1
MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Với dân số đông, diện tích địa lý trải rộng, môi trường
đa văn hoá, đa chủng tộc. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1750 tỷ USD chiếm « 20% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn
thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kĩ doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao,
thu nhập bĩnh quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng - Đây là thị trường khổng lồ đối
với các loại hàng hoá mà trong đó chứa đựng hầu hết các loại hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu.
Việt Nam là quốc gia đang bước trên tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế theo đuổi chiến
lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu. Và Hoa Kỳ là thị trường có
tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Quan hệ Việt - Hoa Kỳ đã được chính thức bĩnh
thường hoá từ năm 1995. Sau hơn mười năm tái thiết lập quan hê, việc bĩnh thường hoá đã khép lại quá khứ và mở ra tương lai
có lợi cho cả hai bên. Thực tế là kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng nhanh chóng qua các năm
và tính đến tháng 2/2007 Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 1.339.565 nghìn USD tăng
35.41% so với cùng kĩ năm 2006. Năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển cao hơn trong quan hệ hai nước khi quy chế PNTR
cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ thông qua. Bên cạnh đó do tác động của BTA mang lại, hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ được cạnh tranh bĩnh đẳng hơn, mức thuế áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu của ta đã giảm xuống khiến cho sự cạnh
tranh về giá cả phát huy được hiệu quả,...Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với các đối tác Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam
vẫn gặp nhiều khó khăn khi quy mô của các doanh nghiệp nội địa là nhỏ trong khi nhu cầu thị trường là lớn, các đơn đặt hàng
từ phía Hoa Kỳ thường yêu cầu với số lượng lớn, thời gian giao hàng nhanh, điều này là vượt quá khả năng của doanh nghiệp.
Những trở ngại trong hàng rào phi thuế quan của Hoa
Kỳ (Việc ban hành thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may đang được xem xét); tính phức tạp trong hệ thống luật pháp
Hoa Kỳ, cạnh tranh của hàng hoá Trung quốc,., đang tạo ra những rào cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ.
Năm 2006 là dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ
cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết minh để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước
ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục
tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận
được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỳ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa.
Trong điều kiện mới hiện nay, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu vào
2
thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc. Từ những vấn đề đó, em đã
chọn: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế”
Chuyên đề gồm có 3 Chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
Đối tượng nghiên cứu
Thị trường Hoa Kỳ với nhu cầu tiêu dùng, môi trường văn hoá kinh doanh, các đối tác Hoa Kỳ, các quy định đối với
hàng hoá nhập khẩu vào thị trường này,.. .và hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi hai nước chính thức bĩnh thường hoá quan hệ thương mại
từ năm 1995 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu các số liệu thống kê và những phân tích thực tế những vấn đề
liên quan, kết họp với phân tích dự bá
oChương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều
ĩ kiện
1 _Ạ ■
Ạ K_
hội nhập kinh tê quôc tê
1.1.
Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.
Khái niêm và Vãi trò
1.1.1.1.
Khái niêm
ĩ
i
Ạ
Thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát triển. Để
thành công trong nền kinh tế toàn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng như các nhà kinh
doanh phải hiểu rõ về kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế là một lĩnh vực rộng lớn
liên quan đến nhiều vấn đề: con người, vãn hóa, kinh tế, chính trị và nhiều yếu tố khác
liên quan đến môi trường xung quanh mà chủ thể trực tiếp của các hoạt động này là các
công ty kinh doanh trên trường quốc tế, thực hiện giao dịch buôn bán với nhau. Trên thực
tế các công ty có thể tiến hành giao dịch với nhau qua nhiều hĩnh thức nhưng phổ biến
nhất là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Một cách cơ bản nhất có thể định nghĩa: Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa dịch
vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Trong chiến lược kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp cần xác định được một trong
những yếu tố quan trọng mang lại thành công cho chiến lược của mình đó là cách thức
thâm nhập thị trường. Xuất khẩu được đánh giá là hĩnh thức thâm nhập thị trường ít rủi ro
với chi phí thấp so với các hĩnh thức khác. Neu xét dưới góc độ kinh doanh thì xuất khẩu
là việc bán hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác, còn xét dưới góc độ phi
kinh doanh (quà tặng, viện trợ) thì hoạt động xuất khẩu là việc lưu chuyển hàng hóa dịch
vụ qua biên giới một quốc gia.
1.1.1.2.
Vai trò của xuất khẩu
Thứ nhất, xuất khẩu để tạo ra nguồn vốn quan trọng thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu và
tích lũy sản xuất nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Trong
hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia luôn diễn ra đồng thời hai hoạt động cơ
bản là xuất khẩu và nhập khẩu, xuất khẩu luôn đi kèm nhập khẩu, hai mặt không thể tách
rời nhau trong một quan hệ gắn bó hỗ trợ lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhập khẩu là
mục đích còn xuất khẩu là phương tiện để đạt được mục đích đó. Mọi hoạt động xuất
khẩu đều hướng tới cái đích cuối cùng là bán được nhiều nhất các loại hàng hóa dịch vụ
mà quốc gia minh có khả năng để thu được một lượng ngoại tệ phục vụ trở lại cho việc
nhập khẩu các thiết bị, công nghệ hiện đại, các dịch vụ, các mặt hàng mà quốc gia minh
còn thiếu vừa để phục vụ nhu cầu tiêu dùng vừa để sản xuất đẩy nhanh tốc độ phát triển
của nền kinh tế.
Thứ hai, xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh
xuất khẩu chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán được nhiều nhất những hàng hóa
mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán hàng tăng lên, lượng hàng hóa xuất khẩu ra
nước ngoài nhiều hơn, nó sẽ tác động trở lại, đó là nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy nhanh
quá trình tạo ra sản phẩm, quy mô sản xuất của từng mặt hàng, từng ngành nghề lĩnh vực
cũng như quy mô toàn bộ nền kinh tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh
tế nhờ quy mô. Khi quy mô sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành
hàng mới vừa để bổ trợ cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác những tiềm năng
của đất nước, GDP của nền kinh tế không ngừng được tăng lên, quốc gia đạt được tốc độ
tăng trưởng cao và ổn định.
Thứ ba, xuất khẩu kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Xuất
khẩu tăng, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nhiều hơn, doanh nghiệp khi đó phải tìm
cách để nâng cao năng suất lao động sao cho tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Cách
thức nhanh chóng và hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu đó là cải tiến các trang thiết bị
máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như hoàn thiện dần quy trình sản xuất. Ngược lại,
khi hoạt động xuất khẩu luôn duy trĩ ở mức cao tức là lượng hàng hóa bán ra liên tục
tăng, làm tăng doanh số bán hàng, lợi nhuận tăng lên, khi đó doanh nghiệp có nhiều điều
kiện để quan tâm, đầu tư nhiều hcm vào việc hiện đại hóa dây chuyền sản xuất của minh.
Thứ tư, xuất khẩu tác động mạnh tới cơ cấu kinh tế của toàn bộ nền kinh tế cũng
như tác động tới cơ cấu của ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh.
Mỗi quốc gia đều có những ưu thế nhất định về một hoặc một vài chủng loại sản phẩm.
Trong thương mại quốc tế, các quốc gia luôn phải cạnh tranh với nhau vĩ thế để thu được
lợi ích cao nhất buộc mỗi quốc gia phải tim một hướng đi đúng cho minh, phải tim kiếm
và khai thác tối đa những thế mạnh của riêng minh. Khi đã biết được minh có điểm mạnh
gĩ, các quốc gia sẽ chuyên biệt hóa, đầu tư nhiều hơn tới việc phát triển thế mạnh của
minh, nghĩa là cơ cầu của nền kinh tế dần chuyển đổi theo hướng ưu tiên cho các ngành,
các mặt hàng mang lại giá trị và hiệu quả kinh tế tốt hơn.
