Tải bản đầy đủ (.doc) (221 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ đổi mới VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc TRÊN địa bàn TỈNH BÌNH DƯƠNG và BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.87 KB, 221 trang )

5

Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay loài người đang bước vào nền văn minh mới với những
biến đổi sâu sắc, trực tiếp tác động tới từng dân tộc, từng quốc gia cả bề
rộng lẫn chiều sâu, làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, ảnh hưởng đến tình
cảm, tâm lý và đời sống của từng dân tộc.
Việt Nam là nước đa dân tộc, vì vậy chính sách dân tộc (CSDT) là
một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng, Nhà nước
để tạo nên sự ổn định và thúc đẩy xã hội phát triển. Cho nên việc xây dựng
và thực hiện CSDT đúng, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc củng cố
khối đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc cùng phát triển.
Các dân tộc ở Việt Nam có quan hệ lâu đời trên nhiều lĩnh vực,
trong quá trình cùng tồn tại và phát triển. Từ khi ra đời và suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ giữa các dân tộc cùng phát triển.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, tồn tại, song những thành tựu do cách
mạng đem lại cho đồng bào các dân tộc trong mấy chục năm qua là không
thể phủ nhận. Các dân tộc đã thoát khỏi thân phận người dân nô lệ, bị áp
bức, bóc lột, chia rẽ, khinh miệt, thậm chí có dân tộc bị nguy cơ đẩy đến bờ
diệt vong dưới thời đế quốc, phong kiến trước đây. Nạn đói rách, mù chữ,
bệnh tật trong cuộc sống thường ngày của nhân dân từng bước được khắc
phục và chăm lo tốt hơn. Đời sống đồng bào nhiều vùng được cải thiện rõ rệt.
Những thành tựu đã đạt được ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
mấy chục năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng là hết sức quan trọng. Song,
trên thực tế những thành tựu ấy vẫn chưa tương xứng với vị trí chiến lược
của miền núi và vùng dân tộc, chưa đạt được những mục tiêu cách mạng
mà Đảng đã đề ra.



6

CSDT ở nước ta luôn được đặt ra như một vấn đề đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là những vấn đề
rất nhạy cảm, vừa mang tính thời sự vừa mang tính chiến lược. Tuy nhiên,
hiệu quả và kết quả thực tế của thực hiện CSDT còn rất hạn chế, chưa tương
xứng với tiền của, công sức chúng ta đã bỏ ra và mong đợi của đồng bào.
Vì thế, việc nhận thức đúng đắn và sâu sắc đối với quá trình đổi
mới thực hiện CSDT nhằm tạo sự phát triển mọi mặt về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nói chung, vùng dân tộc thiểu số miền núi nói riêng đang là một đòi hỏi
bức xúc hiện nay.
Đồng bào các dân tộc tỉnh Bình Dương, Bình Phước cũng không
ngoài tình trạng đó, thậm chí có những điều bức xúc hơn. Xuất phát từ thực
tế như vậy, tác giả chọn vấn đề: "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân
tộc trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Bình Phước" làm đề tài luận án khoa
học, nhằm góp phần nhỏ tham gia giải quyết những vấn đề bức xúc đang
đặt ra ở địa phương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


7

Vấn đề dân tộc và việc thực hiện CSDT là đối tượng nghiên cứu
của nhiều môn khoa học xã hội khác nhau như Triết học, Sử học, Dân tộc
học, Xã hội học, Văn học, Nghệ thuật, Chủ nghĩa cộng sản khoa học...
Dưới những góc độ khác nhau của các môn khoa học đó, vấn đề dân tộc đã
được nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và đạt được những thành tựu
quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc
sống xã hội. ở nước ta nhiều công trình khoa học đã góp phần làm rõ lịch

sử hình thành, phát triển và đặc điểm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
trong quá trình dựng nước và giữ nước, tình hình kinh tế, xã hội vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số, những vấn đề về thực hiện CSDT của Đảng nhằm
xây dựng phát triển củng cố khối đoàn kết bình đẳng dân tộc. Đã có những
công trình đi sâu nghiên cứu các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục, y tế, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, như:
"Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia - dân tộc" của GS Đặng
Nghiêm Vạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; "Các dân tộc thiểu số
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi" do GS Bế Viết Đẳng (chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Phát triển quan hệ dân tộc ở
Việt Nam hiện nay" của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà nội, 1997; "50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945 - 1995)", do
GS Bế Viết Đẳng (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; "Bình
đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp" do GS.TS Trịnh
Quốc Tuấn (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Phát triển
kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa" của Lê Dụ Phong và Hoàng Văn Hoa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998; "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ
dân tộc ở Việt Nam" của TS Nguyễn Quốc Phẩm và GS.TS Trịnh Quốc
Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Đề tài khoa học 04-05:
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến dân tộc, sắc tộc
ở nước ta và trên thế giới, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta",


