Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.08 KB, 20 trang )

A: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngay từ khi lọt lòng mẹ, các em đã được bao bọc bởi tiếng hát ru của mẹ,
của Bà, lớn lên chút nữa, những câu chuyện kể có tác dụng to lớn là dòng sữa ngọt
ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có
bản sắc dân tộc, góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội
đối với những thành viên của mình. Cả thế giới đang mở ra trước mắt các em kho
tàn văn minh nhân loại được chuyên giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quả trình
giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi tất cả các môn học. các môn học ở tiểu
học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến phân
môn luyện từ và câu- một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng
Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập có vị trí quan trọng cùng với
các phân môn Tiếng Việt giúp học sinh có đầy đủ các yếu tố và kỹ năng để học
phân môn tập làm văn và trang bị cho học sinh, hội tụ đầy đủ kiến thức của môn
Tiếng Việt.
Trong quá trình giảng dạy ở môi trường có chất lượng học sinh học tập khá
tốt, và đây là trường học 2 buổi/ ngày nên bản thân tôi thiết nghĩ, để tránh thời gian
lãng phí và phát huy hết khả năng học tập của học sinh đối với phân môn luyện từ
và câu lớp 4.
Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa, luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình
giải quyết các bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
Vì vậy tôi quyết định tìm hiểu, nghiên cứu và viết về: " Một số biện pháp
hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4".


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con
người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ
nhỏ.
Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ
thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút


nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng
tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc
góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những
thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một
điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt
các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng
nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng
ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác
dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy
biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các
môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh
phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn
Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng
với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều
đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang
tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho
hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học
khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình
giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.

2


II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng đối với giáo viên.
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học
sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về
Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ

năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được
xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành
công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh
làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của
giáo viên như sau:
a, Thuận lợi:
- Là trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2. nên cơ sở vật chất được trang bị
khá đầy đủ cho việc giảng dạy.
- Được sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của BGH- Tổ chuyên môn đến công tác
giảng dạy của giáo viên trong nhà trường.
- Tập thể cán bộ giáo viên đoàn kết, có trình độ chuyện môn vững vàng, luôn
giúp đỡ nhau trong công tác.
b, Khó khăn.
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn
học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm
lý giáo viên e dè bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để
khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp
án, gợi ý , vốn từ của giáo viên chưa nhiều dẫn đến học sinh ngại học phân môn
này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách
giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ
cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.

3


- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới
phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề

trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy
và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
2. Thực trạng đối với học sinh.
a, Thuận lợi:
- Là trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2. nên cơ sở vật chất được trang bị
khá đầy đủ cho việc học tập của các em .
- Hầu hết học sinh là con em cán bộ nên được sự quan tâm sát sao và kịp thời
, khả năng nhận thức của các em khá nhanh nhạy.
b, Khó khăn.
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn
“Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân
môn vừa “khô” vừa “khó”.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận
diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót,
làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy,
chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu
cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra
yếu kém thiếu chắc chắn.
*. Kết quả .
Ngay từ đầu năm, khi được tiếp nhận lớp 4B- Trường Tiểu học thị Trấn –
Nga Sơn nơi mà tôi đang công tác tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng .
Ở lớp tôi có 30 học sinh, kết quả khảo sát như sau:
Điểm 9-10
SL
%
4
13,3


Điểm 7-8
SL
%
6
20

Điêm 5-6
SL
%
13
43,4

4

Điểm dưới 5
SL
%
7
23,3


Điều đáng nói ở đây là có tới 15 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong
quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy
đủ.
Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía;
Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương
pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả
dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIÊN:

Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học phân môn luyện từ và câu
không phải là gạt bỏ hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống mà là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa các PPDH (Phương pháp dạy học) tích cực và PPDH
truyền thống bởi chúng ta ai cúng biết rằng trong dạy học không có phương pháp
nào là toàn năng. Điều căn bản là chúng ta phải biết căn cứ vào từng loại bài học,
từng nội dung dạy học mà lựa chọn PPDH cho phù hợp để phát huy tối đa khả năng
sáng tạo của giáo viên, học sinh, phát huy ở các em năng lực tư duy, tính độc lập,
thích tìm tòi và khám phá nhằm hoàn thành tốt việc thực hiện nhiệm vụ , mục tiêu
môn học.
Mặt khác phân môn luyện từ và câu lớp 4 được xây dựng theo một hệ thống
bài tập và được phân loại thành các loại bài tập sau:
1. Loại bài tập mở rộng vốn từ.
2. Các dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
3. Các bài tập có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
4. Các dạng bài tập về câu.
5. Các dạng bài tập về thêm trạng ngữ cho câu.
Vì vậy cần phải căn cứ vào loại bài tập mà ta lựa chọn phương pháp nào là
phương pháp chủ đạo và các phương pháp hỗ trợ khác. Như vậy tiết dạy luyện từ
và câu thực sự lôi cuốn các em vào các hoạt động học tập.
1. Dạy loại bài tập mở rộng vốn từ:
Giáo viên cần vận dụng PPDH " Hợp tác nhóm" là chủ đạo vì thông qua làm
việc theo nhóm, qua thảo luận trao đổi, giao tiếp với nhau các em sẽ học tập lẫn