Thứ năm, xuất khẩu có tác động tích cực và trực tiếp tới việc nâng cao mức sống
của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Khi kim ngạch xuất khẩu của một mặt
hàng, ngành hàng nào đó không ngừng tăng lên, quy mô sản xuất của ngành đó sẽ được
mở rộng. Sản xuất mở rộng, nhu cầu về lao động tăng, số lượng việc làm nhiều hơn, điều
đó đồng nghĩa là sẽ có thêm một bộ phận lao động trong xã hội có việc làm, thu nhập
người dân ổn định hơn, cuộc sống của họ được đảm bảo, khi đó họ sẽ có nhiều điều kiện
để nâng cao điều kiện sống cho gia đĩnh, tỷ lệ đói nghèo sẽ dần giảm bớt.
Thứ sáu, xuất khẩu giúp mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đối ngoại
giữa các quốc gia với nhau. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua
lại lẫn nhau: xuất khẩu là một trong những lĩnh vực của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu có
sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này
phát triển như quan hệ về tín dụng, quan hệ đầu tư, quan hệ vận tải.. .Xuất khẩu tạo tiền
đề cho hợp tác quốc tế trong những lĩnh vực này, ngược lại khi quan hệ quốc tế của
những lĩnh vực này tốt đẹp sẽ kích thích cho xuất khẩu trao đổi buôn bán giữa các quốc
gia phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Xét một cách tổng thể, trong quá trình phát triển của một quốc gia không thể không
có hoạt động thương mại quốc tế, đó là mối quan hệ vừa họp tác vừa cạnh tranh lẫn nhau
và trong cuộc cạnh tranh đó, quốc gia nào cũng muốn và cố gắng đến tối đa để hoạt động
xuất khẩu mang lại hiệu quả cao nhất. Chỉ khi xuất khẩu phát triển, quốc gia mới có điều
kiện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và một phần cho tích lũy, điều đó có nghĩa là, xuất
khẩu là chĩa khóa quan trọng để phát triển kinh tế và đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2.
Các hình thức xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu của một quốc gia thường diễn ra dưới hai hĩnh
thức cơ bản là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Đây là hai hĩnh thức, đồng thời
cũng là hai công cụ chủ yếu được các chủ thể kinh tế sử dụng trong quá trình thâm nhập
thị trường nước ngoài qua con đường xuất khẩu hàng hóa.
1.1.2.l.
Xuẩt khẩu trực tiến
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một chủ thể kinh tế cho các
khách hàng của minh ở thị trường nước ngoài. Hĩnh thức này thường được các công ty có
kinh nghiệm quốc tế sử dụng, khách hàng của họ không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng
mà bao gồm tất cả những đối tượng có nhu cầu, đã, đang và sẽ tiêu dùng sản phẩm của
công ty. Xuất khẩu trực tiếp thường được tiến hành qua hai hĩnh thức cơ bản:
a) Đại diện bản hàng
Đại diện bán hàng là hĩnh thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy
danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị
của khối lượng hàng hóa bán được. Xét về bản chất, hoạt động của đại diện bán hàng
chính là hoạt động của nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài, thông
qua hĩnh thức này công ty sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng trực tiếp với khách hàng tại
thị trường mà người đại diện bán hàng đang hiện diện.
b) Đại lý phân phối
Đại diện phân phối là người đứng ra mua hàng của công ty để bán theo kênh tiêu
thụ tại khu vực đã được quy định. Theo hĩnh thức này, công ty là người khống chế phạm
vi giới hạn hoạt động của người phân phối đồng thời đặt hoạt động của các kênh phân
phối này trong sự kiểm soát của minh. Mặc dù nằm dưới sự kiểm soát của công ty ủy thác
nhưng đại lý phân phối phải chịu trách nhiệm, chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc
bán hàng của công ty ủy thác trên thị trường đã được phân định và sẽ được hưởng phần
lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua và giá bán hàng hóa.
1.1.2.2.
Xuẩtkhẩu eián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hĩnh thức bán hàng hóa, dịch vụ của công ty ra thị trường
nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba). Nếu trong loại hĩnh xuất khẩu trực
tiếp thi người mua tim tới người bán, người bán tim gặp người mua, giữa hai bên tiến
hành trao đổi gặp gỡ trao đổi thông tin hàng hóa cho nhau một cách trực tiếp thi trong
loại hĩnh xuất khẩu gián tiếp, việc thiết lập quan hệ người mua - người bán cũng như các
điều kiện liên quan đến giao dịch mua bán hàng hóa được thực hiện thông qua người thứ
ba được gọi là trung gian mua bán. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng
hóa của người ủy thác mà chỉ đóng vai trò người trợ giúp, là cầu nối đưa hàng hóa của
người xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu gián tiếp có các hĩnh thức chủ yếu
sau:
a) Đại lý
Đại lý là tự nhiên nhân hay pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều hành vi theo sự ủy
thác của người ủy thác, quan hệ giữa người ủy thác và đại lý là quan hệ họp đồng đại lý.
Trên thực tế đại lý chỉ thực hiện một công việc nhất định nào đó cho người ủy thác và
nhận được khoản thù lao của mình, đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa mà chỉ là
người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa người xuất khẩu và khách hàng ở thị trường nước
ngoài.
b) Công ty quản lý xuất khấu
Là công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý
xuất khẩu hoạt động dựa trên danh nghĩa của người ủy thác với chức năng cơ bản là thực
hiện các hoạt động cũng như hoàn thiện các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất
khẩu. Xét về bản chất, các công ty quản lý xuất khẩu là trung gian thực hiện các dịch vụ
đại lý cho người ủy thác và nhận được một khoản thù lao định mức từ các hoạt động của
minh.
c) Công ty kỉnh doanh xuất khẩu
Là loại hĩnh công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập với chức năng cơ bản là
kết nối các khách hàng tại thị trường nước ngoài với công ty xuất khẩu của quốc gia
minh, từ đó tạo điều kiện đưa các hàng hóa trong nước ra nước ngoài tiêu thụ. Hoạt động
của các công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện tất cả các hoạt động dịch vụ xuất khẩu
từ những hoạt động trực tiếp liên quan đến xuất khẩu cho tới các hoạt động gián tiếp liên
quan như thiết lập và mở rộng kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư
cho tới trực tiếp tham gia một công đoạn sản xuất bổ trợ nào đó cho quá trình sản xuất
sản phẩm...Trên thực tế, các công ty kinh doanh xuất khẩu đều là những công ty có tiềm
lực và sự đảm bảo về tài chính cũng như có kinh nghiệm chuyên sâu về một mảng thị
trường nào đó với những chuyên gia làm dịch vụ xuất khẩu. Chi phí hoạt động của công
ty kinh doanh xuất khẩu là nguồn vốn của công ty và thu hồi lại từ các dịch vụ xuất khẩu
mà công ty thực hiện.
d) Đại lý vận tải
Là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên quan
đến xuất nhập khẩu hàng hóa: khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận
chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vận tải cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và
phát triển nhiều loại hĩnh dịch vụ giao nhận đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất
khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hàng thì các đơn vị này
cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan đến hàng hóa của công ty. Như vây, thực
chất hoạt động của các đại lý vận tải cũng chính là hoạt động của các công ty kinh doanh
giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí nó còn đi sâu hơn khi bao gồm
cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù họp với phương thức vận chuyển và mua bảo hiểm
cho hàng hóa xuất khẩu trong phạm vi hoạt động, quyền hạn của mình.