8

do GS Phan Hữu Dật làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2000... và nhiều công trình
nghiên cứu quan trọng khác có liên quan, do khuôn khổ của luận án tác giả
không thể thống kê đầy đủ. Những công trình khoa học này dưới nhiều góc
độ và mức độ khác nhau đã phân tích, làm rõ tình hình đặc điểm dân tộc ở

nước ta; chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, những vấn đề đặt ra
cần thực hiện tốt hơn CSDT của Đảng trong điều kiện mới... ở tỉnh Sông
Bé trước đây; tỉnh Bình Dương, Bình Phước hiện nay cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu với những khía cạnh và góc độ khác nhau về vấn đề
dân tộc như "Vấn đề dân tộc ở Sông Bé" do GS Mạc Đường (chủ biên), Nxb
Tổng hợp Sông Bé, 1985; Đề tài khoa học "Những biến đổi kinh tế - xã hội
của các dân tộc ít người và vùng miền núi tỉnh Sông Bé (từ 1975 đến nay)"
do Huỳnh Văn Điển, Phan An (chủ biên) và một số tác giả khác, Ban Dân
vận Tỉnh ủy Bình Phước, 1998; "Nghệ thuật cồng chiêng của dân tộc
Xtiêng tỉnh Sông Bé" do Vũ Hồng Thịnh, Bùi Lẫm (chủ biên), Sở Văn hóa
Thông tin tỉnh Sông Bé, 1995 v.v... Những công trình khoa học này mới đi
sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc ở địa phương dưới góc độ dân tộc học, lịch
sử, văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ chính trị - xã hội, việc
nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện CSDT trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, Bình Phước và phương hướng đổi mới thực hiện CSDT sao cho có
hiệu quả vẫn chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án nhằm làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
những vấn đề cơ bản của việc đổi mới thực hiện CSDT ở Bình Dương,
Bình Phước hiện nay.
Để đạt mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:


9

- Luận giải khái quát những nội dung lý luận cơ bản về dân tộc và
CSDT, thực hiện CSDT trong cách mạng XHCN.
- Phân tích thực trạng tình hình dân tộc và việc thực hiện CSDT ở
Bình Dương, Bình Phước hiện nay.

- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới thực hiện CSDT ở
Bình Dương, Bình Phước hiện nay.
4. Cái mới của luận án
Dưới góc độ chính trị - xã hội, luận án làm rõ những vấn đề về
CSDT, thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước, rút ra những bài học kinh
nghiệm về vấn đề này. Trên cơ sở đó làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn đổi
mới thực hiện CSDT nói chung, ở tỉnh Bình Dương, Bình Phước nói riêng.
Đề xuất phương hướng, giải pháp cụ thể, thích hợp đổi mới thực hiện
CSDT làm tăng thêm tính hiệu lực, hiệu quả đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số.
5. Cơ sở lý luận, và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu thực hiện đề tài là những nguyên
lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và CSDT. Đồng thời tác giả kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân
văn có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận án là kết quả điều tra nghiên cứu thực tế đời
sống xã hội và kết quả thực hiện CSDT ở Bình Dương, Bình Phước hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của tác giả là sử dụng phương pháp lôgic
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, kết hợp với điều tra, phỏng vấn tại địa bàn.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án


10

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng các nghị quyết, chủ trương về công tác dân
tộc và thực hiện CSDT ở Bình Dương, Bình Phước, cũng như những địa
phương có đặc điểm tình hình tương tự. Đồng thời, luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy ở các trường chính

trị tỉnh, ở các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, ba chương, bảy tiết, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
DÂN Tộc Và Chính Sách DÂN Tộc

1.1. Dân tộc

Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C. Mác và Ph. Ăng-ghen
đã chỉ ra rằng, do bóp nặn thị trường thế giới, GCTS đã làm cho sản xuất
và tiêu dùng ở tất cả các nước mang tính chất thế giới, làm cho công nghiệp
bị mất cơ sở dân tộc. Những cơ sở dân tộc cũ đã bị tiêu diệt và ngày càng
bị tiêu diệt. Những cơ sở công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những công
nghiệp mới; việc du nhập công nghiệp mới trở thành vấn đề sống còn đối
với tất cả các dân tộc văn minh. Công nghiệp mới không dùng nguyên liệu
bản xứ mà dùng nguyên liệu được đưa từ những miền xa xôi đến và sản
phẩm làm ra không chỉ tiêu thụ trong xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các
nơi trên trái đất. Nếu như trước kia những nhu cầu cũ được thỏa mãn bằng
những sản phẩm trong nước, thì nay đã nảy sinh những nhu cầu mới, đòi
hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm từ những miền và những xứ xa
xôi khác. Thay vì tình trạng biệt lập trước kia giữa các địa phương và dân
tộc do nền sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, đã phát triển những mối quan hệ sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Những thành quả hoạt động tinh
thần của một dân tộc cũng trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc.
Tính chất chật hẹp và phiến diện dân tộc không thể tồn tại được nữa và từ
những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang nảy

nở một nền văn học toàn thế giới. Hai ông cho rằng:


12

Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các
phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản
lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn
minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn
thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người
dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục.
Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư
sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du
nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản [64, tr. 602].
Từ lập luận trên đây, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đi tới khẳng định
về quá trình hình thành dân tộc:
Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán về
tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập
trung các tư liệu sản xuất, và tích tụ tài sản vào trong tay một số
ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung
về chính trị. Những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như
chỉ bởi những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ,
chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã được tập hợp lại thành
một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất một luật
pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai
cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất [64, tr. 602-603].


