Tải bản đầy đủ (.doc) (185 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ vận DỤNG tư TƯỞNG và PHƯƠNG PHÁP dân CHỦ của hồ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.82 KB, 185 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta khẳng định cùng với chủ nghĩa MácLênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của toàn Đảng, toàn dân và
được triển khai nghiên cứu sâu rộng từ năm 1991 đến nay. Là hệ thống lý luận, tư
tưởng Hồ Chí Minh đề cập nhiều lĩnh vực trong đó có vấn đề dân chủ và xây dựng
nền dân chủ mới ở Việt Nam. Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo học thuyết
dân chủ mácxít vào Việt Nam và đã trở thành một trong những nhà dân chủ vô sản
lớn ở thế kỷ XX. Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà những yếu
tố dân chủ truyền thống của dân tộc Việt Nam với tinh hoa dân chủ của nhân loại
trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh là người sáng lập nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đồng thời
Hồ Chí Minh cũng là người kiên trì nêu gương về phương pháp và phong cách dân
chủ cho toàn Đảng, toàn dân ta. Suốt một phần tư thế kỷ đứng đầu nhà nước dân
chủ mới, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá về thực
hành dân chủ mà cuộc sống đang đòi hỏi có sự tổng kết nghiêm túc.
Công cuộc đổi mới ở nước ta có một trong những nội dung cốt lõi là dân chủ
hoá. Dân chủ hoá là hiện thực hoá quyền làm chủ của dân về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội trong đời sống xã hội. Xét từ góc độ dân chủ, đổi mới theo hướng xã
hội chủ nghĩa thực chất là quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tìm hiểu, tổng kết nội dung dân chủ hoá trong công cuộc đổi
mới định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết.
Hiện nay, tình trạng vi phạm dân chủ đã làm xuất hiện nhiều “điểm nóng” về
chính trị, xã hội. Các “điểm nóng” có xu hướng lây lan và ngày càng phức tạp. Vi
phạm dân chủ thực chất là làm trái với tư tưởng Hồ Chí Minh,làm sai cương lĩnh
của Đảng. Vậy, cái gì dẫn đến những sai trái đó?
Trong những năm qua, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
chưa ngang tầm đòi hỏi của cuộc sống. Các công trình nghiên cứu chưa tập trung
làm sáng tỏ những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ và tìm cách vận dụng vào thực tiễn đổi mới ở nước ta.



Vì những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng
và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa cộng sản khoa học, mã số 50103.
Song, nghiên cứu sinh cho rằng: dân chủ, dân chủ hoá, thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là những vấn đề phức tạp và rộng, không chỉ trên phương diện lý luận mà cả trên
bình diện thực tiễn. Đặc biệt là thực tiễn của một nước thuộc địa nửa phong kiến
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên xã hội chủ nghĩa. Luận án tiến sỹ triết học,
dù là chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa học cũng không thể phản ánh và bao
quát hết những nội dung phức tạp và rộng lớn của quá trình dân chủ hoá xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam nên chỉ giới hạn hẹp trong mục đích và các nhiệm vụ đặt ra ở
mục 3 phần Mở đầu.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Trước khi triển khai Chương trình khoa học- công nghệ cấp Nhà nước
(giai đoạn 1991-1995) nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có trên 300 công
trình của các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học ở trong và ngoài nước viết về Hồ Chí
Minh được công bố. Trong các công trình đó, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
đã bước đầu được đề cập dưới dạng này, dạng khác mà chưa được đề cập như một
phạm trù chính trị- xã hội cơ bản.
Trong Chương trình khoa học- công nghệ cấp Nhà nước nghiên cứu về Tư
tưởng Hồ Chí Minh (mã số KX02) cũng chỉ có một đề tài nhánh nghiên cứu về tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, nhưng chưa được xã hội hoá.
2.2. Những năm gần đây, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh cũng chưa
được tập trung nghiên cứu một cách tương xứng, chưa có công trình nào xác lập,
làm sáng tỏ hệ thống tư tưởng dân chủ của Người và tìm cách vận dụng vào thực
tiễn đổi mới ở nước ta.
Từ năm 1986, bước vào công cuộc đổi mới, các nhà khoa học Việt Nam đã
có nhiều công trình nghiên cứu lý luận chung về dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bản chất và cơ chế thực hiện dân chủ, v.v. Đã có những cuộc hội thảo khoa

học lớn về dân chủ, nhiều bài viết về dân chủ rất công phu, khoa học được công bố


trên các tạp chí và đã có những công trình in thành sách. Nhưng nghiên cứu lý luận
dân chủ của Hồ Chí Minh chưa có thành tựu đáng kể. Thống kê sơ bộ trên mấy tạp
chí (Tạp chí Triết học, Tạp chí Thông tin lý luận, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Tạp
chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Công tác tư tưởng văn hoá, Tạp chí Cộng sản) chúng tôi
thấy, trong số trên 50 công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa
thì số công trình trực tiếp đề cập đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là rất ít.
Chỉ có : “Quán triệt tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc
đổi mới” của Nguyễn Văn Nam, Tạp chí Công tác tư tưởng và văn hoá, 6-1992.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ” của Lê Văn Tuấn, Tạp chí Thông
tin lý luận, 9-1992, “Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh với tư cách là giải pháp
chống quan liêu” của Ngô Hữu Thảo, Tạp chí Thông tin lý luận, 6-1993. “Về dân
chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Hoàng Trang, Tạp chí Lịch sử Đảng, 61998.
Các bài viết về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh nêu trên có tính chất đặt vấn
đề và gợi ý nghiên cứu nhiều hơn là xác định và hệ thống những luận điểm dân chủ
của Hồ Chí Minh thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, thậm chí chưa có quan
niệm rõ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Ví như Hoàng Trang cho rằng ; dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm những nội dung cơ bản:
1. Đó là một chế độ chính trị do dân làm chủ.
2. Đảng lãnh đạo thực hiện một chế độ dân chủ là tất yếu.
3. Trong thực thi dân chủ phải có vai trò tổ chức quản lý của nhà nước.
4. Nhân dân là hạt nhân của dân chủ, nhân dân có quyền làm chủ thì phải có
nghĩa vụ hoàn thành bổn phận của người làm chủ (124, tr,14).
Ở đây, Hoàng Trang chưa phân định rõ giữa cơ chế thực hhiện dân chủ với
nội dung cơ bản trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Có một số cuốn sách đề cập đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh như;
Đạo đức Hồ Chí Minh- tư tưởng nhân đạo, dân chủ của Phạm Ngọc Uyển, Nxb Đà
Nẵng, 1990, 78 trang. Trong các công trình này, dân chủ Hồ Chí Minh được khảo