1.1.3.
NỘỈ dung xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa có hai khâu liên hệ mật thiết với nhau đó là thu mua,
huy động hàng xuất khẩu từ các đơn vị kinh tế trong nước và tiến hành ký kết, thực hiện
họp đồng xuất khẩu với nước ngoài. Trong hai khâu đó, thu mua hàng xuất khẩu là tiền đề
vật chất của xuất khẩu hàng hóa.
1.1.3.l.
Thu mua, cune ứne hànexuẩtkhẩu
Khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu, trước hết doanh nghiệp phải có
được nguồn hàng và phải biết được những quy định của Nhà nước đối với mặt hàng đó.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, để có nguồn hàng xuất khẩu doanh nghiệp phải
tiến hành hoạt động thu mua. Đe tổ chức tốt việc thu mua, bên cạnh việc quán triệt tốt
quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển sản
xuất hàng xuất khẩu thi doanh nghiệp còn phải làm tốt việc quản lý nguồn hàng xuất khẩu
của minh một cách chủ động, có biện pháp phát triển nguồn hàng đó cũng như phương
thức huy động thích họp.
Đối với phân loại nguồn hàng xuất khẩu, có ba chỉ tiêu phân loại:
Thứ nhất theo chế độ phân cấp quản lý bao gồm nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước và nguồn hàng ngoài kế hoạch
Thứ hai phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng gồm: từ các xí nghiệp, các
cơ sở sản xuất, các họp tác xã...
Thứ ba phân loại theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu bao
gồm nguồn hàng trong địa phương và nguồn hàng ngoài địa phương.
Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, đây là công việc bắt buộc để doanh
nghiệp có thể khai thác và phát triển nguồn hàng. Thông qua nghiên cứu nguồn hàng
doanh nghiệp có thể nắm được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của từng đơn vị nguồn
hàng đồng thời nó là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp tiến hành ký kết và thực
hiện hợp đồng xuất khẩu. Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu:
Thứ nhất, lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu
nghiên cứu tình hình và khả năng cung ứng cũng như tiêu thụ của một mặt hàng từ đó có
quyết định kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đó không.
Thứ hai, lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp này
người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất thông
qua các chỉ tiêu: số lượng và chất lượng hàng cung cấp hàng năm, giá thành, tình hĩnh
trang thiết bị, trình độ kỳ thuật, số lượng công nhân, trình độ tổ chức và quản lý.
1.1.3.2.
Ký kết và thực hiên hợp đồns xuất khẩu
Với tư cách là doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh hàng xuất khẩu, sau khi đã có
được nguồn hàng xuất khẩu, doanh nghiệp tiến hành ký kết họp đồng ngoại thương. Song
song với ký hợp đồng ngoại, doanh nghiệp cũng phải tiến hành đồng thời việc lưu kho
hàng xuất khẩu tiếp nhận từ các đơn vị nguồn hàng, việc lưu kho nhằm mục đích đóng
gói bảo quản hàng hóa trong thời gian hoàn tất thủ tục xuất hàng và sau khi đã hoàn tất
các thủ tục, trong thời gian thỏa thuận của họp đồng, doanh nghiệp tiến hành xuất kho
hàng hóa cho người nhập khẩu. Việc xuất hàng cho đối tác phải dựa trên cơ sở họp đồng
đã ký kết, người xuất khẩu phải có trách nhiệm đóng gói, phân lô phân loại, bảo đảm về
số lượng và chất lượng hàng hóa cho đến khi làm biên bản giao nhận với người nhập
khẩu, khi đó người xuất khẩu mới hết trách nhiệm.
Sau khi giao hàng, tùy theo thỏa thuận của hai bên mà hàng hóa có thể được bảo
hành trong phạm nhất định của người xuất khẩu. Còn người nhập khẩu sau khi nhận hàng
phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền hàng cũng như những chi phí được hai bên
thỏa thuận. Sau khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng mà hai bên không có bất
cứ khiếu kiện nào thì hoạt động xuất khẩu được thực hiện hoàn tất.
1.1.4.
Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.3.1.
Các nhân tổ thuộc về môi trường kinh doanh
Thứ nhất, môi trường vãn hóa. Văn hóa nói chung có thể được coi là tổng thể của
đức tin, các giá trị, niềm tin, thông lệ, ngôn ngữ và tôn giáo. Văn hóa của mỗi quốc gia có
những nét đặc thù khác biệt. Chính sự khác biệt về văn hóa sẽ kéo theo sự khác biệt về
nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, sự lựa chọn sản phẩm tiêu dùng theo đó cũng có sự khác
biệt lớn, người ta không thể xuất khẩu thịt lợn sang các quốc gia đạo hồi. Như vậy yếu tố
văn hóa tại một thị trường nào đó là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra quyết định lựa chọn
hàng hóa nào để xuất khẩu và thị hiếu của thị trường đó đối với sản phẩm ra sao để có
những điều chỉnh nhất định đối với sản phẩm. Sự khác nhau về yếu tố vãn hóa của một
quốc gia sẽ tạo ra sự khác nhau về mặt hàng xuất khẩu sang thị trường đó.
Thứ hai, môi trường chính trị luật pháp. Không một doanh nghiệp xuất khẩu nào
muốn bán sản phẩm của minh sang thị trường có thể chế chính trị bất ổn với tâm lý lo
ngại sự mất ổn định chính trị sẽ khiến cho các doanh nghiệp nhập khẩu trong trường họp
xấu không thể thanh toán mọi chi phí tiền hàng. Yeu tố luật pháp cũng ảnh hưởng đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua tác động của hàng rào thuế quan và phi
thuế quan. Neu mức thuế suất đối với các sản phẩm nhập khẩu cao hoặc mức độ bảo hộ
sản xuất trong nước của quốc gia đó lớn sẽ làm giảm kim ngạch xuất khẩu của các quốc
gia khác sang thị trường nước đó, ngược lại mức thuế mà một quốc gia áp dụng cho sản
phẩm nhập khẩu ở mức trung bĩnh cũng như các hàng rào yêu cầu kỳ thuật không quá
khắt khe, sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường và từ đó
sẽ làm tăng lượng hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường dễ tính
Thứ ba, môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế của một quốc gia bao gồm tốc độ
tăng trưởng kinh tế, quy mô của nền kinh tế và quy mô thị trường, cơ cấu của nền kinh
tế... Một quốc gia luôn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định tức là tổng thu
nhập quốc dân cao, theo đó thu nhập bĩnh quân đầu người cũng ở mức cao, đời sống nhân
dân được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng của người dân và toàn nền kinh tế sẽ tăng lên,
lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ nhiều hơn, điều này sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu từ
các công ty nước ngoài vĩ họ nhìn thấy tiềm năng thị trường lớn của quốc gia. Quy mô
của nền kinh tế lớn cũng khiến cho nhu cầu nhập khẩu tăng lên, và cũng tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu. Cơ cấu của nền kinh tế ảnh hưởng đến
cơ cấu xuất khẩu vào một quốc gia. Các nhà xuất khẩu khi lựa chọn thị trường xuất khẩu
thường phải có những đánh giá xem thị trường nội địa của quốc gia đó đang sản xuất
được cái gì, chủng loại ra sao để từ đó sẽ quyết định đưa mặt hàng nào xuất khẩu, khi lựa
chọn mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá yếu tố thị trường, thị
trường nào đang có nhu cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp thi
doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn thị trường đó.
1.1.3.2.