5


nhau, làm cho vốn từ của mình giàu thêm , biết sử dụng từ và vận dụng nó vào
cuộc sống.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.

- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học
sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm
trả lời cho học sinh làm việc ở lớp.
Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt
lại ý kiến đúng.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập.
Ví dụ 2: " Tuần 22 - Mở rộng vốn từ: Cái đẹp"
- Tìm các từ ngữ:
a. Thể hiện vẻ đèp bên ngoài của con người.
b. Thể hiện nét đẹp trong tâm hồn, tính cách con người.
- Giáo viên phát phiếu học tập cho các nhóm (Nhóm 4) cho các em trao đổi,
thảo luận, trình bày, đại diện nhóm tập hợp (Trong quá trình học sinh thảo luận
nhóm, giáo viên phải làm việc trực tiếp với từng nhóm để phát hiện ra từng cá nhân
học sinh, đặc biệt quan tâm tới những học sinh còn yếu, yêu cầu các em trình bầy
quan điểm của mình để bạn giúp đỡ bổ sung). Cuối cùng giáo viên cho các tổ gián
phiếu, chốt kết quả đúng.
Tóm lại: Với các loại bài tập " Mở rộng vốn từ" Khi tổ chức dạy học , giáo
viên vận dụng phương pháp học hợp tác nhóm, theo tôi là có hiệu quả, nó kích
thích sự tìm tòi suy nghĩ, tinhs độc lập và hợp tác nhóm đòi hỏi học sinh khả năng
giao tiếp, điều này hết sức cần thiết vì nó giúp các em vận dụng được trong giao
tiếp hàng ngày. Tuy nhiên để vận dụng phương pháp này có hiệu quả, giáo viên cần

6


lập kế hoạch cho hoạt động này thật chu đáo: Trong thời gian bao lâu, nhóm mấy,

sử dụng những câu hỏi gợi mở nào, mục đích cần đạt tới là gì? Có như vậy mới
không làm lỡ toàn bộ kế hoạch bài dạy. Ngoài ra, giáo viên cũng cần sử dụng một
số phương pháp phù trợ khác cần thiết như: Giảng giải, vấn đáp,…
2. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong
phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá
trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ
Ví dụ : Tìm từ láy , từ ghép chứa các tiếng sau đây :
- Ngay
- Thẳng
- Thật
Từ
Từ láy
Từ ghép
Ngay
Ngay ngáy
Ngay thẳng, ngay ngắn...
Thẳng
Thẳng thắn
Ngay thẳng, thẳng tắp...
Thật
Thật thà
Sự thật, thẳng thật...
Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên
cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu,
vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có

nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định
từ ghép và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Đám mây, ruộng vườn, xanh ngắt...
+ Từ láy: xanh xao, tươi tắn, nhỏ nhắn...
3. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao
tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Vì vậy , khi dạy học loại bài này

7


GV nên sử dụng PP thực hành giao tiếp hoặc tổ chức cho học sinh trò chơi học tập
là tốt nhất.
Ví dụ1: Viết họ và tên 4 bạn nam, 4 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn
ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ
họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường
hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học
sinh áp dụng vào bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
Nhà vua: Để làm gì ?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ
dưới nước.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu

trước lớp.
Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta
lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra.
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được
gạch chân trong đoạn văn sau:
Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa.
Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.
Hoa cà phê thơm lắm em ơi
Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
Như miệng em cười đâu đây thôi...
Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh

8


Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học
sinh ;các em đã hiểu .
Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạch chân cụ
thể : Hoà cà phê thơm như thế nào ? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất
xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não):
Thơm – lắm
Trong – ngà
Trắng – ngọc
Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
4. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để
học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi
đặt câu.Đối với loại bài này , GV nên áp dụng PPDH giao tiếp hoặc trò chơi
"chuyền điện ", mỗi em khi được chỉ định đến đều đặt một câu theo yêu cầu.