sát ở bình diện giá trị văn hoá và giá trị đạo đức là chủ yếu.
2.3.Chưa có công trình nào nghiên cứu về phương pháp dân chủ của Hồ Chí
Minh, nhất là nghiên cứu vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí
Minh như thế nào trong đời sống xã hội sôi động hiện nay. Duy nhất có luận văn


thạc sĩ của Tô Tuyên, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học có đề cập đến
việc vận dụng tư tưởng dân chủ Hồ chí Minh với đề tài : “Vận dụng một số nội
dung cơ bản của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở ở Hà Giang”.
Những kết quả nghiên cứu kể trên về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, dù là
bước đầu, nhưng vẫn là cơ sở cho chúng tôi tham khảo và kế thừa có chọn lọc
trong thực hiện luận án của mình. Song, đề tài luận án này không trùng lặp với các
công trình khoa học hoặc luận văn, luận án đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1.Mục đích của luận án là nghiên cứu làm sáng tỏ hệ thống tư tưởng và
phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng vào thực tiễn để xây
dựng, hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất
phương hướng tiếp tục vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí
Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
3.2. Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ :
- Làm rõ về mặt lý luận; khái niệm, nguồn gốc, nội dung chủ yếu trong tư
tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh.
- Phân tích quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh mà trọng tâm là thời kỳ đổi mới và đánh giá thực trạng dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở ta hiện nay.
- Kiến nghị về phương hướng tiếp tục vận dụng tư tưởng và phương pháp
dân chủ của Hồ Chí Minh để xây dựng và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp của luận án

- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ, đồng thời có tham
khảo, sử dụng thành tựu nghiên cứu khoa học hiện đại về dân chủ.
- Luận án vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin; các phương pháp lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp và một số phương pháp
cụ thể khác.
1. Đóng góp mới của luận án
- Trình bày một cách có hệ thống cơ sở hình thành tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh


- Phân tích, xác định rõ hệ thống nội dung cơ bản trong tư tưởng và phương
pháp dân chủ của Hồ Chí Minh một cách có căn cứ khoa học.
- Phân tích rõ sự vận động của tư tưởng và phương pháp dân chủ Hồ chí
Minh trong thực tiễn và khái quát thành các nguyên tắc có tính phương pháp luận
trong đánh giá thực trạng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Đề xuất một số phương hướng cơ bản, có tính hiện thực nhằm tiếp tục vận
dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong những năm tới ở
nước ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Phân tích, làm rõ hệ thống các quan điểm về dân chủ và phương pháp dân
chủ của Hồ Chí Minh là một đóng góp nhỏ vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
- một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của toàn
Đảng, toàn dân ta. Đây cũng là một đóng góp vào tìm tòi cơ sở lý luận và phương
pháp luận cho việc hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Kết quả đạt được của luận án sẽ góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng
dân chủ của Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, góp phần củng cố niềm
tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước
ta theo hướng xã hội chủ nghĩa.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về tư
tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hộ khoa học trong các trường đào tạo cán bộ

Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm; mở đầu, 3 chương với 7 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo.
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Nhận thức chung về khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại, từ thời
Hy - Lạp cổ đại. Dân chủ là một thuật ngữ chính trị- xã hội mang tính nhiều nghĩa,
nhiều tầng bậc. Khi đi vào thực tế, dân chủ biểu hiện ra ở tính đa dạng của các hình


thái lịch sử, với sự phong phú của nội dung, bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động
của đời sống con người. Tuỳ theo hướng tiếp cận và nguyên tắc tiếp cận về dân
chủ, nhất là tiếp cận dân chủ theo các lập trường giai cấp khác nhau mà có kết quả
khác nhau, đáp ứng những yêucầu khác nhau do thực tiễn xã hội đặt ra.
Đối với xã hội Việt Nam, từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến đi lên xây dựng
và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã tiếp cận dân chủ từ hai
nguyên tắc cốt yếu là ; dân chủ gắn với phát triển và quan hệ giữa dân chủ với chủ
nghĩa xã hội. Đây cũng là hai nguyên tắc đã và đang chi phối toàn bộ những lý giải
khoa học về dân chủ hiện nay ở nước ta.
Dù có tiếp cận dân chủ theo hướng nào thì cũng không thể xa rời ý nghĩa cơ
bản đã có trong lịch sử nhân loại cách đây hàng nghìn năm; dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân. Hàm nghĩa của dân chủ càng đầy đủ, phong phú khi chúng ta lý
giải thấu đáo nhân dân là ai và quyền lực là gì, cũng như cơ chế kết hợp nhân dân
với quyền lực là như thế nào.
Lịch sử phát triển dân chủ gắn với lịch sử xuất hiện xã hội loài người. Dân
chủ đã có mặt trong suốt tiến trình phát triển của văn hoá, văn minh nhân loại, khi
đó dân chủ được hiểu với nghĩa là những giá trị của văn hoá, văn minh tiến bộ của

nhân loại, dân chủ là một nhu cầu tất yếu của con người và loài người. Đương
nhiên, tiếp cận theo hướng nhu cầu của con người, dân chủ mang tính nhân loại.
Dân chủ sơ khai và việc thực thi nó đã có trước so với lịch sử hình thành giai cấp
và đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Cho dù xã hội loài người phát triển đến trình độ
con người trở thành tự do hoàn toàn, trình độ tự quản xã hội đạt đến độ hoàn thiện,
nhà nước và các thiết chế quyền lực chính trị tự tiêu vong, thì dân chủ cùng với
toàn bộ nội dung nó biểu đạt vẫn tồn tại. Đó chính là ý thức về giá trị làm chủ, tự