Nhân tổ thuộc về doanh nghiệp
Trước hết phải đề cập tới chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp đặt ra một mức tăng trưởng cao trong kim ngạch xuất khẩu trong một khoảng thời
gian nhất định, khi đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải hướng tới đạt được mục
tiêu đó, hoạt động xuất khẩu được đặt lên hàng đầu, doanh nghiệp sẽ nỗ lực trong việc
tim kiếm thị trường, xây dựng quảng bá hĩnh ảnh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm
với mong muốn người tiêu dùng tại thị trường nước ngoài sẽ ưu thích sản phẩm của minh
tạo cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn.
Thứ hai, chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất sẽ quyết định một phần quan trọng giá cả
của hàng hóa. Bằng cách kiểm soát tổng chi phí sẽ kiểm soát được giá cả hàng hóa ở mức
thấp, giá cả thấp khiến cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Ngoài ra chi phí sản
xuất thấp cũng mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp vĩ cùng một điều kiện
thương mại bĩnh thường, mức giá của một loại sản phẩm trên 1 thị trường là như nhau
trong khi chi phí sản xuất ra sản phẩm lại thấp hơn các đối thủ, như vậy doanh thu của
doanh nghiệp tăng lên, từ đó doanh nghiệp có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ tăng
cường sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chi phí vận chuyển cũng là một nhân tố tác động tới
giá cả hàng hóa, chi phí vận chuyển cao làm tăng giá thành sản phẩm, chi phí thấp, giá cả
hàng hóa sẽ thấp.
1.1.3.3.
Yếu tố sản phẩm
Sản phẩm là cái liên quan trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Do
đặc tính của mỗi loại sản phẩm khác nhau nên thị trường xuất khẩu sản phẩm cũng khác
nhau. Căn cứ vào những tính chất và điều kiện của sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn
hĩnh thức xuất khẩu phù họp, như các sản phẩm rau quả, các loại hải sản tươi sống trước
khi xuất khẩu phải qua khâu bảo quản sản phẩm... Những chi tiết kiểu dáng cũng như tính
chất công dụng của cùng một loại sản phẩm có sự khác nhau ở từng thị trường tiêu dùng,
trong đó giá cả và chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng lớn nhất tới quyết định mua hàng,
nhưng sự phân chia này chỉ mang tính chất tưcmg đối. Trên thực tế việc đánh giá một sản
phẩm là khác nhau giữa các thị trường: thị trường EU đánh giá và lựa chọn sản phẩm dựa
trên kiểu dáng mẫu mã tức là tính thẩm Hoa Kỳ sản phẩm, dựa trên thương hiệu của sản
phẩm; trong khi đó thị trường Hoa Kỳ lại đánh giá sản phẩm trên góc độ giá cả và chất
lượng , trong xu hướng tiêu dùng của minh, người Hoa Kỳ không quá đòi hỏi cầu kỳ, chỉ
cần một chất lượng đảm bảo với giá cả họp lý là có thể chính phục thị trường Hoa Kỳ...
Như vậy yếu tố sản phẩm có ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu của
doanh nghiệp.
1.2.Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ trong điều kiện hội nhập KTQT
Sau hơn 1 năm kể từ khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, ngày 11/7/1995, tổng thống Hoa
Kỳ Bill Clinton đã chính thức tuyên bố bĩnh thường hóa quan hệ thương mại, ngoại giao
với Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng ghi nhận những nỗ lực không ngừng của cả hai
quốc gia trong tiến trình cải thiện mối quan hệ phức tạp. Với chiến lược hướng mạnh vào
xuất khẩu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ Việt Nam đã chủ
trương mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó Hoa Kỳ là thị trường trọng điểm.
Quan hệ Việt Hoa Kỳ trong những năm qua được xây dựng trên tinh thần tự nguyện họp
tác hữu nghị, hai bên đều có nhu cầu hướng tới mối quan hệ hợp tác kinh tế, mở rộng xuất
nhập khẩu các mặt hàng mang tính bổ sung lẫn nhau. Hoa Kỳ đang hướng tới Việt Nam
như một thị trường đông dân đầy tiềm năng, một thị trường sản xuất hàng nông, thủy sản
đầy tiềm năng của châu Á. Còn Việt Nam hướng tới thị trường Hoa Kỳ như một thị
trường tiêu thụ khổng lồ có nền công nghệ kỹ thuật hiện đại và có nguồn vốn dồi dào vào
bậc nhất thể giới. Có thể thấy tính quy mô của thị trường này qua bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ và xuất khẩu của Việt Nam
trong một số mặt hàng
Nhóm hàng
Tổng nhập khẩu của
Hoa Kỳ năm 2005
Đơn vị: Triệu USD
Xuất khẩu của Việt
% của Việt Nam
Nam sang Hoa Kỳ
năm 2005
Thủy sản
trong
tổng
nhập
khẩu của Hoa Kỳ
630
5,25 %
Cà phê
12.000
2.775
150
5,405 %
Dệt may
100.500
3.000
2,985 %
Giày dép
17.830
717
4,021 %
Đồ nội thất
24.300
684
2,815 %
(Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ)
Việt Nam đã và đang đạt được những bước phát triển qua trọng trên tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của minh, thực hiện đường lối tự do hóa thưcmg mại trên cơ
sở hợp tác đa phưcmg. Việt Nam muốn làm bạn với các quốc gia trên thế giới, vĩ vậy
trong mọi đường lối chính sách của minh, Đảng và Nhà nước luôn thể hiện tinh thần
hòa bĩnh hữu nghị, không chỉ trong văn hóa xã hội mà trên mọi mặt kinh tế. Nằm
trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam không thể phát triển một cách cô
lập đóng cửa với bên ngoài, chúng ta phải mở cửa, chủ động bắt tay hợp tác với nhiều
nền kinh tế khác nhau, và thực tế là chúng ta đang thực hiện thành công quan chính
sách đa dạng hóa các quan hệ kinh tế trên tinh thần hợp tác cùng có lợi.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) của Việt Nam diễn ra chủ động và
tích cực với việc tham gia các tổ chức, các liên kết và các định chế KTQT ở nhiều
cấp độ khác nhau: gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), gia nhập APEC
(1998) và việc ký kết BTA là cơ sở cho việc gia nhập WTO năm 2006 - bước phát
triển quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Gia nhập WTO, cơ hội xuất
khẩu cho hàng hóa Việt Nam là rất lớn, chúng ta sẽ được cạnh tranh bĩnh đẳng, thị
trường tiêu thụ được mở rộng. Trong sân chơi thương mại toàn cầu đó, Hoa Kỳ là
quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn tới các chính sách thương mại quốc tế của nhiều quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta sẽ
được hưởng sự đãi ngộ như các quốc gia thành viên khác vĩ thế các doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam phải biết khai thác mọi lợi thế để thúc đẩy xuất khẩu hàng
hóa của minh sang thị trường này, xuất khẩu sang Hoa Kỳ thuận lợi sẽ tạo điều kiện
cho xuất khẩu sang các thị trường khác. Và phát triển quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ
không chỉ đơn thuần là hợp tác kinh tế để khai thác lợi ích lẫn nhau, mà phát triển
quan hệ thương mại là cơ sở đảm bảo cho phát triển các quan hệ trên mọi lĩnh vực
khác nhau mà nhất là quan hệ đối ngoại giữa hai Chính phủ. Chính vĩ vậy, Đảng và
Nhà nước ta vẫn luôn rất coi trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Hoa Kỳ vĩ lợi
ích của nền kinh tế, lợi ích quốc gia của cả hai nước.