13


Như vậy, dân tộc là một phạm trù lịch sử, ở Tây Âu dân tộc hình
thành trong thời kỳ CNTB đang lên. Sự hình thành dân tộc đã được Mác
-Ăngghen phân tích và hiểu theo nghĩa là một quốc gia dân tộc (Nation),
đó là một cộng đồng chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một Nhà nước
thống nhất, được thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, lúc đầu được hình
thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc, hay liên minh bộ lạc; sau này là một
tập hợp của nhiều cộng đồng tộc người khác nhau (Ethnie).
Nghiên cứu vấn đề dân tộc, C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn đặt nó
trong phạm trù cách mạng vô sản và khi giải quyết vấn đề dân tộc, hai ông
luôn gắn chặt vấn đề đó với sứ mệnh lịch sử của GCVS. Trong quan niệm
của hai ông, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Chính Ph. Ăng-ghen đã từng khẳng định:
Không một dân tộc nào có thể trở thành tự do trong khi
còn tiếp tục áp bức những dân tộc khác. Cho nên, việc giải phóng
nước Đức không thể thực hiện được nếu không giải phóng Ba
Lan khỏi ách áp bức của người Đức. Đó là lý do vì sao mà Ba
Lan và Đức lại có những lợi ích chung, vì sao những người dân
chủ Ba Lan và Đức có thể cùng nhau hoạt động cho sự nghiệp
giải phóng cả hai dân tộc [64, tr. 528].
Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C. Mác và Ph. Ăng-ghen
chỉ ra rằng: "Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về
mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại
mang hình thức đấu tranh dân tộc" [64, tr. 611] và các ông đã nhấn mạnh: "...
giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc" [64, tr.
623-624].
Xuất phát từ những điều kiện của CNTB đang lên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định những đặc điểm chung về dân tộc:


14


- Tính chất, hình thức, quy luật của sự hình thành dân tộc trong sự
phát triển xã hội đều liên quan tới quá trình hình thành phát triển của
CNTB và tính chất lịch sử của các cộng đồng dân tộc.
- Vai trò quyết định của những nhân tố kinh tế, đặc biệt tính cộng
đồng của đời sống kinh tế trong sự hình thành và tiến bộ của các dân tộc,
trong sự phát triển các mối quan hệ dân tộc.
- Tác động to lớn của các nhân tố giai cấp của chủ nghĩa quốc tế vô
sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển các quá
trình dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc.
- ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành dân tộc của cộng đồng
ngôn ngữ và cộng đồng lãnh thổ.
- ảnh hưởng to lớn của văn hóa dân tộc, ý thức dân tộc và tính cách
dân tộc đối với sự phát triển của các dân tộc và những mối quan hệ qua lại
của họ trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng.
Dựa vào học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đã cụ
thể, bổ sung, phát triển toàn diện và sâu sắc về dân tộc, quan hệ dân tộc và
chính sách của Đảng Bôn-sê-vich về vấn đề dân tộc.


15

Lê-nin cho rằng, dân tộc là sản phẩm hợp quy luật của hình thái xã
hội TBCN, đồng thời cũng là hình thức phát triển tất yếu của đời sống xã
hội. Xuất phát từ cơ sở đó, Lê-nin làm sâu sắc thêm quan niệm mácxít về
mối quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp và dân tộc, cũng như giữa Nhà
nước và dân tộc, xác định vai trò ngôn ngữ trong đời sống dân tộc và tính
chất giai cấp của nền văn hóa dân tộc. Qua các tác phẩm của Lê-nin, dân
tộc là một hiện tượng xã hội có tính chất phức tạp; có cơ sở từ những quan
hệ kinh tế. Những quan hệ kinh tế này giúp cho việc đoàn kết dân cư của

những lãnh thổ to lớn lại thành một chỉnh thể thống nhất. Lê-nin đặc biệt
nhấn mạnh đến tính chất lịch sử của dân tộc khi nghiên cứu những điều
kiện phát triển của nó, và khẳng định tính tất yếu của sự hòa hợp các dân
tộc trong tương lai.


16

Từ những quan điểm trên cho thấy, dân tộc là một phạm trù rộng
lớn, phong phú, đa dạng và phức tạp. Đến nay, nhiều nhà khoa học trên thế
giới và trong nước đã đưa ra khá nhiều định nghĩa dân tộc khác nhau. Tạp
chí Cộng sản số 1 năm 2000 cho rằng: dân tộc là một cộng đồng người
được hình thành trong lịch sử cùng sinh sống ổn định trong một khu vực
nhất định, có chung tiếng nói, phong tục tập quán, đời sống kinh tế, văn
hóa và tâm lý xã hội. Dân tộc còn được hiểu là quốc gia - dân tộc, trong
trường hợp này, dân tộc là một cộng đồng người có chung lãnh thổ, có
chung tiếng nói, văn hóa, chế độ xã hội và chính quyền nhà nước (ví dụ
dân tộc Việt Nam). ở đây, từ dân tộc cũng được hiểu gần giống như từ nhân
dân. Trong Từ điển Oxpho của Mỹ (năm 1976) từ dân tộc viết là nation và
những từ có liên quan khác như quốc tịch là nationality, xuyên quốc gia là
transnational, tính chất quốc gia là national, Liên hợp quốc là United
Nations... Cụm từ "quốc gia dân tộc" có nghĩa là một quốc gia chỉ có một
dân tộc. Nhưng trên thực tế, ngày nay rất hiếm quốc gia chỉ có một dân tộc.
Năm 1985, thế giới có 165 quốc gia tuyên bố là quốc gia dân tộc. Nhưng
trong đó 3/4 quốc gia là đa dân tộc; 1/4 quốc gia dân tộc đa số chiếm 95%
dân số, 5% dân số là các dân tộc thiểu số. Có lẽ vì thế, khái niệm "quốc gia
dân tộc" (nation-state) đang nhường chỗ cho khái niệm "quốc gia đa dân tộc"
(multi-ethnicstate).
Trong quốc gia đa dân tộc, có dân tộc chiếm đa số hoặc tuyệt đại
đa số dân cư. Dân tộc thiểu số thường là những cộng đồng ít người, cùng