chủ, tự do của con người với khả năng phát triển tối đa các năng lực sáng tạo của
họ.
Dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội, một trình độ phát triển của văn
hoá, văn minh, một thuộc tính bản chất của con người thẩm thấu qua nhu cầu lối
sống, đạo đức, thẩm mỹ, thì dân chủ được xác địnhlà một lý tưởng nhân đạo, một
giá trị nhân văn, một mục tiêu và động lực của giải phóng cá nhân, phát triển xã
hội. Dân chủ vừa dựa trên tiền đề của tự do vừa thúc đẩy sự phát triển tự do.
Quyền dân chủ, quyền công dân, quyền con người đạt được qua đấu tranh giành
dân chủ, vì dân chủ là sự phát triển của con người và loài người vươn tới tự do.
Còn dân chủ với nghĩa là chế độ xã hội, là tổ chức nhà nước thì dân chủ là
một phạm trù lịch sử, là quyền lực chính trị, là chế độ chính trị. Do đó, chế độ dân
chủ nào cũng có tính giai cấp sâu sắc. Giai cấp là tiêu chí bản chất để xem xét,
đánh giá chế độ dân chủ, thành tựu dân chủ, cũng như xác định chỗ đứng để giải
quyết vấn đề dân chủ đặt ra trong quá trình dân chủ hoá, biểu hiện ở chỗ; dân chủ
với ai, cho ai, quyền lợi, quyền lực thực sự của ai, chuyên chính với đối tượng nào.
Nội dung, hình thức và tính chất của dân chủ luôn thay đổi cùng với sự vận
động của lịch sử. Trong lịch sử các xã hội có giai cấp, dân chủ chủ nô, dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa là các chế độ dân chủ điển hình, với những trình
độ phát triển điển hình của dân chủ chính trị, quyền lực chính trị nhà nước.
Lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của chúng ta là xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, hình thức cao nhất của dân chủ đương đại. Nó sẽ phát huy triệt để

những ưu điểm, tích cực và khắc phục, loại bỏ tiêu cực, khiếm khuyết của các chế
độ dân chủ trước nó, nhất là dân chủ tư sản. Giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa tuy khác nhau về bản chất giai cấp nhưng không khác xa nhiều về những


quyền tự do, dân chủ cơ bản của con người, mà như Hồ Chí Minh khẳng định đó
là: “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và con người
“phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”(74, tr, 11). Chỗ đối lập căn bản là chế độ dân chủ tư sản
xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trên
quyền tự do khế ước và sự phân quyền để chống độc quyền. Chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa sẽ xây dựng trên nguyên tắc; “mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”, trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu cá nhân tồn tại bên
cạnh và bên trong sở hữu xã hội. Cộng đồng xã hội bằng hành động tập thể và
bằng nhà nước tập quyền hoạt động theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng
có sự phân công, phối hợp thực thi quyền lực để thực hiện lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, đem lại tự do bình đẳng, hạnh phúc cho mọi người.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa mang trong bản thân nó bản chất tốt đẹp, nó tạo
những điều kiện tốt cho con người có tự do, bình đẳng, có nhân cách độc lập. Tuy
nhiên, đôi khi người ta đã nhân danh chủ nghĩa tập thể, nhân danh cộng đồng, đại
diện quyền lợi chung để lạm quyền, chuyên quyền, đè bẹp tự do cá nhân. Đây là
mặt rất cần chú ý. Nếu chúng ta không phòng ngừa chu đáo, thì sẽ dẫn đến nguy cơ
mất dân chủ, vi phạm quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân dân, cuối cùng đi đến
kết cục sụp đổ như Đông Âu xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực, tuy hiện đang gặp khó khăn trên con đường phát
triển, nhưng nó vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với con người. Vì nó thể hiện một xu
hướng phát triển khách quan, phản ánh ước mơ của con người là vươn đến tự do, là
sự khẳng định và xâydựng vị thế làm chủ của con người đối với thế giới (tự nhiên,
xã hội). Và cũng là vì chủ nghĩa xã hội không giải phóng loài người nói chung khỏi



chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, mà còn đem lại cho từng cá nhân sự tự do, bình
đẳng và bảo đảm cho mọi thành viên xã hội điều kiện tự hoàn thiện, nâng mình lên
trình độ làm chủ cao . Chính vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục đích, đồng
thời là điều kiện để con người chiếm lĩnh cái tất yếu, sáng tạo và cải tạo xã hội để
đi tới tự do.
1.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
Tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, cơ sở hình thành tư tưởng và phương pháp
dân chủ Hồ Chí Minh không nằm ngoài các yếu tố đã hình thành nên hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại (cả chủ nghĩa
Mác-Lênin) là một quá trình, vừa tiếp thu vừa vận dụng và phát triển. Quá trình đó
diễn ra liên tục từ khi Người còn là một thanh niên cho tới khi đã là người đứng
đầu Đảng, Nhà nước cách mạng của nhân dân ta, nghĩa là diễn ra trong suốt cuộc
đời của Người.
1.1.2.1. Hồ Chí Minh sớm tiếp thu những yếu tố dân chủ trong văn hoá
truyền thống Việt Nam
Yếu tố dân chủ trong văn hoá truyền thống Việt Nam, thực chất và chủ yếu
là dân chủ nông dân. Đồng thời, ở Việt Nam tồn tại khá sớm hình thức dân chủ
công xã dựa trên sự bảo tồn quan hệ công xã nông thôn, lấy quan hệ láng giềng
làm sợi dây ràng buộc tập thể, chỗ dựa tinh thần là bầu không khí hoà đồng, bệ đỡ
kinh tế là chế độ công điền, công thổ của làng xã.
Bên cạnh tư tưởng dân chủ của nông dân, ở Việt Nam cũng tồn tại một số
biện pháp và hình thức thân dân của các vương triều tiến bộ trong điều kiện phân
hoá giai cấp chưa gay gắt, nhất là trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ giữ nước.