1.3.Kỉnh nghiệm của Trung Quốc trong đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị
trường Hoa Kỳ
Năm 2006 đánh dấu việc Trung Quốc tròn 5 năm gia nhập WTO, đánh giá
chung của các tập đoàn, các tổ chức quốc tế như WB hay IMF đối với sự phát triển
của nền kinh tế Trung Quốc trong những năm trước và cho tới thời điểm hiện tại đều
rất tích cực với tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu suất cao và lạm phát thấp. Với tốc độ
tăng trưởng 2 con số liên tục giúp Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trên thế
giới. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu năm 2006 của Trung Quốc đạt 960
tỷ USD tăng 26,8% so với mức trung bĩnh hàng năm, thặng dư thương mại đạt 150 tỷ
USD và Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Trung Quốc (sau EU) với kim
ngạch thương mại đạt 142,16 tỷ USD. Có thể nói không chỉ gia tăng về lượng xuất
khẩu một cách nhanh chóng mà điểm cần nhấn mạnh trong xuất khẩu của Trung
Quốc đó là cơ cấu xuất khẩu ngày một hoàn thiện hơn theo hướng xuất khẩu các sản
phẩm máy móc điện tử và hàng công nghệ cao: trong 4 tháng đầu năm 2006, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu là 25,8% trong đó tăng trưởng của các mặt hàng truyền thống
như dệt may chỉ khoảng 24%, giày dép là 19% trong khi đó mức tăng của các ngành
công nghiệp nặng và khoa học công nghệ cao lại khá nhiều (đồng hồ điện tử là 46%,
xe ô tô và lỉnh kiện tăng 43%...) trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Trung Quốc
cũng đạt được những hiệu quả mà Việt Nam cần tham khảo.
Trước hết là đối với ngành hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Trung Quốc vào Hoa Kỳ không những lớn mà còn có tốc độ tăng trưởng cao.
Năm 2005 Trung Quốc xuất sang Hoa Kỳ khoảng 27 tỷ USD tăng 42,5% so với năm
2004 và chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ. Sức
mạnh cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc là nhờ vào các nhân tố: chi phí lao
động trên mỗi sản phẩm thấp do mức lương thấp và năng suất lao động cao; Trung
Quốc có thể sản xuất vải, phụ kiện trang trí, bao bĩ và hầu hết các phụ kiện khác dùng
để sản xuất hàng dệt may và các sản phẩm khác; Trung Quốc được giới chuyên môn
đánh giá là một nơi tốt nhất về sản xuất quần áo và các sản phẩm dệt may khác với
bất kỳ chất lượng nào hay với bất kỳ mức giá nào; Trung Quốc có thể cung cấp hàng
dệt may với số lượng lớn trong thời gian ngắn, tạo tâm lý an tâm với người nhập
khẩu. Là một ngành truyền thống, lợi thế Trung Quốc có một lực lượng lao động có
kỷ luật và lành nghề, đây cũng là quốc gia tự đảm bảo được nhu cầu về sợi tổng họp
và tự nhiên. Ngành dệt may Trung Quốc là ngành đầu tiên sử dụng Internet để tiến
hàng giao dịch trực tuyến. Một điểm nổi bật nữa là Trung Quốc hiện đang sử dụng có
hiệu quả phương cách one - stop - shopping, theo đó các nhà máy kết nối với nhau, sử
dụng nguyên liệu có sẵn để thực hiện tất cả các khâu: kéo sợi, dệt, nhuộm, cắt và
may. Một kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc là giao hàng đúng
hạn với chất lượng tốt, điều này có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của ngành dệt
may và thực tế Trung Quốc luôn là người giao hàng đầu tiên và tốt nhất... Với những
lợi thế vốn có cũng như những cố gắng nỗ lực của chính mình, Trung Quốc là nhà
cung cấp hàng đầu, một đối thủ cạnh tranh nặng ký mà không một ai muốn đối đối
đầu. Qua những kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể học tập ở cách thức
sản xuất hiện đại, việc cung ứng sản phẩm đảm bảo một giá trị nội địa lớn, phương
cách one - stop - shopping. Ngoài ra chúng ta cũng cần học hỏi cách làm sao đảm bảo
chữ tín trong quan hệ thương mại quốc tế.
Mặt hàng thứ hai mà Trung Quốc vẫn luôn đạt được sự tăng trưởng trong xuất
khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, đó là các sản phẩm gia dụng, nội thất. Trung Quốc là
quốc gia xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất vào Hoa Kỳ, năm 2005 đạt 11,7 tỷ USD
tăng 2 tỷ so với năm 2004 và chiếm 48% thị phần nhập khẩu mặt hàng này của Hoa
Kỳ. Nguyên nhân của điều này là: giá thành của các sản phẩm của Trung Quốc ngày
một thấp trong khi chất lượng lại ngày càng nâng cao; nhiều công ty nước ngoài thậm
chí kể cả một số công ty hàng đầu của Hoa Kỳ đã di chuyển sản xuất sang Trung
Quốc để tận dụng giá lao động rẻ làm tăng khả năng cung của nước này; chi phí vận
tải thấp; quan hệ giữa nhà sản xuất ở Trung Quốc với các nhà bán lẻ của Hoa Kỳ
ngày càng chặt chẽ. Với những phân tích trên, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm
của Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư sản xuất từ các nhà đầu tư nước ngoài mà
nhất là nhà đầu tư Hoa Kỳ vào những ngành mà chúng ta có lợi thế, đồng thời cần gia
tăng củng cố quan hệ với hệ thống bán lẻ của Hoa Kỳ, đây là cầu nối quan trọng cho
hàng hóa Việt Nam đến được với người tiêu dùng.
Đối với các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao,
Trung Quốc cũng là nhà cung cấp lớn cho thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay Trung Quốc
là nước xuất khẩu lớn nhất hàng điện tử vào Hoa Kỳ, năm 2005 giá trị xuất khẩu của
ngành này là 86,7 tỷ USD tăng 25,4% so với năm 2004 chiếm 28,5% tổng nhập khẩu
hàng điện tử của Trung Quốc. Còn xuất khẩu máy tính và phụ kiện của Trung Quốc
vào Hoa Kỳ cũng chiếm thị phần lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao nhất, năm 2005
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt khoảng 40,3 tỷ USD tăng 18,6 % so với năm
2004 chiếm 43% thị phần của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng trưởng xuất
khẩu cao các mặt hàng này là do nhiều nhà sản xuất lớn trên thế giới đã chuyển vào
đầu tư sản xuất tại Trung Quốc do giá nhân công rẻ. Việt Nam cũng là quốc gia có
một đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, chi phí lao động của nước ta không cao vĩ thế
chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc để thu hút nhiều hơn các nhà đầu
tư nước ngoài vào đầu tư sản xuất trong nước, mà trước hết cần phải xây dựng hệ
thống các khu công nghệ cao, các khu chế xuất và hoàn thiện các chế tài tạo môi
trường thuận lợi và tâm lý an toàn cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
2.1.
Thị trường Hoa Kỳ
2.1.1. Những đặc điểm CO’ bản của thị trường Hoa Kỳ
Tên nước: Họp Chủng quốc Hoa Kỳ (The United State of America)
Vị trí địa lỷ\ Nằm ở Bắc Hoa Kỳ, phía đông là Bắc Đại Tây Dương, phía Tây là
Bắc Thái Bĩnh Dương, phía Bắc giáp với Canada và phía Nam giáp với Meehico.
Diện tích'. 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích toàn cầu trong đó diện tích đất
liền là 9.158.960 km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2.
