh thần các bổn đạo và gởi bài giảng cho
các bổn đạo tụ tập tại tư gia để cầu nguyện.
Trong bốn tháng bị quản thúc, đêm đến, khi
lính gác đã ngủ say, một mình cha Đắc Lộ lẻn
ra ngoài đi thăm bổn đạo.












Cuối tháng 3 năm 1629, Chúa Trịnh ra lệnh trục xuất, tống khứ
hai thừa sai vào Đàng Trong.

Một chiến thuyền nhỏ do một viên quan chỉ huy cùng với 36 lính
chèo được lệnh chở hai cha đi Bố Chính. Trong cuộc hành trình,
cha Đắc Lộ đã tài tình giảng đạo cho họ. Cuối cùng, viên chỉ huy
cùng với 24 người lính xin được rửa tội trước khi họ về lại kinh
đô.
Hai cha chỉ ở Bố Chính ít ngày, sau đó trốn đến Hà Tĩnh (Vinh) để
khỏi bị quan cai Bố Chính đẩy vào Đàng Trong. Các ngài được
yên ổn một thời gian ở Nghệ An, nhưng sau đó lại bị đe doạ, nên
phải ẩn trú trên một chiếc ghe nay đây mai đó.
May mắn thay, ngày 27.10.1629, đang lúc ở Cửa Rum, các ngài
gặp được tàu buôn Bồ Đào Nha tới, trên tàu có hai Giêsu-hữu là
Gaspar d’Amaral và Paulo Saïto. Thế là cả bốn Giêsu-hữu theo
tàu trở về lại kinh đô.
Tới kinh đô, hai nhà truyền giáo mới được tự do đi lại, còn hai vị
cũ thì phải âm thầm làm việc mục vụ, dạy giáo lý, rửa tội, giải tội


* Cuối cùng, khoảng năm sáu ngày trước khi tàu
buôn Bồ Đào Nha nhổ neo trở về Áo Môn, Chúa
Trịnh ra lệnh cho bốn Giêsu-hữu phải lên tàu về theo.
Hay tin này, các bổn đạo, lúc này đã lên tới con số
5.602 người, vô cùng buồn bã, họ kéo tới nhà các
cha khóc lóc từ biệt và xưng tội, bởi họ nghĩ đây là cơ
hội cuối cùng. Các cha phải thức hầu như suốt đêm
để giải tội cho họ.
* Đầu tháng 5.1630, tàu nhổ neo chở hai Giêsu-hữu
rời Đàng Ngoài trong tiếng khóc thương tiếc của các
các bổn đạo.









Ai sẽ đứng ra chăm sóc đời sống đức tin cho đoàn chiên còn non
trẻ? Ai sẽ là người tiếp tục công cuộc truyền giảng Tin Mừng cho
lương dân đây? Một vấn đề cấp thời cần phải giải quyết.
Cuối cùng phải đưa ra một giải pháp tạm thời: kết hợp các thầy
giảng lại thành một hội có ‘lời khấn tu trì’. Mục đích là để các thầy
chăm lo phục vụ giáo đoàn còn non trẻ này cho đến khi các
Giêsu-hữu sẽ trở lại, rồi sau đó sẽ tính. Trong thực tế, lúc đó hội
mới chỉ có ba thầy sư mới trở lại năm 1627 là Phanxicô Đức,
Anrê Tri và Inhaxiô Nhuận.
Ngày 27.04.1630, trong thánh lễ cuối cùng cho bổn đạo ở nhà
thờ, sau khi rước lễ, lần lượt ba thầy đặt tay trên sách Phúc Âm
đọc lời tuyên hứa: Không lập gia đình cho tới khi có các cha Dòng
Tên đến, để có thể rảnh rang giúp đỡ các bổn đạo; Tiền của, đồ
vật thuộc tập thể các thầy; Vâng phục một thầy do các cha chỉ
định làm bề trên, cho đến khi có các Giêsu-hữu đến lại. (Thầy
Phanxicô Đức bấy giờ được các cha đặt làm bề trên).









Mối bận tâm về giáo đoàn, đông đảo nhưng
còn non trẻ bị bỏ rơi, thúc đẩy các Giêsu-hữu ở
Áo Môn khẩn cấp tìm mọi cách gởi các thừa
sai trở lại Đàng Ngoài.
Tháng 3.1631, 04 Giêsu-hữu đã đến Đàng
Ngoài để tiếp tục công cuộc truyền giảng Tin
Mừng đang bị dang dở. Đó là các cha
Palmeiro, Gaspar d’Amaral (bề trên), António
de Fontes và António-Francisco Cardim.
Khi tới nơi, các Giêsu-hữu rất ngạc nhiên vì
thấy, trong thời gian các thừa sai vắng bóng,
giáo đoàn vẫn vững mạnh và phát triển ngoài






Trong vòng 10 tháng, các thầy giảng nhiệt thành dấn
thân truyền giáo không mỏi mệt, họ đã đi khắp nơi dạy
giáo lý và rửa tội cho 3.300 người, cho dựng thêm 20
nhà thờ. Các bổn đạo nhiệt tâm sống đạo, can trường
làm chứng cho Tin Mừng, đoàn kết yêu thương nhau
như anh chị em, hiền lành và hoà nhã với mọi người
đến nỗi, theo cha Gaspar d’Amaral kể lại, người lương
gọi họ là những kẻ theo “đạu yêu nhau.”
Cha Gaspar d’Amaral, bề trên giáo đoàn từ 1631-1638,
tiếp nối đường hướng và sáng kiến truyền giáo của
cha Đắc Lộ, đồng thời ngài đã hoàn chỉnh Hội Thầy
Giảng mà cha Đắc Lộ đã khởi đầu. Ngài cũng là người

rất giỏi tiếng Việt. Năm 1638, cha phải rời Đàng Ngoài
sau 7 năm phục vụ. Năm 1646, khi trở lai Đàng Ngoài
lần thứ ba, ngài đã chết do bị đắm tàu.