Nhà Lý, nhà Trần được xây dựng trên một thiết chế tập quyền thân dân, “lấy dân
làm gốc”, lo giữ lòng dân bằng nhiều hình thức dân chủ. Nhà Lý cho đặt chuông

kêu oan, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng bô lão cả nước bàn kế đánh
giặc. Trần Quốc Tuấn chủ trương “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”,
sau này Nguyễn Trãi ước mong “nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận,
sâu thẳm”. Đó là những yếu tố thân dân, trọng dân gắn liền với sự nghiệp bảo vệ
độc lập dân tộc. Thực tế lịch sử đã minh chứng một phong trào dân tộc rộng lớn
bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố dân chủ nhất định.
Rõ ràng các yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam còn thấp và yếu so
với trình độ dân chủ của thời đại. Song, cũng chứng minh được, ở người Việt Nam
đã từng có tập quán dân chủ. Người Việt Nam không xa lạ với ý tưởng về một xã
hội công bằng, bác ái, tự do nhưng họ lại rất ngỡ ngàng với những phương thức
bảo đảm quyền dân chủ. Hồ Chí Minh đã hiểu được bản chất của dân chủ truyền
thống Việt Nam, để phát huy tập quán dân chủ và dân chủ truyền thống như một
động lực, đồng thời, đã biết khắc phục những yếu kém, khiếm khuyết trong dân
chủ truyền thống bằng sự kế thừa có chọn lọc, kết hợp với tiếp thu những tinh hoa
của thời đại trong quá trình dân chủ hoá đất nước.
Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta những dân trí, dân khí, dân sinh, dân
quyền, dân chủ, những vấn đề liên quan đến người “dân” được nhắc đi nhắc lại
nhiều như đầu thế kỷ XX. Nhưng dân là ai? Dân được hình dung trong tập hợp như
thế nào? Dưới con mắt của các nhà nho, dù là duy tân, thì dân thường vẫn là “dân
đen”, vẫn là “dân ngu”, cần được giáo hoá. Điều khác trước là các nhà nho duy tân
nhấn mạnh dân quyền cũng tức là dân chủ. Tư tưởng dân chủ của các nhà Nho duy
tân đầu thế kỷ XX đã làm men say, kích thích phong trào quần chúng yêu nước,


duy tân rộng rãi từ Bắc chí Nam trong đó có gia đình Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn
Tất Thành- Hồ Chí Minh.
Thực ra, Nguyễn Tất Thành đã có quan hệ với cả hai lãnh tụ của phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX được mọi người Việt Nam tôn sùng, kính nể, đó là Phan
Bội Châu và Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành cũng đã phát hiện ra cái bất hợp
lý trong quan điểm cứu nước của hai cụ. Yêu nước, thương dân, cả cuộc đời lăn

lộn đấu tranh vì nước, vì dân, nhưng hai cụ Phan không thấy rõ giải phóng dân tộc,
giải phóng nhân dân là sự nghiệp của toàn dân và phải do chính dân làm. Dù sao
hai cụ vẫn là hình ảnh sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân trong tâm khâm Hồ
Chí Minh. Những tư tưởng tiến bộ của các cụ là những gợi ý cho việc xây dựng
nền dân chủ cộng hoà ở Việt Nam sau này của Hồ Chí Minh.
1.1.2.2. Ảnh hưởng của văn hoá phương Đông đến tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh
Sự hấp thụ văn hoá phương Đông mà đại diện là Nho học và Phật học đã
được bản địa hoá ở Việt Nam và có sự giao thoa với nhau, sớm hình thành ở Hồ
Chí Minh một nhân cách văn hoá, một tư duy của nhà dân chủ Đông phương thiết
tha với độc lập tự do của dân tộc và cuộc sống yên bình của nhân dân. Hồ Chí
Minh còn tiếp tục củng cố và phát triển kiến thức văn hoá Đông phương của mình
ngày ở chính trung tâm, nơi khởi nguồn của Nho giáo, đó là Trung Quốc. Đặc biệt
Người đã chứng kiến việc Khổng giáo và Khổng Tử bị phê phán gay gắt ở Trung
Quốc. Trong bầu không khí đó, Hồ Chí Minh có nhận xét riêng của mình. Người
viết : “Khổng Tử vĩ đại, khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về
tài sản” (71, tr,35).


Nếu không am hiểu học thuyết Khổng- Mạnh, Hồ Chí Minh không thể tìm
thấy sự tiến bộ, tinh tuý của học thuyết đang bị phê phán, để khẳng định một vấn
đề lớn hơn, đó là: “lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng
vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”[71, tr, 35]. Hồ Chí Minh đánh giá “Khổng
giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khao học về kinh nghiệm đạo đức và
phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về thế giới đại đồng” [71,
tr, 477]. Song, Người cũng chỉ ra tính không tương hợp của học thuyết KhổngMạnh không tương hợp ở những chỗ:
1. Biết trọng ý dân nhưng không biết làm thế nào để thực hiện được ý dân.
Hiểu được ý dân, thậm chí đề cao “ý dân là ý trời”, nhưng không có cơ chế hay có
một chế độ nào để thực hiện ý dân. Vì vậy, kẻ nắm chính quyền thường làm trái ý
dân, gây sự phẫn nộ trong dân chúng và họ nổi dậy chống lại.

2. Coi dân là gốc (dân vi bản) nhưng không phải là dân chủ. Dân là gốc
nhưng vua là chủ chứ không phải dân là chủ. Đặc điểm của chế độ dân vi bản là
quyền lực ở nơi vua. Đặc điểm quan trọng của chế độ dân chủ là những người
đứng đầu chính quyền do dân bầu ra và những người đó buộc phải chịu trách
nhiệm trước dân, nghĩa là quyền lực ở nơi dân. Trong chế độ dân bản thì dân ở vị
trí bị động, luôn nhờ vào sự ban ơn của vua quan. Còn trong chế độ dân chủ, dân
tự đứng lên quyết định vận mệnh của mình. Điều này không hề có trong tư tưởng
của Nho gia, thậm chí dân là gốc cũng chỉ có trong ý thức của họ, còn trong thực tế
dân có được là gốc hay không còn tuỳ thuộc vào đạo đức của người cầm quyền.
3. Hiểu không đầy đủ về tự do. Nho giáo lấy đạo đức làm gốc, cho nên các
Nho gia hiểu tự do chủ yếu là ý chí tự do trong lĩnh vực đạo đức. Nghĩa là không ai
ngăn cản việc rèn luyện đạo đức của người khác và ai cũng có thể trở thành “thánh