4.1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho
học sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
Giáo viên hướng dẫn mẫu:
+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.

9


Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
a) Cho mượn cái bút!
b) An ơi, cho tớ mượn cái bút!
c) An ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không?
Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự
lịch sự trong giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành
lời yêu cầu lịch sự.
4.2. Câu hỏi:
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất
cụ thể:
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi

cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn
dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt
lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời
bàn tán sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải
xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học
sinh so sánh.
Các câu các em hỏi nhau:- Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm
- Hay cụ đánh mất cái gì?

10


Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất
phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế
nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng
may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học
sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người
khác.
Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các

em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.
Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như
trong bài tập trên ở ngoài thực tế.
4.3. Câu khiến
- Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:
- Chuyển các câu kể thành câu khiến.
- Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.
- Đặt câu khiến theo yêu cầu có

“hãy” trước động từ
“đi” hoặc “nào” sau động từ
“xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ

- Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.
Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến
- An đi học
- Ha đi lao động
- Lan chăm chỉ
- Nam phấn đấu học giỏi.
Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - An đi học!
-An phải đi học!
- An hãy đi học!

11


Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ “đi”, “phải”,
“hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng –nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu.
- An đi học đi !


(yêu cầu nhẹ nhàng)

- An phải đi học!

( yêu cầu bắt buộc)

- An hãy đi học đi!

( yêu cầu mang tính ra lệnh)

Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ),
mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét.
Chốt kiến thức: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau:
Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng
dấu chấm than (!).
Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2.
Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:
a. Câu khiến có hãy ở trước động từ.
b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ.
c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.
Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.
a. Bạn hãy làm bài tập đi!
b. Mong các em làm bài tập thật tốt!
4.4. Câu cảm: (câu cảm thán)
Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng,
thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói.
Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm,
thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!).
Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:
a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu

cảm để bày tỏ sự thán phục.

12


b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng
nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình
huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.
a. Ôi, bạn giỏi quá!
b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá
nhận để các bạn nhận xét.
Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì?
a. Ôi, bạn Minh đến kìa!
b. Ồ, bạn Lan thông minh quá!
c. Trời, thật là kinh khủng!
Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:
- B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.
- B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu.
- B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
5. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.
Dạng bài tập:
- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:
a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình

b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.
c................., hoa đã nở.
Đối với dạng bài tập này, tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3
nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố
mẹ làm những công việc gia đình tại đâu?

13


Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh
nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.
Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc.
Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:
a).............., xã em vừa đào một con mương.
b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt.
c)..............., em phải năng tập thể dục.
Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm
gì?
Quyết tâm..........tốt để dành được gì?
Tập thể dục có lợi gì?
Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:
Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau
- Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy
đủ.
- Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã
sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.
Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ
“bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?
Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân

và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?.
Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài
tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ
và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân
tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm
hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ
thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.
Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí – nghị lực.

14


Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đax vượt
qua nhiều thử thách, đạt được thành công.
Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết
ngay vào nháp.
Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ
thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết
(học sinh yếu tôi còn hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì).
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc
nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó
là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.
Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm
bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn
đề cần chấn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ
chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một học kỳ ôn
tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để
xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện
từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4B do tôi chủ nhiệm.

Đề bài:
Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:
1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”
2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như
thế” có mấy động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ

15


3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì?
a. Dùng đề hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.
c. Dùng thay lời chào.
4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ
phận nào là chủ ngữ?
a. Thanh
b. Sự yên lặng
c. Sự yên lặng làm Thanh.
Kết quả thu được: Tổng số lớp 4B: 30 HS
Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6


Điểm dưới 5

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

15

50

8

26,7

7

23,3


0

0

Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập luyện
từ và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của học
sinh.
* Để củng cố cho các bài tập luyện từ và câu, giáo viên nên sử dụng
phươmg pháp "Trò chơi học tập" trong quá trình giảng dạy, vì tâm lý của học sinh
tiểu học là thích học mà chơi , chơi mà học. Đây là một loại trò chơi đặc biệt,
không chip nhằm giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kỹ năng đã học. Trò
chơi học tập sẽ thực sự lôi cuốn, thu hút học sinh. Mặt khác sử dụng trò chơi học
tập sẽ làm tăng thêm mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ bạn bè thân thiết và thôi
thúc ở các em khả năng muốn chiếm lĩnh kiến thức.
Điển hình đối với loại bài tập mở rộng vốn từ ta có thể tổ chức trò chơi:
Tìm nhanh từ cùng chủ đề , tìm nhanh từ chỉ hoạt động , trang thái hoặc đặc
điểm của người, sự vật hoặc thi phân loại nhóm từ nhanh.
- Hình thức chơi: Học sinh có thể nêu nối tiếp theo dãy, theo tổ.
Hoặc: Học sinh 1 nêu một từ sau đó chỉ định tiếp các bạn khác. Nếu bạn nào
không nêu được sẽ thua cuộc sẽ phải hát, phải nhảy cò cò.