Dân số Hoa Kỳ tính đến tháng 7/2005 là 295.734.134 người trong đó độ tuổi 0
-14 chiếm 21%; có 66,4% dân số trong độ tuổi 15 - 64 và có 12,6% dân số ở độ tuổi
trên 65. Tuổi thọ trung bĩnh của người dân Hoa Kỳ là 77,4 tuổi trong đó nam trung
bĩnh là 75,5 tuổi và nữ là 80,2 tuổi. Đây là một quốc gia đa sắc tộc với người da trắng
chiếm 77,1%; người da đen chiếm 12,9%; người châu Á chiếm 4,2% còn lại là thổ
dân và các dân tộc khác. Có khoảng 30% dân số Hoa Kỳ hiện nay là người nhập cư
và trung bĩnh hàng năm có khoảng một triệu người nhập cư vào Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là quốc gia theo thể chế Cộng hòa Tổng thống, chế độ lưỡng viện (từ
năm 1789). Hiện nay Hoa Kỳ có 50 bang, 1 quận (Washington DC - District of
Columbia) và 13 lãnh thổ quốc đảo phụ thuộc khác.
Thủ đô của Hoa Kỳ là Washington DC với diện tích 176 km2 và khoáng 600
nghìn dân. Các thành phố chính: New York, Los Angeles, Chicago, San Prancisco,
Philadelphia và Boston. Người ta biết đến Hoa Kỳ là một quốc gia có tiềm lực quân
sự mạnh nhất, một nền kinh tế phát triển năng động với cơ cấu kinh tế: công nghiệp
chiếm 18% GDP, 2% nông nghiệp và 80% là ngành dịch vụ. Mặc dù nông nghiệp chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ nhưng quốc gia này lại đứng đầu thế
giới về sản lượng ngũ cốc, nông nghiệp đã có những thay đổi nhanh chóng và giữ vị
trí bất biến trong đời sống hàng ngày, các sản phẩm nông nghiệp, lương thực thực
phẩm của quốc gia này được sản xuất rất an toàn, phong phú và giá cả phù họp. Với
ngành công nghiệp, Hoa Kỳ là quốc gia phát triển hàng đầu thế giới về những sản
phẩm tiên tiến và có tính cạnh tranh cao. Lợi thế của Hoa Kỳ là có nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú như than đá, đồng chi.. .đã khiến cho trong giai đoạn những
năm 1880 và 1900, thậm chí tới tận ngày nay Hoa Kỳ vẫn nổi lên là một quốc gia
phát triển mạnh về công nghiệp với các ngành chủ chốt là sản xuất thép, xe hơi, cơ
khí điện và điện tử, ô tô, hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hóa
chất...trong đó riêng ngành công nghiệp chế tạo chiếm trên 80% giá trị toàn ngành.
2.1.1.l.
Hoa Kỳ là thỉ trườns cổ tính mở cao
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại vĩ vậy
các quy chế xuất nhập khẩu mà quốc gia này đã và đang áp dụng đều phù họp với
những nguyên tắc cơ bản của WTO, đây là quốc gia nhập khẩu với khối lượng lớn
các mặt hàng có hàm lượng lao động cao: dệt may, giày dép...trong đó có nhiều mặt
hàng tiêu dùng thông thường mà Hoa Kỳ hầu như không sản xuất. Một thực tế là sự
phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ đã liên tục đóng góp cho sự phát triển toàn cầu nhờ
duy trì chính sách mở cửa thị trường. Thông qua chính sách mở cửa của minh, các
nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng Hoa Kỳ có thể tiếp cận với hàng hóa dịch vụ
từ nước ngoài với những điều kiện ưu đãi nhất. Trong hầu hết các chính sách phát
triển kinh tế, Hoa Kỳ luôn chủ trương đặt hệ thống thương mại đa phương vào trung
tâm của các quan hệ thương mại quốc tế của mình, luôn có xu hướng mở cửa thị
trường một cách cao độ thông qua các cuộc đàm phán từ song phương cho tới khu
vực để đạt tới một chiến lược tự do hóa thương mại mang lại nhiều lợi ích quốc gia
nhất.
Tính mở của thị trường còn được thể hiện ở nhu cầu thị hiếu cũng như những
yêu cầu trong tiêu dùng của người Hoa Kỳ không quá khắt khe, nhu cầu tiêu dùng
nhiều nhưng họ không quá kỹ tính như những người tiêu dùng châu Âu hay Nhật
Bản. Mặt khác, là đất nước đa sắc tộc, các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng có sự
phân hóa nhất định vĩ vậy nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp khác nhau thi cũng
khác nhau, hàng hóa bán trên thị trường Hoa Kỳ cũng sẽ đa dạng phong phú hơn cả
về chủng loại lẫn chất lượng. Sức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường Hoa Kỳ là vô
cùng hấp dẫn với bất kỳ nhà xuất khẩu nước ngoài nào. Theo một khảo sát mới đây
thi bĩnh quân một năm, một người phụ nữ Hoa Kỳ mua khoảng 54 bộ quần áo và 6
đôi giày, và người tiêu dùng chủ yếu hiện nay là phụ nữ sau đó đến giới trẻ. Thị
trường đồ gỗ cũng hấp dẫn không kém khi kim ngạch nhập khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ
và đồ nội thất là trên 40 tỷ USD/ năm, nhu cầu tiêu dùng đối với mặt hàng này hàng
năm không ngừng tăng lên. Với mặt hàng thủy sản thi trung bĩnh một người Hoa Kỳ
tiêu dùng khoảng 16,3 pound/ người/ năm, tức là họ đã tiêu thụ khoảng 8 % tổng sản
lượng thủy sản thế giới... Có thể thấy, những mặt hàng mà thị trường Hoa Kỳ có kim
ngạch nhập khẩu lớn và có nhu cầu cao đều là những hàng hóa Việt Nam hoàn toàn
có khả năng cung ứng tốt, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
thêm nhiều cơ hội kinh doanh tại thị trường này.
2.1.1.2,
Tính quy chuẩn và thốne nhất cao đô đối với các sản phẩm nhập
khẩu vào thỉ trườns Hoa Kỳ
Là thị trường rộng, sức mua lớn, nhu cầu đa dạng nhưng đồng thời cũng là thị
trường có những quy định tương đối chặt chẽ đối với hàng hóa nhập khẩu. Thông
thường, hàng hóa được các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhập về phải có khối lượng lớn,
phải đảm bảo đúng quy chuẩn, đúng thời hạn và đặc biệt là không được phương hại
đến lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các công ty nhập khẩu. Hàng hóa trước khi
đưa vào phân phối đến tay người tiêu dùng đều phải được kiểm nghiệm chặt chẽ, chỉ
khi đã đáp ứng được các chuẩn mực nhất định mới được phép đưa vào lưu thông tới
người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra, trong quá trĩnh nhập khẩu hàng hóa vào thị
trường nội địa, Hoa Kỳ cũng đưa ra những quy định chung về cách tính trị giá hải
quan, về nội dung hĩnh thức của một hóa đơn thương mại đặc biệt vấn đề xuất xứ sản
phẩm rất được coi trọng. Mức thuế nhập khẩu được áp dụng khác nhau cho các hàng
hóa đến từ các nhóm nước khác nhau và một số mặt hàng còn chịu sự quản lý bàng
hạn ngạch phân bổ theo quốc gia do đó việc xác định được xuất xứ hàng hóa là hết
sức quan trọng.