nhân” được (không kể sang hèn, quý tiện) nếu quyết tâm rèn luyện, giữ gìn đạo
đức cá nhân thật tốt theo thuyết đạo đức của các “thánh hiền”. Còn tự do dân chủ,
chủ yếu là tự do dân chủ chính trị và tự do dân chủ kinh tế thì trong tư tưởng của
các Nho gia không có. Chỉ Nho giáo theo tông pháp, cha truyền con nối, lấy đức trị
nước; kinh tế thì theo chế độ tỉnh điền, phát canh thu tô, người dân không có quyền
sở hữu tư liệu sản xuất, nhất là ruộng đất. Tự do dân chủ đỏi hỏi được bảo vệ bằng
pháp luật. Còn tự do trong lĩnh vực đạo đức theo các Nho gia thì pháp luật không
thể khống chế mà cũng không thể bảo vệ. Có ý chí tự do trong lĩnh vực đạo đức,
không có nghĩa là con người được hưởng mọi quyền lợi về chính trị. Vì vậy, tự do
trong lĩnh vực đạo đức không thể làm cơ sở cho chế độ dân chủ, nhưng trong một
chế độ dân chủ phải có ý chí tự do về đạo đức, tự do tư tưởng .
4. Có tư tưởng bình quân nhưng chưa phải là bình đẳng. Trong tư tưởng của
các Nho gia đã tồn tại một quan điểm phân phối quân bình rất nổi tiếng của Khổng
Tử: “bất hoạn quá nhi hoạn bất quân, bất hoạn ban nhi hoạn bất ân”, nghĩa là
không sợ ít chỉ sợ không đều, không sợ nghèo chỉ sợ không yên. Thậm chí, Khổng
Tử còn đề cao vai trò quân bình trong phân phối đến mức; “Cái quân vô bản, hoà

vô quả, an vô khuynh” nghĩa là bình quân thì không nghèo, hoà thì không thiếu,
yên thì không nghiêng đổ. Tư tưởng quân bình của Khổng Tử dựa trên cơ sở chủ
nghĩa đạo đức, chia đều miếng cơm, có cơm cùng ăn chứ không hiểu cơm ở đâu
mà có. Vì lẽ Khổng, Mạnh đều coi thường lao động chân tay, chủ trương “cần đạo
hơn cần ăn”. Tuy vậy, các ông cũng thấy được mầm mống của loạn lạc là không có
tài sản, “người không có tài sản thì không yên tâm, nếu không yên tâm thì sẽ làm
điều xằng bậy, không trừ một điều gì” (Mạnh Tử). Như vậy, tư tưởng quân bình


của Nho giáo trong phân phối là hiện tượng bao cấp, nhằm bảo đảm ổn định xã hội
chứ không phải là bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, về chính trị và kinh tế, về
chính sách và công bằng xã hội.
Bằng một thái độ nghiêm túc và cách mạng, Hồ Chí Minh viết : “Những
người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc
các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của
Lênin”[72, tr, 454].
Đi sâu tìm hiểu thực chất các học thuyết và chắt lọc cái tinh tuý nhất để phục
vụ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp và con người, Hồ Chí Minh
so sánh Nho giáo, Phật giáo và Ki Tô giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin, so sánh các
nhà sáng lập ra các học thuyết đó. Người thấy cái cần phải học ở học, cần phải đề
cao hơn tình yêu thương con người, tư tưởng vị tha, cứu khổ, mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội của Khổng Tử, Giê su, Thích Ca và
của Các Mác, Ăngghen, Lênin. Người tự cho mình là học trò nhỏ của các vị đó. Do
vậy, giai cấp công nhân Việt Nam, trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh,
chúng ta bắt gặp những câu chữ, mệnh đề Nho giáo, Phật giáo, những lời răn của
Chúa, được Người giải thích hoặc đưa những nội dung mới làm cao đẹp hơn, nhằm
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
1.1.2.3. Sự tiếp nhận giá trị tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây của Hồ
Chí Minh
Nói đến tư tưởng dân chủ tư sản, người ta nghĩ ngay đến tư tưởng dân chủ

của các nhà văn hoá phục hưng, các nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII (thế kỷ Ánh
sáng), cùng với nó là Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Dù rằng đã có các
cuộc cách mạng tư sản nổ ra sớm hơn như ở Hà Lan, ở Anh, ở Mỹ, nhưng đạt tới


đỉnh cao của thắng lợi thì phải kể đến Đại cách mạng Pháp 1789-1799. Đó là một
cuộc cách mạng tư sản triệt để, có ảnh hưởng to lớn và lâu dài trong lịch sử nhân
loại. Những kinh nghiệm, bài học lịch sử của Đại cách mạng Pháp không những bổ
ích cho các cuộc cách mạng tư sản dân chủ tiếp theo, mà còn vô cùng cần thiết cho
các cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở các nước thuộc địa, phong kiến, nửa phong
kiến nói chung, kể cả những cuộc cách mạng này do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Lênin nhận xét: “Cách mạng Pháp, tuy đã bị đè bẹp, nhưng vẫn thắng, vì nó đã xây
dựng cho toàn thế giới, những cơ sở của nền dân chủ tư sản, của nền tự do tư
sản”[51, tr, 441].
Cùng với các giá trị về tư tưởng văn hoá, văn minh và khoa học khác, tư
tưởng dân chủ là một thành tựu mới của thế kỷ Ánh sáng, gắn liền với tên tuổi
của Giăng

Mêliê(1644-1729),

của Saclơ

Lu-i

Môngtexkiơ (1689-1755),

của Vônte (tên thật là Phrăngxoa Mari Aruet (1694-1778), của Giăng Giắccơ
Rútxô (1712-1778), của Giăng Pôn Mara (1743-1793).
Sáclơ Lu-i Môngtexkiơ, một trong những ngôi sao sáng chói của nước Pháp
thế kỷ Ánh sáng với tác phẩm lớn nhất và nổi tiếng khắp thế giới là Tinh thần

pháp luật được công bố năm 1748, được tái bản tới 22 lần và dịch ra nhiều thứ
tiếng. Trong tác phẩm, ông viết rằng xã hội loài người phát triển có quy luật khách
quan, không phải tuỳ theo ý muốn của thượng đế. Tổ chức xã hội phụ thuộc vào
hình thức chính quyền nhà nước và có ba loại hình chính quyền nhà nước phổ biến;
chế độ chuyên chế, chế độ quân chủ lập hiến và chế độ cộng hoà. Ông đề ra việc
phân quyền và hạn chế quyền hành trong chính quyền nhà nước để bảo đảm cho
quyền tự do của con người. Ông khẳng định phải triệt để phân lập ba quyền ; lập
pháp, hành pháp, tư pháp và ba quyền này phải được độc lập với nhau. Dù có thừa