sống trong một khu vực, có chung huyết thống, có chung ngôn ngữ, văn
hóa, phong tục tập quán, tâm lý tư tưởng và trình độ phát triển.


17

Trong tiếng Việt, từ dân tộc thiểu số chỉ có nghĩa phân biệt số đông
và số ít, hoàn toàn không có nghĩa là phân biệt đối xử trong quan hệ xã
hội. Trên thế giới, trước đây từ này chỉ những nhóm người sống ở vùng xa
xôi hẻo lánh, bị đối xử không bình đẳng. Ví dụ người Do Thái ở châu Âu,
một thời gian dài, bị phân biệt đối xử chỉ vì họ là thiểu số và theo một tôn
giáo riêng. Người Ba Lan ở Đức và người Ai-rơ-len ở Anh trước đây cũng
từng chịu cảnh ngộ tương tự.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, nhận
thức của con người đối với đặc trưng văn hóa và giá trị nhân văn của các
dân tộc đã được nâng cao. Quyền bình đẳng dân tộc đã được thừa nhận
rộng rãi. Một nền văn hóa dân tộc này không được phép thống trị, đồng hóa
hoặc thay thế một nền văn hóa dân tộc khác, dù đó là dân tộc lớn hay nhỏ.
Sự phân biệt đối xử và kỳ thị dân tộc đang bị lên án khắp nơi. Trong điều
kiện đó, khái niệm dân tộc thiểu số (ethnic group) không còn có ý nghĩa
phân biệt đối xử.


18

Theo một nghĩa rộng hơn, khái niệm dân tộc còn có thể hiểu:
1- Những cộng đồng người được hình thành qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau, có trình độ phát triển khác nhau: dân tộc nguyên thủy, dân tộc cổ đại,
dân tộc cận hiện đại; 2- Những cộng đồng người có chung văn hóa, ngôn
ngữ và sinh sống trong những vùng rộng lớn vượt qua biên giới quốc gia như

dân tộc ả Rập, dân tộc Mỹ-latinh, dân tộc châu Phi... 3- Những cộng đồng
người tuy cùng sinh sống trong cùng một lãnh thổ, nhưng có nguồn gốc
khác nhau: dân tộc bản địa, dân tộc du mục, dân tộc ngoại lai... 4- Những
trường hợp khác, từ dân tộc được hiểu theo nghĩa rất rộng như phong trào
giải phóng dân tộc, xung đột dân tộc, truyền thống dân tộc, văn hóa dân tộc,
CSDT, chủ nghĩa dân tộc... Hiện nay, trên thế giới, xu hướng chủ nghĩa dân
tộc đã gia tăng làm cho mâu thuẫn dân tộc, xung đột dân tộc bùng nổ, đe dọa
sự ổn định và hòa bình ở nhiều khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh
sự bùng nổ của xu hướng dân tộc cực đoan này, trên thế giới đương đại
đang diễn ra hai quá trình dân tộc đáng chú ý. Thứ nhất, sự hội nhập và
giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Trong tiến trình này, quan hệ dân
tộc và ý thức dân tộc, quan niệm về chủ quyền dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ
dân tộc đang có những thay đổi lớn, mà nếu không có chúng thì sự phát triển
kinh tế và khoa học - kỹ thuật hiện đại của từng quốc gia và cả cộng đồng
quốc tế có thể sẽ bị cản trở. Thứ hai, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc; bảo vệ và phát huy chủ quyền quốc gia và sức mạnh dân tộc. Hai quá
trình này có quan hệ biện chứng với nhau, như chúng ta đã xác định: tán
thành hội nhập, nhưng không hòa tan; hội nhập mà vẫn nhất thiết phải bảo
vệ, phát huy độc lập chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc [92].


19

Trên những phương diện chung nhất và những yếu tố cơ bản về dân
tộc, tác giả luận án cho rằng: dân tộc là một cộng đồng xã hội - tộc người
được đặc trưng bởi sự thống nhất của nền kinh tế và lãnh thổ, ngôn ngữ,
văn học, tính cách dân tộc và văn hóa. Một cách chung nhất, dân tộc xuất
hiện trong những điều kiện của sự ra đời CNTB. Dân tộc trải qua những
giai đoạn phát triển nhất định tích lũy trong nó kinh nghiệm lịch sử, sự tiến
hóa của những lực lượng sản xuất, trình độ giác ngộ cách mạng và tính tổ