2.1.1.3. Thi trườns Hoa Kỳ cổ hê thốne phân phối thốne nhất và ổn đỉnh
Do đặc tính là thị trường lớn, thị hiếu tiêu dùng đa dạng nên việc cung ứng các
loại hàng hóa tới người tiêu dùng cũng phải có quy mô tương ứng. Thực tế đã cho
thấy hệ thống phân phối hàng hóa ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao và có một tổ
chức hoàn chỉnh. Tại Hoa Kỳ hiện nay có nhiều loại công ty lớn, vừa và nhỏ sử dụng
các kênh phân phối sản phẩm khác nhau. Các công ty lớn thường có hệ thống phân
phối riêng và tự minh thực hiện các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối
và tự nhập khẩu. Còn đối với các công ty vừa và nhỏ thi vận động xung quanh hệ
thống thị trường và được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Các công ty vừa và nhỏ của
Hoa Kỳ tiến hành nhập khẩu hàng hóa về và bán tại thị trường trong nước thông qua
nhiều cách khác nhau: bán cho các cửa hàng bán lẻ, bán cho các nhà phân phối, tiến
hành bán lẻ trực tiếp.. .Khi nói tới các kênh phân phối trên thị trường Hoa Kỳ không
thể không nhắc tới vai trò của hệ thống bán lẻ. Hiện nay Hoa Kỳ có trên 1 triệu doanh
nghiệp bán lẻ chiếm khoảng 11,7% tổng số việc làm tại Hoa Kỳ, riêng trong ngành
may mặc đã có hàng trăm cửa hàng bán lẻ quần áo với doanh thu khoảng 93 tỷ USD/
năm. Với mặt hàng thủy sản, việc cung ứng cũng rất tiện lợi với hệ thống các nhà
hàng, hệ thống cung cấp cho các cơ sở ăn uống công cộng như trường học, hộ gia
đinh; hệ thống bán lẻ là các chuỗi siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, các cửa
hàng...
2.1.1.4. Hoa Kỳ là thị trườns có cườns độ cạnh tranh cao
Như đã biết, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ hàng năm là lớn nhất thế giới, đây
là cái đích hướng tới của nhiều nhà xuất khẩu. Do đó trên thị trường này luôn có mặt
của rất nhiều nhà cung cấp lớn nhỏ từ khắp nơi trên thế giới, đó chính là nguyên nhân
cơ bản của sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất khẩu với nhau, giữa nhà xuất khẩu
với nhà sản xuất nội địa, và trong những chiến lược cạnh tranh đó, giá cả và chất
lượng là hai yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quan trọng cần được các doanh nghiệp
xuất khẩu lưu tâm. Trong hai yếu tố đó, giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn so với
chất lượng sản phẩm bởi người tiêu dùng Hoa Kỳ thường không muốn trả tiền theo
giá niêm yết, hàng hóa bán tại trị trường Hoa Kỳ phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng,
số lượng và chất lượng của những dịch vụ này có ý nghĩa quan trọng trong sự lựa
chọn mua hàng của họ. Nắm được đặc điểm này mà các doanh nghiệp thường tập
trung cao vào phục vụ tốt các dịch vụ sau bán hàng cũng như tim cách để hạ thấp giá
thành sản phẩm đến mức tối thiểu có thể. Các nhà kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ
phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt và cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn.
2.1.1.5. Vai trò của các Hiệp hội kinh doanh và hê thốne tư vấn rất được đề cao
Mặc dù là thị trường có tính mở khá cao nhưng trên thực tế các chính sách
thương mại của quốc gia này vẫn mang xu hướng bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất
trong nước tương đối chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện ở một số
lượng lớn các Hiệp hội, các tổ chức của các nhà kinh doanh giữ vai trò hướng dẫn,
phối hợp hoạt động và bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp trong nước trước sự thâm
nhập mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này vừa tạo ra những thách
thức và những cơ hội mà nếu doanh nghiệp nước ngoài khai thác được thi sẽ có được
một sự đảm bảo vững chắc cho xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Hoa Kỳ là: thông
qua thiết lập mối quan hệ tốt đẹp bĩnh đẳng với các tổ chức Hiệp hội ngành hàng của
Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ có thể dễ dàng tim cho minh những đối tác làm
ăn là các doanh nghiệp nội địa phù họp nhất từ đó thiết lập quan hệ thương mại, cơ sở
cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đây là cách tiếp cận thị trường hiệu quả cao
và đảm bảo được sự tin cậy.
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ vốn phức tạp nên để có thể hiểu được những vấn đề
liên quan đến pháp luật cũng như có một sự đảm bảo pháp lý vững chắc cho hoạt
động kinh doanh của mình, nhà xuất khẩu thường lựa chọn cho mình những cố vấn
luật pháp riêng. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ rất đề cao vai trò của các dịch vụ tư vấn
đặc biệt là dịch vụ tư vấn luật, họ rất sợ trong hợp đồng của mình có bất cứ điều gì
không rõ ràng hay không đúng với quy định của pháp luật, và họ cũng muốn các đối
tác làm ăn của mình nắm vững cơ sở pháp lý cho các điều khoản hợp đồng. Các nhà
xuất khẩu, doanh nghiệp nước ngoài luôn cần phải có sự hỗ trợ của các loại hĩnh dịch
vụ này cho quá trình hoạt động của minh trong quan hệ làm ăn với thương nhân Hoa
Kỳ, tuy nhiên cũng cần phải tính toán cụ thể vĩ giá của những dịch vụ này tại Hoa Kỳ
là tương đối cao. Với người Hoa Kỳ, “thời gian là tiền bạc”, họ cũng coi thời gian là
một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác, người Hoa Kỳ tiết kiệm thời
gian như tiết kiệm tiền bạc đặc biệt là những người làm dịch vụ tư vấn, luật sư..
.thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ làm việc với khách hàng. Vĩ vậy, các
nhà kinh doanh nước ngoài khi cần phải sử dụng các dịch vụ này phải hết sức lưu ý:
chuẩn bị đầy đủ và chu đáo mọi câu hỏi cần giải đáp cũng như nội dung cần tư vấn để
đi thẳng vào vấn đề, tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng các dịch vụ này. Cũng chính vĩ
tiết kiệm thời gian mà các nhà kinh doanh Hoa Kỳ không có nhiều thời gian cho
những câu chuyện rông dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc phải chờ đợi sự trả lời
chậm trễ. Do đó, các bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải đảm bảo được
sự ngắn gọn súc tích thu hút được sự chú ý của đối tác, nội dung phải rõ ràng và trả
lời thẳng vào vấn đề mà đối tác quan tâm. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng sẽ làm
mất cơ hội kinh doanh.
2.1.2.
Rào cản thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Là một quốc gia theo thể chế Cộng hòa Liên bang do đó ngoài hệ thống pháp
luật liên bang thi mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng nhưng không được trái
với Hiến pháp chung của quốc gia, trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật liên
bang, luật của bang hoặc luật địa phương thì luật liên bang sẽ có hiệu lực. Tất cả các
bang của Hoa Kỳ (trừ bang Luoisiana theo hệ thống Luật châu Âu) đều theo hệ thống
Luật Anh - Hoa Kỳ. Theo hệ thống Luật pháp này thì những giải thích luật của Tòa án
sẽ trở thành luật áp dụng trong các trường họp sau và tương tự do đó với các nhà xuất
khẩu nước ngoài khi tìm hiểu luật pháp Hoa Kỳ cũng cần phải nghiên cứu tìm hiểu
các phán quyết của Tòa án.
Hệ thống luật pháp Hoa Kỳ phức tạp nhưng về cơ bản nó bao gồm:
Thứ nhất, Luật bồi thường thương mại được sử dụng với mục đích chống lại sự
cạnh tranh không công bằng của hàng nhập khẩu với hàng hóa được sản xuất trong
nước và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước. Luật bồi thường thương mại
bao gồm 2 phân nhánh là Luật chống trợ giá và Luật chống bán phá giá.