16


Đối với lọai bài tập về ôn luyện kiểu câu và các thành phần câu, có thể tổ
chức cho học sinh thi đặt câu theo mẫu, thi ghép thêm thành phần câu, thi nói câu
thích hợp.
- Hình thức chơi: Học sinh chơi theo tổ, theo cặp.
+Thêm trang ngữ chỉ nơi chốn (chỉ mục đích, thời gian, phương tiện,…) cho

câu.
+ Hoặc học sinh 1 nêu trạng ngữ.
Học sinh 2 nêu câu nối tiếp.
Nói tóm lại: Tuỳ theo nội dung từng bài học và từng loại bài tập, trong mỗi
tiết dạy luyện từ và câu, để làm giảm bớt sự căng thẳng, để lôi cuốn học sinh tích
cực tham gia hoạt động học. Chúng ta nên thiết kế những trò chơi học tập phù hợp ,
bổ ích và lý thú.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và
rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi
thấy kết quả của việc làm đó như sau:
Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

10

33,3

15

50

5

16,7

0

0

Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm
nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một
cách có hiệu quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một
cách chủ động.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có
cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài.
Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.


17


- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt
câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài
kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ
và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học,
mạnh dạn nêu ý kiến của mình.
- Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng
góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi
dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy
nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi
trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng
bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
I. KẾT LUẬN.
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu tổ chức thực hiện tôi rút ra bài học kinh nghiệm
như sau
- Để phát huy được điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu , hạn chế
củaviệc dạy và học Luyện từ và câu hiện nay , GV cần tìm hiểu nguyên nhân nào
dẫn đến việc học yếu phân môn này , từ đó có kế hoạch xây dựng PPDH phù hợp
với đối tượng học sinh đó đồng tời có PPDH thích hợp nhằm phát huy nhóm học
sinh tích cực
- Tham gia sinh hoạt chuyên môn đầy đủ trong tổ và đề xuất tổ thảo luận nội
dung " Hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu."
Sinh hoạt chuyên môn là việc làm GV có thể trao đổi và học tập kinh nghiêm
tốt nhất , là cách tháo gỡ những thắc mắc trong vấn đề giảng dạy, là cách tạo ra
niềm tin vững vàng trong việc áp dụng PPDH , hình thức tổ chức dạy học phù hợp

trong tiết dạy .
- Xây dựng kế hoạch bài dạy - dạy thực nghịêm cho BGH cùng các cốt cán
chuyên môn dự giờ, góp ý giờ dạy.

18


Xây dựng kế hoạch bài dạy đúng , phù hợp cũng là một yếu tố hết sức quan
trọng , góp phần thành công tiết dạy đồng thời cần phải có tiết thực nghiệm để kiểm
nghiệm PPDH mà mình đưa ra là phù hợp hay chưa
Thường xuyên phối hợp với cha mẹ học sinh để có biện pháp giáo dục phù
hợp cho các em đạt hiệu quả tốt nhất.
Tất cả các việc làm đó đều nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
chất lượng dạy học phân môn
Luyện từ
và câu nói
riêng.
PHÒNG
GD&ĐT
NGA
SƠN
II. ĐỀ XUẤT.
Việc vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học luyện từ và câu là cách
thức có hiệu quả để nâng cao chất lượng giảng dạy nhưng không phải là việc làm
đơn giản. Để đạt được hiệu quả cao tôi xin đề xuất ý kiến sau:
- Các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý luôn mở các lớp bồi dưỡng tập huấn cho
giáo viên về phương pháp giảng dạy các phân môn, phải tổ chức nhân rộng điển
hình, tổ chức sinh hoạt chuyên môn cụm, trường, tổ một cách thường xuyên và có
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

hiệu quả hơn.
- Với những sáng kiến kinh nghiệm có tính thực tiễn, đề nghị các cấp quản lý
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH
nên tổ chức triển khai để giáo viên học tập, áp dụng trong giảng dạy.

HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn!./.

Thanh hóa, ngày 10 tháng 04 năm 2015

XÁC NHẬN

CAM KẾT KHÔNG COPY

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người thực hiện: Trương Thị Lâm
Chức vụ: Giáo viên
Trương Thị Lâm
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học -Thị Trấn- Nga Sơn
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2015
19


20




×