chức của quần chúng.
Trên phương diện khái quát nhất, dân tộc là một cộng đồng người
đã được hình thành về mặt lịch sử, dân tộc là sự kế thừa phát triển của bộ
lạc và bộ tộc, nhưng tất cả những dấu hiệu của dân tộc đều khác nhau về
chất so với những dấu hiệu của các cộng đồng tiền dân tộc. Việc nghiên
cứu bản thân dân tộc cũng như toàn bộ tập hợp những hiện tượng và
những quá trình có liên quan với nó xét trong sự thống nhất biện chứng cả
hai phương diện xã hội và tộc người. Điều đó có thể suy nghĩ sâu sắc hơn
về một loạt vấn đề của thời đại hiện nay có tính chất cấp bách về mặt tư
tưởng và chính trị liên quan tới vấn đề dân tộc.
Trong lịch sử, dân tộc xuất hiện trước hết như là dân tộc TBCN và
sau đó, do kết quả của những chuyển biến cách mạng, khi CNXH thay thế
CNTB thì dân tộc TBCN được cải tạo thành dân tộc XHCN. Sự hình thành
dân tộc XHCN nói chung khác về cơ bản với sự xuất hiện và hình thành
dân tộc TBCN. Dưới CNXH, dân tộc được cải tạo và phát triển từ những
loại hình dân tộc trước đó. Kể cả những bộ tộc trước đây chưa phát triển
thành dân tộc cũng được cải tạo thành dân tộc XHCN. Các dân tộc XHCN
thường xuất hiện do kết quả của việc cải tạo cách mạng đối với các dân tộc
TBCN. Quá trình cải tạo này, có thể phân biệt hai giai đoạn: a) Sự hình
thành dân tộc XHCN, bắt đầu từ việc thiết lập nền chuyên chính của GCVS


20

và hoàn thành về cơ bản việc xây dựng xã hội XHCN. b) Sự phát triển hơn
nữa dân tộc XHCN theo hướng củng cố nó, làm cho nó phồn thịnh và xích
lại gần với các dân tộc XHCN khác. Sự phát triển này hoàn thành với việc
xây dựng xã hội CSCN và việc chuyển các dân tộc XHCN thành các dân
tộc CSCN.
Các dân tộc XHCN được hình thành do kết quả của việc cải tạo dân

tộc TBCN hay do sự xuất hiện của dân tộc mới trên cơ sở xây dựng CNXH.
Trong quá trình hình thành dân tộc XHCN, nội dung xã hội của nó bị thay
đổi hoàn toàn. Nhưng những đặc điểm tộc người của những người tạo ra
dân tộc, ngôn ngữ của họ, những hình thức đặc biệt của nền văn hóa, thói
quen và tập quán, thái độ của họ đối với lãnh thổ, tổ quốc của họ là do kết
quả của việc cải tạo cách mạng, thay đổi một cách hết sức chậm chạp và khác
nhau; khi chuyển sang dân tộc XHCN, những đặc điểm đó gắn liền với dân
tộc và trở thành một khía cạnh tộc người của dân tộc XHCN.
Trên phương diện chung nhất, bước đầu theo tác giả có thể hiểu: dân
tộc XHCN là cộng đồng xã hội mới của những con người lớn lên từ những
dân tộc hay bộ tộc của xã hội TBCN trong quá trình thủ tiêu CNTB và thắng
lợi của CNXH. ở những cộng đồng người này vẫn còn giữ lại, những đặc
điểm tộc người trước đây của họ, nhưng toàn bộ nếp sống chính trị, kinh
tế, xã hội và tinh thần đều đã được cải tạo theo những nguyên tắc của
CNXH.
Với thắng lợi của CNXH, dân tộc - tuy về cơ bản vẫn giữ những
dấu ấn tộc người nhưng đã thay đổi loại hình xã hội đến tận gốc rễ, nó trở
thành XHCN về cơ sở kinh tế, về cơ cấu giai cấp, về chế độ chính trị và
lĩnh vực tinh thần. Sự xuất hiện những dấu hiệu mới của dân tộc, được quy
định bởi đời sống XHCN và quốc tế chủ nghĩa.


21

1.2. chính sách dân tộc

Vấn đề dân tộc là một vấn đề chính trị - xã hội đặc biệt nhạy cảm.
Các giai cấp khi nắm quyền thống trị xã hội đều phải quan tâm giải quyết
vấn đề dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, giai
cấp thống trị trong mỗi thời đại lịch sử đều đưa ra những phương thức giải

quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc theo quan điểm, ý thức hệ của giai
cấp mình. Các phương thức giải quyết thường được gọi là "chính sách dân
tộc". Như vậy, CSDT thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền thống trị xã
hội, nắm quyền lãnh đạo và quản lý xã hội trong một thời kỳ lịch sử nhất
định. Mục đích của chính sách đó nhằm điều chỉnh các mối quan hệ dân
tộc, giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia theo quan điểm của giai
cấp thống trị tại quốc gia đó. CSDT cũng là cơ sở để giải quyết mối quan
hệ giữa các quốc gia dân tộc trong khu vực và quốc tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt như đã nêu, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin rất quan tâm đến CSDT. Trong "Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản", Mác và Ăng-ghen khẳng định rằng: "Hãy xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị
xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn
nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo" [64, tr. 624].
Để giải quyết vấn đề dân tộc phải luôn gắn với vấn đề giai cấp, chỉ
có đấu tranh thủ tiêu giai cấp, mới xóa bỏ được nạn người bóc lột người và
tình trạng áp bức dân tộc. Ph. Ăng-ghen kết luận, công nhân tất cả các nước
đều giống nhau, lợi ích của họ thống nhất, kẻ thù của họ cũng giống nhau,
cho nên họ cần hiệp lực đấu tranh chung và xây dựng khối liên minh công
nhân tất cả các dân tộc đối lập với liên minh GCTS các dân tộc.
Tư tưởng đoàn kết GCCN toàn thế giới, đấu tranh chống áp bức bóc
lột, thủ tiêu chế độ TBCN đi đến thủ tiêu giai cấp, thủ tiêu tình trạng người