Thứ hai, Luật hạn chế nhập khẩu bao gồm: Hạn chế nhập khẩu nông sản và
hàng dệt; Hiệp định đa sợi/ Hiệp định hàng dệt may; Nông nghiệp và Luật thực hiện
các Hiệp định vòng đàm phán Urugoay; Hạn ngạch thuế quan đối với sản phẩm
đường; Hạn ngạch thuế quan đối với thịt; và Luật cấm nhập khẩu một số loại rau quả
nếu không đáp ứng được phẩm cấp tiêu thụ
Thứ ba, các điều Luật hạn chế nhập khẩu căn cứ theo các Luật môi trường: Luật
bảo vệ động vật biển có vú 1972 (MMPA); Luật thực thi lệnh cấm đánh cá ngoài khơi
xa bờ bàng lưới quét; Luật bảo tồn chim rừng năm 1992...
Thứ tư, Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm
Thứ năm, Luật bảo vệ người tiêu dùng bao gồm: Luật an toàn sản phẩm tiêu
dùng; Luật liên bang về các chất nguy hiểm; Luật về vải dễ cháy; Luật về an toàn tủ
lạnh gia đĩnh; Luật về đóng gói phòng ngộ độc.
2.1.2.1.
HỆ thốne thuế và biểu thuế nhập khẩu đổi với hàne hóa nhập khẩu
vào Hoa Kỳ
Biểu thuế nhập khẩu (biểu thuế quan) HTS hiện hành của Hoa Kỳ được ban
hành trong Luật thương mại và cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ ngày
01/01/1989. Hệ thống thuế quan của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế
quan HS của Hội đồng Họp tác Hải quan - một tổ chức liên Chính phủ có trụ sở tại
Bruxen. Theo biểu thuế này thì mức thuế với các hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ có
thể thay đổi và được công bố hàng năm.
a) Các loại thuế
Mặc dù có rất nhiều loại thuế khác nhau được áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu vào Hoa Kỳ nhưng về cơ bản hiện nay quốc gia này đang áp dụng các loại thuế
sau, cách phân chia này được dựa trên phương thức tính thuế:
Thứ nhất, thuế theo giá trị. Đây là thuế được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là
bằng một tỷ lệ % trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu.
Thứ hai, thuế theo trọng lượng/ khối lượng. Loại thuế này được áp dụng chủ
yếu cho hàng nông sản và hàng sơ chế, nó chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong
biểu thuế HTS của Hoa Kỳ.
Thứ ba, thuế gộp. Thuế gộp được áp dụng cho hàng nông sản, theo cách tính
thuế này hàng hóa nhập khẩu sẽ phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế theo số
lượng/ khối lượng.
Thứ tư, thuế theo hạn ngạch. Hàng hóa nằm trong phạm vi hạn ngạch cho phép
sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn, còn đối với những hàng hóa nhập khẩu vượt quá
hạn ngạch sẽ phải chịu mức thuế cao hơn và có nhiều trường hợp còn bị trừng phạt
bàng biện pháp cấm nhập khẩu. Thuế này áp dụng với các sản phẩm thịt bò, sản phẩm
sữa, đường, các sản phẩm đường.
Thứ năm, thuế theo thời vụ. Theo những quy định của loại thuế này thi mức
thuế đối với một loại nông sản có thể thay đổi tùy theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa
Kỳ do đó nó áp dụng chủ yếu cho các loại nông sản có tính chất mùa vụ.
Thứ sáu, thuế leo thang. Thuế leo thang được tính trên cơ sở mức độ chế biến
của sản phẩm, các mặt hàng có tỷ lệ chế biến cao thi thuế suất nhập khẩu càng cao.
Loại thuế này còn được gọi là thuế lũy tiến: thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thô
là rất thấp trong khi thuế đối với sản phẩm chế biến là rất cao. Chính vĩ vậy mà thuế
leo thang được sử dụng với mục đích khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng
sơ chế thay vĩ nhập khẩu thành phẩm.
b) Các mức thuế
Theo một cách phân chia khác, trong từng loại thuế, hàng hóa nhập khẩu vào
Hoa Kỳ còn được điều chỉnh theo các mức thuế suất khác nhau mà cơ sở để điều
chỉnh được dựa trên nguồn gốc của sản phẩm:
Thứ nhất, mức thuế tối huệ quốc (MFN) hay còn được gọi là mức thuế dành cho
các nước có quan hệ thương mại bĩnh thường (NTR). Mức thuế này được áp dụng
cho các nước thành viên WTO và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO
nhưng đã ký Hiệp định thương mại song phương. Theo quy định của Hoa Kỳ, mức
thuế MFN nằm trong phạm vi giới hạn từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các
mặt hàng đều chịu mức thuế từ 2% - 7% và theo giá trị bĩnh quân là khoảng 4%.
Thứ hai, mức thuế phi tối huệ quốc (Non - MFN) được áp dụng với những quốc
gia chưa phải là thành viên của WTO và chưa ký Hiệp định thương mại song phương
với Hoa Kỳ, mức thuế suất nằm trong khoảng 20% -110%.
Thứ ba, mức thuế áp dụng với khu vực mậu dịch tự do NAFTA: hàng hóa được
nhập khẩu từ Mexico và Canada sẽ được miễn thuế nhập khẩu hoặc được hưởng mức
thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN.
Thứ tư, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP): Một số hàng hóa xuất khẩu từ
một số quốc gia đang phát triển được Hoa Kỳ cho hưởng GSP sẽ được miễn thuế
nhập khẩu. Hiện nay có khoảng 3500 sản phẩm từ trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ
được hưởng ưu đãi này, trong đó có Việt Nam. Những hàng hóa được hưởng GSP là
những sản phẩm công nghiệp và bán công nghiệp, một số mặt hàng nông thủy sản và
các nguyên liệu công nghiệp. Chương trình GSP của Hoa Kỳ thực sự được thực hiện
từ ngày 01/01/1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay, chương trình này
đã được gia hạn nhiều lần cùng với một số sửa đổi.
Thứ năm, sáng kiến khu vực lòng chảo Caribe (CBI) quy định rằng tổng thống
có quyền đơn phương dành ưu đãi thương mại cho hàng nhập khẩu từ các nước và
lãnh thổ nằm trong khu vực lòng chảo Caribe. Hiện nay có 24 quốc gia và vùng lãnh
thổ được hưởng lợi của CBI theo đó hàng hóa xuất khẩu từ các quốc gia này vào Hoa
Kỳ không bị hạn chế về số lượng và được miễn thuế.
Thứ sáu, cấc Hiệp định thương mại tự do song phương. Theo thỏa thuận trong
các hiệp định này thì hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ nằm trong phạm vi Hiệp định
giữa Hoa Kỳ và một quốc gia nào đó sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn mức thuế
MFN.
Thứ bảy, cấc ưu đãi thuế quan khác. Đây là những ưu đãi đối với các loại hàng
hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ thuộc diện hưởng lợi của Luật Thương mại các sản phẩm
ô tô, Hiệp định Thương mại máy bay dân dụng, Hiệp định thương mại các sản phẩm
Dược và những cam kết giảm thuế của vòng Uruguay đối với hóa chất nguyên liệu
trực tiếp của thuốc nhuộm. Đối với các mặt hàng kim loại chế biến ở nước ngoài từ
kim loại mua của Hoa Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ được miễn thuế nhập khẩu
đối với phần giá trị mua của Hoa Kỳ. Với hàng lắp ráp từ các bộ phận mua của Hoa
Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ được miễn thuế nhập khẩu đối với phần trị giá mua