Tiếp sau đó, nhiều Giêsu-hữu đã được gởi đến truyền giảng
Tin Mừng ở Đàng Ngoài.
Năm 1632, hai Giêsu-hữu người Ý là Girolamo Majorica và
Bernadino Reggio đến Thăng Long.
Năm sau, Majorica đến Kẻ Rum (Vinh). Tại đây, nhờ thông
thạo tiếng Việt và chữ Nôm, sau năm tháng, ngài đã rửa tội
được cho 2.575. Đến năm 1634, Kẻ Rum đã có 4.183 bổn đạo.
Năm 1638, một ngôi nhà thờ đẹp đã được xây dựng tại đó.
Trong những năm kế tiếp, gặp phải biết bao chống đối và khó
khăn, các Giêsu-hữu khác vẫn tiếp tục được gởi đến và hoạt
động truyền giáo hầu như khắp Đàng Ngoài.
Tới năm 1663, giáo đoàn Đàng Ngoài đã có hơn 300.000 bổn
đạo và hơn 300 nhà thờ.
Tính tổng cộng, từ năm 1627-1773, có tất cả 95 Giêsu-hữu
ngoại quốc đến hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài, cộng
thêm với 26 Giêsu-hữu Việt Nam.



1. Là người truyền giáo (thừa sai)
Sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần (cầu nguyện – Lời Chúa).
1/ Hết lòng yêu mến Chúa Giêsu (Mc 3,13-14; Ga 15,16; Lc 12,49) – [Trái
tim bên phải]
2/ Hết tình yêu mến Giáo Hội
3/ Hết sức khao khát cho phần rỗi các linh hồn
2. Làm người truyền giáo
1/ Ý thức về căn tính và sứ mạng của người được sai đi phục vụ Tin Mừng,
2/ Khiêm tốn, khôn ngoan, biết phân định trong Thánh Thần.
3/ Nhiệt thành, hăng say, hy sinh, chịu khó, chịu khổ, can đảm dấn thân,
kiên trì, tin tưởng và hy vọng,
4/ Có mơ ước, sáng tạo và thích nghi, để đưa Tin Mừng hội nhập vào nền
văn hóa bản xứ (soạn sách GL, cử hành BT, PV, Kinh hạt)
5/ Yêu mến, lắng nghe, tôn trọng và học hỏi (con người, ngôn ngữ, đất
nước, tín ngưỡng, văn hóa, phong tục tập quán của người bản xứ),
6/ Biết hợp tác với người khác và mời gọi giáo dân cộng tác (Hội thầy giảng,
những người trí thức đạo đức, giới thiệu VN cho Phương Tây).
7/ Thăm viếng (lương-giáo) – làm việc bác ái xã hội (nhà thương )











Các Giêsu-hữu đến truyền giảng Tin Mừng tại Trung Hoa và Việt Nam đều tôn trọng
truyền thống tôn kính tổ tiên và để cho tín hữu tiếp tục thực hành những nghi lễ cổ kính
đó. Tại Việt Nam, các thừa sai Dòng Tên vẫn cho bổn đạo bày tỏ lòng tôn kính tổ tiên
theo tập tục đã có như cúng giỗ, ngay cả việc bày đồ cúng, đốt hương nhang trên phần
mộ, tôn kính Đức Khổng Tử, lập bàn thờ Thiên, giữ Trang trong nhà và các phong tục
khác. Các ngài chỉ sửa đổi và lọai bỏ những gì thật sự là mê tín dị đoan và buộc các
bổn đạo luôn chỉ tôn thờ một Đức Chúa Trời mà thôi, còn những vị khác, chỉ là tôn kính,
tưởng nhớ với lòng hiếu thảo theo tinh thần gia đình, xã hội và dân tộc. Nhưng nhiều
nhóm truyền giáo khác, nhất là nhóm thừa sai Paris, lại cho tất cả những nghi lễ trên là
mê tín dị đoan, nên tuyệt đối cấm chỉ các bổn đạo thực hành.
Sự khác biệt quan điểm dẫn tới việc tranh luận và kiện cáo qua Tòa Thánh. Vụ này
được biết dưới cái tên De Ritis Sinensibus - Lễ Phép Nước Ngô. Cuộc tranh tụng căng
thẳng kéo dài đến hơn 100 năm, kết thúc với việc Tòa Thánh công bố Hiến Chế Ex Quo
Singulari năm 1742, cấm chỉ tuyệt đối thực hành các nghi lễ trên. Ai phải ai sai vẫn còn
là đề tài tranh luận. Một điều có thể nói được rõ ràng là hậu quả thật tai hại cho việc
truyền giáo ở Việt Nam và Trung Hoa, vì nó làm cho người Việt Nam coi việc theo đạo
là bất hiếu với tổ tiên, mặc dù điều răn thứ tư của đạo Thiên Chúa (liền sau việc thờ
phượng Thiên Chúa) là “thảo kính cha mẹ”.
187 năm sau, vào ngày 08.12.1939, Huấn Thị Plane Compertum Est, do Bộ Truyền
Giáo ban hành, mới cho phép Giáo Hội Trung Hoa và tại các nước lân cận được cúng
giỗ … theo phong tục dân sự địa phương.
Riêng tại Việt Nam, ngày 14.06.1965, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mới công bố, tại
Đà Lạt, một thông báo cho phép cúng giỗ ….



×