nhận sự cần thiết của một nền quân chủ tư sản, song, ông vẫn coi bình đẳng đúng
nghĩa của nó là bình đẳng trước pháp luật và lòng yêu nước đồng nghĩa với lòng
yêu sự bình đẳng.
Người tiến xa nhất về mặt tư tưởng dân chủ trong thế kỷ Ánh sáng và cùng
là nhà tư tưởng tiêu biểu nhất thời đại này là Giăng GiắccơRútxô. Toàn bộ các tác
phẩm của Rútxô dẫn mọi người đến một học thuyết cách mạng dân chủ tiên tiến
nhất đương thời. Trong số đó có cuốn Khế ước xã hội (1762) được nhắc tới nhiều
và phổ biến rộng rãi. Cuốn Khế ước xã hội đã trình bày chi tiết mô hình của một
chính quyền nhân dân. Nhân dân bao gồm hầu hết những người trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất của xã hội. Vì vậy, nên dân chủ theo tư tưởng của Rútxô còn
những điều chưa hoàn chỉnh, có thể ảo tưởng nữa (như việc ông coi các đại biểu
của nhân dân, thậm chí nhà nước lúc nào cũng trung thành với quyền lợi nhân
dân), nhưng ông là một nhà tư tưởng chủ đạo của phải Giacôbanh trong thời kỳ
Đại cách mạng Pháp 1789-1799.
Hồ Chí Minh từng nói “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi nghe được
ba chữ Pháp; tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với
nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”[71, tr,
477].
Qua câu trích trên chúng ta thấy khát vọng tìm hiểu nội dung của dân chủ tư
sản, của tự do, bình đẳng, bác ái đã có ở Hồ Chí Minh từ tuổi thiếu niên, tuổi học

trò. Dù Hồ Chí Minh có bỏ Nho học sang học trường Tây, tiếng Tây thì cũng chỉ
“nghe được” và biết được “người Pháp đã nói thế”, chứ chưa hiểu được nội dung
của nó là gì, những gì ẩn đằng sau những chữ ấy. Vì nội dung đó không được dạy
trong nhà trường. Chính nền giáo dục ngu dân và đụng độ của hai dòng văn hoá


Đông, Tây thông qua chế độ thuộc địa, đã kích thích bản tính ham hiểu biết,
phương pháp so sánh để hiểu đến tận cùng sự việc trong người thiếu niên Nguyễn
Tất Thành. Và đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy anh Ba sang Pháp năm 1911.
Chưa có tài liệu nào xác định Hồ Chí Minh đã đọc các nguyên tắc của
Môngtexkiơ hay của Rútxô trước năm 1911, nhưng cũng có thể Người đã tiếp xúc
với tư tưởng dân chủ tư sản bằng những con đường khác, như việc tiếp cận với
những thầy giáo người Pháp tiến bộ, qua phong trào Đông kinh nghĩa thục,qua các
sách Tân văn, Tân thư của Trung Quốc. Song, tất cả những tiếp cận ấy đã không
giải đáp một cách rõ ràng, cận kẽ tự do, bình đẳng, bác ái là gì? Tại sao nước Pháp
có những khẩu hiệu đẹp đẽ như thế lại đi áp bức, nô dịch người Việt Nam một cách
tàn nhẫn, vô nhân đạo, đặt ách nô lệ lên cổ một dân tộc vốn tự do, có nền văn hiến
lâu đời. Hồ Chí Minh quyết định tìm câu trả lời ngay trên đất Pháp.
Cuộc hành trình viễn dương gần như vòng quanh thế giới của Nguyễn Tất
Thành thật kỳ thú và bổ ích. Đây là một khảo nghiệm thực tiễn những giá trị của tự
do, bình đẳng, bác ái trên đấp Pháp, Anh, Mỹ, những nước tự coi là tự do, văn
minh, đã làm cách mạng dân chủ tư sản ở thế kỷ XVIII nay trở thành thực dân, đế
quốc đang thực hiện công cuộc “khai hoá” cho các dân tộc nhược tiểu. Nhờ cuộc
khảo nghiệm này mà Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ được tất cả mặt giá trị và mặt trái
của nền dân chủ tư sản phương Tây.
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc là người dân thuộc địa sớm nhận rõ những giá
trị cơ bản của cách mạng dân chủ tư sản đó là nhân quyền và dân quyền. Đây
không chỉ là giá trị riêng của cách mạng Mỹ 1776 hoặc của cách mạng Pháp 1789
mà là giá trị chung của nhân loại. Do vậy, trong lời mở đầu “Tuyên ngôn độc lập”
của Việt Nam 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của cách



mạng Mỹ 1776 và Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp
1789. Không phải ngẫu nhiên, khẩu hiệu của cách mạng dân chủ tư sản Pháp
chống chế độ quân chủ chuyên chế là Tự do, Bình đẳng, Bác ái, và khẩu hiệu của
Cách mạng Việt Nam chống đế quốc, phong kiến là Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Đó là việc Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc thành quả Đại cách mạng Pháp cho
Cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng dân chủ tư sản đối
với Hồ Chí Minh là quan trọng. Song, qua cuộc sống thực tế ở những trung tâm
văn hoá tư sản như Luân Đôn, Pari và trực tiếp hoạt động trong Hội dân quyền và
nhân quyền Pari và Đảng xã hội Pháp, đã giúp Người có điều kiện tìm hiểu về nền
dân chủ tư sản và các thiết chế dân chủ phương Tây. Tại Pa-ri, Nguyễn Ái Quốc đã
tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà khai sáng; Môngtexkiơ, Vôte,
Rútxô,... những lý luận gia của Đại cáh mạng Pháp 1789. Theo báo cáo của mật
thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc vào đầu tháng 3 năm 1920 thì “hiện thời
Quốc đang dịch một đoạn L’ Esprít des Lois (Tinh thần pháp luật) của
Môngtexkiơ sang quốc ngữ”[125, tr, 146].
Có thể thấy các ý tưởng dân chủ của các nhà khai sáng Pháp đã ảnh hưởng
trực tiếp tới tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
Nhưng có lẽ Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ được tư tưởng dân chủ và biến nó
thành phong cách sống của mình chủ yếu từ trong cuộc sống. Rõ ràng là ở nước
Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối
tự do, thuận lơn hơn ở trên đất nước Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của mình.
Người có thể tự do hội họp, tham gia đảng phải, lập hội, ra báo, phát biểu ý kiến,
trình bày quan điểm của mình trước dư luận Pháp. Người đã viết bài phê bình bọn


quan lại, vua chúa nước mình, phê phám cả thống sứ, toàn quyền ở thuộc địa, như
đã làm với A. Xaroo, Liôtây, Varen,... Điều này sẽ là “phạm thượng”, không thể