22

bóc lột người vừa là nguyên tắc lý luận, đồng thời cũng là nền tảng của
CSDT mácxít của GCCN trong cuộc đấu tranh chống GCTS. Điều đó thể
hiện tập trung thái độ chính trị của những người cộng sản, thái độ của
GCCN nói chung trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm đánh đổ CNTB.

Quan điểm đó cũng chỉ rõ phương hướng chiến lược, và giải pháp cơ bản
tập hợp lực lượng GCCN tất cả các dân tộc đấu tranh chống ách áp bức, nô
dịch đang đè nặng trên đầu họ.
Phong trào cách mạng của GCCN ngày càng phát triển mạnh mẽ và
rộng khắp, đòi hỏi các Đảng Cộng sản cũng phải xây dựng CSDT cho phù
hợp với từng giai đoạn của cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt đó.
Những quan điểm của Mác và Ăng-ghen nêu trên được coi là cương
lĩnh đầu tiên, là nguyên tắc lý luận và kim chỉ nam cho hành động của các
Đảng Cộng sản giải quyết vấn đề dân tộc. Quan điểm đó thể hiện ở ba vấn
đề cơ bản như sau:
Thứ nhất: Chế độ sở hữu tư nhân TBCN là cơ sở sinh ra nạn người
bóc lột người; cơ sở duy trì và dung dưỡng nạn áp bức giai cấp và áp bức
dân tộc của GCTS đối với GCVS và các dân tộc.
Thứ hai: Tình trạng áp bức giai cấp sẽ phát triển cùng với sự phát
triển của CNTB. Sản xuất TBCN càng đẩy mạnh thì nạn bóc lột và áp bức
giai cấp, áp bức dân tộc càng nặng nề. Vì vậy, muốn xóa bỏ nạn áp bức giai
cấp, tình trạng dân tộc này đi nô dịch, bóc lột dân tộc khác thì phải xóa bỏ
tận gốc chế độ sở hữu tư nhân TBCN, cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra nạn áp
bức giai cấp, nạn nô dịch dân tộc.
Thứ ba: Cuộc đấu tranh giai cấp của GCVS chống lại GCTS trong xã
hội TBCN, tuy không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang
hình thức đấu tranh dân tộc. Do vậy, trước hết GCVS phải giành lấy chính
quyền, phải tự mình trở thành dân tộc.


23

Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX hầu hết các nước tư bản
phương Tây đều đã chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Tình trạng một
số nước đế quốc đi áp bức nô dịch các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trở

thành phổ biến trên thế giới. Khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề dân tộc,
V.I. Lê-nin đã phát hiện hai xu hướng có tính quy luật của phong trào dân
tộc. Người cho rằng:
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng
lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là: sự thức tỉnh
của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh
chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc.
Xu hướng thứ hai là: việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ
quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng rào ngăn cách
các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản, của
đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học v.v...
Cương lĩnh dân tộc của những người mácxít chú ý đến cả
hai xu hướng đó [60, tr. 158].
Xuất phát từ quan điểm khoa học, luận chứng về vấn đề dân tộc như
vậy, Lê-nin đề ra Cương lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản, đó chính là
linh hồn và nội dung cơ bản của CSDT. "Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng;
các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại:
đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và
kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân" [61, tr. 375]. Đây chính là
tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về CSDT.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số
hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp, không phân biệt chủng
tộc, mầu da... Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh


24

vực trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây cũng là cơ sở
pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong các khu

vực hay trong một quốc gia. Bởi điều đó được công pháp quốc tế và pháp
luật các quốc gia ghi nhận. Bình đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết
quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước là thành quả của văn hóa
văn minh và tiến bộ xã hội.
Theo Lê-nin: "Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ
với việc đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số... bất cứ một thứ đặc
quyền nào dành riêng cho một dân tộc, và bất cứ một một sự vi phạm nào
đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ" [60, tr. 179].
Bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trong nội dung kinh tế hay
bình đẳng về kinh tế. Lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích giai cấp, dân tộc,
quốc gia, bởi vậy giải quyết các mối quan hệ liên quan đến dân tộc, đều
phải tính đến quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Bất cứ sự áp đặt nào trong
hợp tác, giao lưu, liên kết, bất kỳ đặc quyền kinh tế nào dành riêng cho các
dân tộc, đều dẫn đến việc vi phạm lợi ích của các dân tộc, dẫn đến sự bất
bình đẳng dân tộc. Ngày nay, trong xu thế giao lưu, liên kết, hợp tác quốc
tế về kinh tế giữa các dân tộc, bình đẳng trên phương diện kinh tế là tạo
điều kiện thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, hợp tác cùng có lợi trong phát
triển kinh tế của các dân tộc, các quốc gia.
Bình đẳng chính trị cũng là quyền của mỗi dân tộc. Đối với các dân
tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị,
chính là điều kiện để có bình đẳng trên các phương diện khác của đời sống
xã hội. Lê-nin cũng nêu rõ vấn đề bình đẳng về chính trị liên quan đến
quyền tự quyết của các dân tộc. Nhận thức và giải quyết đúng vấn đề bình
đẳng chính trị và quyền tự quyết trong các quốc gia cụ thể, nhất là các quốc
gia đa dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với GCVS và những người


25

mácxít chân chính trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Để thực

hiện bình đẳng về chính trị, những người mácxít phải đấu tranh không
khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc dưới mọi mầu sắc. Lê-nin chỉ rõ:
"Chủ nghĩa Mác không thể điều hòa được với chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ
nghĩa dân tộc "công bằng", "thuần khiết", tinh vi và văn minh đến đâu đi
nữa [60, tr. 167].
Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa - xã hội có tầm quan trọng đặc
biệt và liên quan đến nhiều yếu tố dân tộc. Cương lĩnh về vấn đề dân tộc do
Lê-nin soạn thảo đã vạch trần mưu đồ chính trị của những kẻ cơ hội khi
nêu khẩu hiệu "tự trị dân tộc về văn hóa". Lê-nin chỉ rõ rằng: đòi "tự trị dân
tộc về văn hóa" chính là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tinh vi nhất, độc
hại nhất - thứ chủ nghĩa này là hệ tư tưởng của GCTS, hoàn toàn thù địch
với chủ nghĩa Mác. Lê-nin khẳng định:
Đối với những người mácxít, vấn đề khẩu hiệu "văn hóa
dân tộc" có một ý nghĩa to lớn, chẳng những vì nó xác định nội
dung tư tưởng của toàn bộ công tác tuyên truyền và cổ động của
chúng ta về vấn đề dân tộc, là công tác khác với công tác tuyên
truyền tư sản, mà còn vì toàn bộ cái cương lĩnh về tự trị dân tộc
về văn hóa trứ danh đều dựa trên khẩu hiệu đó [60, tr. 166].
Vấn đề bình đẳng trong văn hóa xã hội phải luôn luôn gắn liền với
bình đẳng về kinh tế, chính trị. Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và các
hình thức tinh vi xảo quyệt của chủ nghĩa dân tộc núp dưới chiêu bài "tự trị
dân tộc về văn hóa" hoặc đấu tranh cho mọi sự phát triển dân tộc cho "nền
văn hóa dân tộc" là xác định đúng quan hệ giữa kinh tế, chính trị và văn
hóa trong xã hội tư bản chống các chiêu bài mị dân thông qua khẩu hiệu đòi
"tự trị dân tộc về văn hóa". Lê-nin viết: "Tách lĩnh vực trường học riêng ra, trước hết đó là một điều không tưởng phi lý, vì không thể nào tách trường


26

học (cũng như "văn hóa dân tộc" nói chung) ra khỏi kinh tế và chính trị

được".
- Các dân tộc đều có quyền tự quyết
Mỗi một dân tộc đều có quyền tự quyết định, quyền tự chủ đối với
vận mệnh của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm: Tự quyết định về
chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết
cũng được thể hiện ở quyền tự do phân lập thành quốc gia độc lập hay
quyền tự nguyện liên hiệp lại của các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc vì mục tiêu
phát triển hòa bình, phồn vinh và hữu nghị.


27

Khẳng định lập trường của mình về vấn đề quyền dân tộc tự quyết,
Lê-nin nhấn mạnh, các đảng XHCN chân chính không được làm đồi bại ý
thức của GCVS, không được làm lu mờ đấu tranh giai cấp, không được
dùng những lời nói dân chủ tư sản sáo rỗng để mê hoặc GCCN, không
được phá hoại sự thống nhất trong cuộc đấu tranh chính trị hiện nay của
GCVS. Chỉ với điều kiện ấy, chúng ta mới thừa nhận quyền dân tộc tự
quyết. Toàn bộ thực chất của vấn đề chính là ở trong điều kiện ấy.
Năm 1913, GCTS, các chính phủ tư sản ở châu Âu ráo riết chuẩn bị
lực lượng để phát động cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Thực chất
đây là cuộc chiến tranh giành giật thị trường và phân chia quyền lực giữa
các tập đoàn đế quốc phản động nhất thế giới lúc đó. Vấn đề dân tộc lại
được chúng triệt để lợi dụng nhằm kích động chia rẽ, gây mâu thuẫn, khoét
sâu sự thù hận giữa các dân tộc. Vấn đề dân tộc tự quyết bị xuyên tạc, bóp
méo. Các lãnh tụ nổi tiếng trong Quốc tế II đã sa vào lập trường "dân tộc
chủ nghĩa" và tuyên truyền cho khẩu hiệu "bảo vệ tổ quốc" của các Nhà
nước tư sản. Đúng như Lê-nin nhận định: Sự hoành hành của chủ nghĩa dân
tộc Trăm đen, sự phát triển của những xu hướng dân tộc chủ nghĩa trong

GCTS tự do chủ nghĩa, sự lớn mạnh lên của những xu hướng dân tộc chủ
nghĩa trong những tầng lớp trên của các dân tộc bị áp bức, tất cả những
điều kiện ấy đang làm cho vấn đề dân tộc trở thành một vấn đề nổi bật.