xảy ra ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc học và rèn luyện được tác phong dân chủ ngay trong cách
sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phô-bua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã
hội Pháp, tiêu biểu là không khí tranh luận ở Đại hội Tua (12-1920).
Nguyễn Ái Quốc còn vào Hội Du lịch để đi thăm nước Pháp và các nước lân
cận như Ý, Thuỵ Sĩ, Đức, Toà thánh Vaticăng, mục đích không phải chỉ để đi du
lịch mà “muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào”[122, tr, 40]. Tìm
hiểu những kinh nghiệm tổ chức và quản lý nhà nước của giai cấp tư sản, Hồ Chí
Minh thấy; các nhà nước tư sản tồn tại được trong bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản, trong sự bất công và bình đẳng xã hội là do nó đã tạo được sự ổn định
chính trị trên cơ sở một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một nền kinh tế phát triển,
một mức sống được bảo đảm, một trình độ dân trí cao và một bộ máy chuyên chính
mạnh. Đây chính là những điều Hồ Chí Minh sẽ gạn lọc, tham khảo trong quá trình
xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam sau này.
1.1.2.4. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết và trên hết là vì mục
tiêu giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự nô dịch, sau đó sẽ xây
dựng một xã hội như Mác – Ăngghen khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản:”Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”.
Tư tưởng cho rằng “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu
không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” [66, tr, 404], là tư tưởng cốt lõi trong
học thuyết Mác- Lênin về giải phóng xã hội, về giải phóng con người; là điểm xuất


phát cho cách đặt vấn đề xây dựng một chế độ xã hội mới, công bằng, không có áp
bức, bóc lột, mọi người đều bình đẳng, tự do (dân chủ xã hội chủ nghĩa).
Tiếp thu sâu sắc tư tưởng về giải phóng con người, về xây dựng xã hội tương
lai không có áp bức, bóc lột người trong học thuyết của C Mác, Hồ Chí Minh cho
rằng chủ nghĩa cộng sản phải trải qua một thời kỳ dài mới có thể thiết lập được ở

Việt Nam sau khi cách mạng thành công. Bởi vì, theo Mác – Ăngghen, việc giải
phóng con người một cách toàn diện và phát huy hết mọi tiềm năng của con người
chỉ có thể thực hiện được với tiền đề là “những lực lượng sản xuất hiện đại đã phát
triển”. Nhưng ở Việt Nam, vào thời điểm 1946, Hồ Chí Minh cho rằng “những
điều kiện ấy chưa có đủ” [74, tr, 272].
Hồ Chí Minh xác nhận: Người đến với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
và lựa chọn chế độ xã hội chủ nghĩa cho cách mạng Việt Nam, bắt nguồn trước hết,
từ đức tin vào Lênin, tin vào sự bênh vực và ủng hộ tích cực của Lênin đối với sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: Lênin đã “phát triển
và đã thực hiện chủ nghĩa Mác và Ăngghen” bằng Cách mạng tháng 10 Nga năm
1917 và mở đầu “thời đại mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã thành lý trí và lương tâm
của mọi người tiến bộ trên thế giới”. Nói đến Lênin là nói đến Cách mạng tháng 10
Nga, một cuộc cách mạng vô sản, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới.
Khảo sát Cách mạng tháng Mười và thực tế được sống trong không khí sôi
động của công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Nga, Hồ Chí Minh
nhận thức và tâm đắc với quan điểm của Lênin cho rằng: Không có chế độ dân chủ
thì không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội và giai cấp vô sản không thể hoàn
thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu không tiến hành cuộc đấu tranh cho


dân chủ, cũng như chủ nghĩa xã hội sẽ không duy trì được thắng lợi nếu không
thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ. Thể hiện quan điểm này, Lênin viết:
Cũng giống như không thể có chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực
hiện dân chủ hoàn toàn, giai cấp vô sản cũng không thẻ nào chuẩn bị để chiến
thắng giai cấp tư sản được nếu nó không tiến hành một cuộc đấu tranh toàn diện,
triệt để và cách mạng để giành dân chủ [46, tr, 324].
Rõ ràng trong tư tưởng của Lênin, đấu tranh cho dân chủ và đấu tranh cho
chủ nghĩa xã hội, không thể tách rời nhau.
Theo dõi quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Nga, Hồ Chí

Minh đã nhận thức được những đặc điểm của nó là :
1. Cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà trước hết là sở
hữu Nhà nước.
2. Toàn thể nhân dân lao động là chủ thể của nền dân chủ, “sự thức tỉnh và
sự tham gia tích cực của họ vào công việc của Nhà nước thay cho các quan lại” là
điều kiện số một của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tất cả mọi người lao động đều
là thành viên của một “xanh- đi- ca” Nhà nước duy nhất, làm việc ngang nhau,
hưởng lương ngang nhau, tất cả đều tham gia quản lý, tham gia kiểm soát việc sản
xuất và phân phối lao động, sản phẩm.
3. Các cơ quan đại biểu nhân dân (Xô Viết) do phổ thông đầu phiếu bầu ra là
các cơ quan đại diện quyền lực nhân dân, vừa lập pháp, vừa hành pháp, tức là
thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công chứ không phân lập. Nhân dân trực
tiếp bầu những đại biểu của mình, trực tiếp kiểm tra và có quyền bãi miễn tư cách
đại biểu.


4. Chế độ tập trung dân chủ kết hợp với quyền tự trị, tự quyết rộng rãi của
các địa phương, nhất là các vùng dân tộc có những điều kiện riêng về kinh tế và lối
sống.
5. Lực lượng lãnh đạo là Đảng của giai cấp công nhân và có các tổ chức
quần chúng làm chỗ dựa cho nền dân chủ. Các tổ chức này cùng với Nhà nước hợp
thành hệ thống chuyên chính vô sản.
6. Đối tượng chuyên chính của nó là tất cả những phần tử, lực lượng thù địch
với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, theo Mác- Ăngghen- Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền
dân chủ toàn diện (không chỉ về mặt chính trị) trực tiếp, cụ thể (cả trong quản lý
hàng ngày) của tuyệt đại đa số nhân dân. Nó là một nền dân chủ thật sự và ngày
càng đầy đủ. Sau khi hoàn thiện, nó sẽ dân chủ “gấp triệu lần” nền dân chủ tư sản
(Lênin). Đây là những điều Hồ Chí Minh rất tâm đắc và đã tích cực vận dụng một
cách sáng tạo ở Việt Nam.