28

Trong bối cảnh đó, V.I. Lê-nin triệu tập Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Công nhân - dân chủ - xã hội Nga vào mùa hè năm 1913.
Tại Hội nghị, vấn đề dân tộc được coi là một trong những vấn đề chính trị
nổi bật trong sinh hoạt xã hội của Nước Nga, và là chủ đề có tính trọng tâm
của chương trình nghị sự. Lê-nin trình bày bản báo cáo quan trọng về vấn
đề dân tộc và được Hội nghị tán thành thông qua, trở thành Nghị quyết về
vấn đề dân tộc. Người khẳng định rằng: "Không thể giải thích cái điều khoản
trong cương lĩnh của chúng ta (về quyền dân tộc tự quyết) một cách nào khác
hơn là quyền tự quyết về chính trị, nghĩa là quyền tách ra và thành lập một
quốc gia độc lập" [59, tr. 395]. Lê-nin nhấn mạnh cương lĩnh dân tộc của phái
dân chủ công nhân là: hoàn toàn xóa bỏ mọi đặc quyền của bất cứ dân tộc
nào, dùng biện pháp hoàn toàn tự do, dân chủ để giải quyết vấn đề tự quyết
về chính trị của các dân tộc. Đó là quyền lập quốc gia, ban bố đạo luật của
nhà nước, trong đó cấm trao bất cứ đặc quyền gì cho một dân tộc, mà vi phạm
quyền bình đẳng giữa các dân tộc hay vi phạm quyền của các dân tộc thiểu số.
Nhiệm vụ tuyệt đối của những người mácxít là bảo vệ chủ nghĩa
dân chủ kiên quyết nhất và triệt để nhất trong mọi mặt của vấn đề dân tộc.
Lật đổ mọi ách áp bức phong kiến, mọi ách áp bức dân tộc, mọi đặc quyền
cho một dân tộc nào đó hoặc cho một ngôn ngữ nào đó, là nhiệm vụ tuyệt
đối của GCVS, với tư cách là một lực lượng dân chủ; đó là lợi ích tuyệt đối
của cuộc đấu tranh giai cấp của GCVS chống lại GCTS. Song cuộc đấu
tranh này đang bị sự phân tranh dân tộc làm lu mờ và trì hoãn. GCVS
không thể tán thành bất cứ một sự thừa nhận nào đối với chủ nghĩa dân tộc;

trái lại GCVS tán thành bất cứ cái gì giúp vào việc xóa bỏ sự phân biệt dân
tộc, vào việc phá hủy những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc; tán thành
bất cứ cái gì làm cho mối liên hệ giữa các dân tộc ngày càng mật thiết, bất
cứ cái gì dẫn đến sự hợp nhất giữa các dân tộc. V.I. Lê-nin đã phân tích và
kết luận:


29

Nguyên tắc của chủ nghĩa dân tộc tư sản là sự phát triển
dân tộc nói chung, do đó mà sinh ra tính đặc biệt của chủ nghĩa
dân tộc tư sản, những cuộc xung đột dân tộc không có lối thoát.
Còn cộng sản chủ nghĩa thì không những không bảo vệ sự phát
triển dân tộc của mọi dân tộc, mà trái lại nó đề phòng cho quần
chúng khỏi mắc những ảo tưởng như thế, nó chủ trương để cho
lưu thông tư bản chủ nghĩa được tự do đầy đủ nhất, và hoan nghênh
mọi sự đồng hóa dân tộc, trừ sự đồng hóa bằng bạo lực hoặc dựa
trên những đặc quyền [60, tr. 169].
Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các tập đoàn đế quốc đã thực
hiện cuộc đấu tranh giành quyền lợi. Một mặt, bản chất phản động hiếu
chiến của các chính phủ tư sản được bộc lộ; mặt khác, bản chất ích kỷ giả
nhân giả nghĩa của GCTS cũng được phơi bày. Để đạt được mục đích giành
giật thị trường, giành quyền chi phối các lợi ích quốc tế, các tập đoàn
TBCN đã không từ một thủ đoạn bỉ ổi nào lừa bịp, lôi kéo quần chúng vào
vòng xoáy lốc chiến tranh phi nghĩa. Tránh cho GCCN không bị mắc lừa
GCTS và bọn cơ hội chủ nghĩa, năm 1915, khi viết tác phẩm "Giai cấp vô
sản cách mạng và quyền dân tộc tự quyết" Lê-nin đã chỉ rõ:
Chủ nghĩa đế quốc là sự áp bức ngày càng tăng của một dúm
cường quốc lớn đối với các dân tộc trên thế giới, là thời đại
những cuộc chiến tranh giữa các cường quốc lớn ấy để mở rộng và

củng cố ách áp bức đó đối với các dân tộc, là thời đại mà quần
chúng nhân dân bị lừa phỉnh bởi bọn xã hội - ái quốc giả nhân giả
nghĩa, tức là những kẻ vin vào "quyền tự do dân tộc", vào "quyền
dân tộc tự quyết" và vào chủ trương "bảo vệ tổ quốc" để biện hộ và
bênh vực cho việc những cường quốc lớn đi nô dịch đa số các dân
tộc trên thế giới.


×