1.1.3. Nội dung tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
1.1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Hồ Chí MInh không có một tác phẩm chuyên khảo nào bàn sâu về dân chủ.
Song đọc Hồ Chí Minh Toàn tập (12 tập), chúng tôi thấy, thuật ngữ dân chủ được
Người dùng trên 1600 lần với những ý nghĩa sâu xa khác nhau, tuỳ theo hướng tiếp
cận và sự phát triển tư duy về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:


Dân chủ
Dân

Thiết chế, cơ chế

Dân chủ

mới

Chế độ
(dân chủ)

(dân chủ)

Xã hội

(nhân
dân)

văn minh
dân vận


Thực hành dân chủ

(CSCN)
dân chủ hoá

Theo sơ đồ ta thấy dân là phạm trù xuất phát, dân chủ là phạm trù trung tâm,
là điểm khởi đầu của tư tưởng và phương pháp dân chủ, đích cuối cùng là xã hội
văn minh - cộng sản chủ nghĩa.
Vậy quan niệm (định nghĩa) của Hồ Chí Minh về dân chủ như thể nào?
Đọc Toàn tập của Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy cụm từ “dân chủ là”, hiểu
như là một cách định nghĩa về dân chủ, đã xuất hiện trên 15 lần. Trong đó có một
cụm từ được coi là định nghĩa của Hồ Chí Minh về dân chủ, nó tường minh về câu
chữ, hàm súc về nội dung và giản dị về diễn đạt. Bằng cách hỏi và đáp là cách diễn
đạt mà người dân ít học hoặc có học đều dễ nhớ, dễ hiểu, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi
trước hàng vạn quần chúng Hải Phòng: “Dân chủ là thế nào?” Và Người tự trả lời:
“Là dân làm chủ” [78, tr, 375]. Rõ ràng theo văn cảnh Hồ Chí Minh nói thì dân chủ
là dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước của mình, và do vậy, dân
chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Trong đó dân làm chủ mới có giá trị thực
tế, quyết định, chứ giá trị của dân chủ không hoàn toàn chỉ là xác định vị trí là chủ


của dân. Song, chỉ khi vị trí là chủ của dân được xác định, thì vai trò làm chủ của
dân mới được xác lập, tức là dân chủ qua các mặt hoạt động thực tiễn. Nói dân chủ
là dân làm chủ đã bao hàm ý nghĩa dân là chủ trong đó. Trong thực tế không phải
không có trường hợp dân là chủ đất nước, là chủ nhà nước nhưng không biết làm
chủ, thậm chí không được làm chủ. Ngay ở nước Pháp, nước Mỹ những cái nói của
cách mạng dân chủ tư sản, nhưng Hồ Chí Minh vẫn phát hiện ra : “Tiếng là cộng
hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mạng đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hãy còn phải mưu cách mạng
lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức [72, tr, 274]”.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa “nước ta phải đi đến dân chủ thực
sự”[77, tr, 25] nghĩa là “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [75, tr, 698] “Làm sao
cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói,
dám làm” [82, tr, 223].
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là dân làm chủ là một định nghĩa
dân chủ cô đọng, súc tích, vừa khoa học, hiện đại vừa kế thừa và phát triển những
hiểu biết của nhân loại về dân chủ, phản ánh đúng thực chất của dân chủ ở thời
đương đại.
Thực ra, nhìn về hình thức, cách định nghĩa dân chủ của Hồ Chí Minh không
khác gì nhiều cách định nghĩa dân chủ của người Hy Lạp cổ đã được nhân loại
chấp nhận như là một định nghĩa gốc. Theo chữ Hy Lạp cổ thì dân chủ nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân (kết hợp Demos + kratos), nghĩa tổng quát là nhân
dây hay dân chúng nắm chính quyền. Ngày nay trong các ngôn ngữ giao tiếp thông
dụng của loài người như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga thì dân chủ vẫn giữ
nguyên ý nghĩa gốc của nó (tiếng Anh – Democracy, tiếng Pháp – Démocratie,


tiếng Nga - Демократия). Chính C.Mác đã từng viết trong tác phẩm “Phê phán
Cương lĩnh Gô ta”: từ dân chủ nếu chuyển sang tiếng Đức thì có nghĩa là nhân dân
nắm chính quyền [65, tr. 44-45]. Rõ ràng, cách hiểu dân chủ với các ngôn ngữ
thông dụng đều là sự kết hợp giữa hai thành tố : chủ thể là dân và nội dung trọng
tâm của dân chủ là quyền lực thuộc về dân hoặc dân làm chủ . Sự khác nhau giữa
quan niệm về dân chủ chính ở quan điểm và thái độ đối với dân và phương thức
gắn kết giữa dân với làm chủ hoặc quyền lực.
Trong quan niệm dân chủ của Hy Lạp cổđại thì nhân dân hay dân chúng chỉ
bao gồm những công dân hay dân tự do, trong đó không có những người nô lệ và
những người con trai vị thành niên. Dẫu rằng thành bang Aten được coi là dân chủ
nhất, thì dân chúng vẫn là thiểu số, là ít ỏi trong cộng đồng dân cư. Thậm chí dân
chỉ là nô lệ, không được làm người.
Thuật ngữ dân chủ với nội dung cơ bản là dân chúng nắm chính quyền chỉ

còn là một kỷ niệm hay là thuật ngữ lịch sử trong thời trung đại dưới chế độ phong
kiến quân chủ chuyên chế. Đành rằng ở đâu đó, trong một vài thành thị thương mại
Châu Âu, người ta có nhắc tới thành bang dân chủ Aten và tự nhận là dân chủ đô
thị. Nhưng các sự kiện đó không có ý nghĩa thực tiễn bao nhiêu trong sự phát triển
của xã hội loài người. Cho đến thế kỷ thứ XVII với sự phát triển của các thành
phố, các trung tâm kinh tế công thương nghiệp lớm, sự hình thành các quốc gia dân
tộc, sau cách mạng tư sản Anh, đặc biệt là cách mạng Mỹ, người ta lại quay lại
thuật ngữ dân chủ và lần này khái niệm dân chúng được mở rộng tới tất cả các
công dân trong từng quốc gia. Ở nước Pháp, các nhà khai sáng bàn nhiều đến tự
do, bình đẳng, bác ái của người dân, đó là những bộ phận của dân chủ hay đúng


×