Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu Luận Khoa Học Quản Lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.1 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Quản lý là một công việc khó khăn, phức tạp nhất trong lĩnh vực hoạt động của con
người, xã hội. K.Mark đã coi trọng việc xuất hiện quản lý như một dạng hoạt động đặc
thù của con người gắn với sự phân công và hợp tác của con người. Quản lý nhằm hướng
tới một mục tiêu chung trong tương lai mà tương lai luôn luôn biến đổi động không
ngừng do các yếu tố chủ quan và khách quan tác động. Do đó quản lý cũng diễn ra hết sức
biến động và thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại, nếu không đáp ứng được biến động
đó thì sẽ dẫn tới những thất bại trong quản lý.
Một công việc hay bất cứ chuyện gì muốn thành công thì đều phải có chủ trương,
đường lối đúng và quy trình tổ chức thực hiện công phu, chặt chẽ với những giải pháp
thiết thực hữu hiệu. Từ chủ trương, đường lối đến quá trình thực hiện công việc thành
hiện thực còn khó khăn phức tạp hơn nhiều. Muốn chủ trương đường lối thành công thì
phải có tổ chức và tổ chức con người lại với những phương tiện nhất định, chỉ đạo, định
hướng để mọi người hành động theo đúng mục tiêu, phương hướng, tư tưởng đã xác định.
Do đó quản lý về tổ chức là một khâu quan trọng và có tính chất quyết định. Hiểu và
nắm vững cách tổ chức không chỉ về mặt cơ cấu, bộ máy của con người, phương tiện làm
việc mà phải tìm hiểu sâu, nắm chắc các chức năng, hoạt động theo một cơ chế quản lý
của một tổ chức chặt chẽ.
Tại Việt Nam hiện nay cùng với nhu cầu về phát triển đời sống kinh tế – xã hội yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế là một nhu cầu thiết yếu. Bộ máy hành chính phải trở thành
cơ quan xã hội, các thiết chế xã hội để phục vụ nhân dân. Để làm được việc đó một cách
hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi nền hành chính của nước ta
cần sự chuyển đổi mạnh mẽ, vận động theo mô hình quản lý công mới. Do vậy em xin
trình nội dung bày bải tiểu luận “ Tìm hiểu mô hình quản trị công mới ở một số nước
phát triển, nhận xét và áp dụng vào thực tế tại nước ta.”

1


NỘI DUNG
Chương 1:


Mô hình quản trị công mới ở một số nước tiên tiến.
1.1. Quản trị công mới
Quản trị công mới với ý nghĩa là lý thuyết về mô hình hành chính công theo các
tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu
cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ và
những mối quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặc chẽ lẫn nhau.
Về bản chất, Quản trị công mới là một cách tiếp cận mới đối với hành chính công
truyền thống. Mục tiêu chính của quản trị công là nâng cao chất lượng của hoạt động
quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng một nền hành chính năng động, linh hoạt trong
điều hành, giám sát và quản lý các chủ thể khác nhau của xã hội nhằm phục vụ tốt hơn
các quyền và lợi ích của khu vực công cộng.
1.2 .Một số đặc trưng của mô hình quản trị công mới
1.2.1. Hiệu quả hoạt động quản lý
Trong mô hình quản trị công mới, vai trò của khoa học quản lý và các nhà quản lý
nhất là các nhà quản lý theo lối quản trị doanh nghiệp được đề cao và chính nó là yếu tố
quyết định việc đạt được mục tiêu của quản lý. Nếu trong mô hình hành chính truyền
thống, các nhà hành chính chủ yếu là làm nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh và làm theo các
quy tắc có sẵn thì ngày nay với tư cách là nhà quản lý, họ phải tính toán, dự toán, sáng
tạo, năng động để đạt được mục tiêu. Vì mục tiêu phải đạt là hiệu quả của hoạt động quản
lý, các nhà hành chính bên cạnh việc quan tâm đến chu trình, phương pháp mà còn quan
tâm đến mục đích có đạt được không, cụ thể là hiệu quả được lượng hóa, đánh giá bằng
các chỉ tiêu đánh giá dựa trên so sánh kết quả/chi phí.
1.2.2. Phi quy chế hóa
Cách tiếp cận quản trị công mới không đòi hỏi những quy định chặt chẽ như một
mạng lưới dày đặc trong nền hành chính công truyền thống yêu cầu công chức phải tuân
thủ một cách cứng nhắc và nghiêm ngặt mà thay vào đó là cơ chế mềm dẻo linh hoạt hơn,
dễ thích nghi với tình hình kinh tế, chính trị xã hội mới. Người công chức không nhất
2



thiết phải làm công ăn lương suốt đời mà họ có thể làm hợp đồng toàn phần hoặc nửa thời
gian, miễn là họ phải đạt được mục tiêu của tổ chức đặt ra khi làm việc. Người công dân
không còn là người thụ động cầu xin dịch vụ của nhà nước mà trở thành các khách hàng
sử dụng dịch vụ, có quyền được đòi hỏi phục vụ.
Phi quy chế hóa được thực hiện bằng cách đơn giản hóa các thể chế, các quy định, thủ
tục của chính phủ vì chúng trở nên quá nặng nề, phức tạp đên nỗi người dân không thể
hiểu nổi và thậm chí cả các cơ quan hành chính nhà nước cũng khó áp dụng.
1.2.3. Phi tập trung hóa
Vấn đề này được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, ở những mức độ khác
nhau nhưng xu hướng chung là chính phủ trung ương giao quyền hạn, trách nhiệm, thẩm
quyền nhiều hơn cho các đơn vị chính quyền địa phương hay cho các bộ, các đơn vị tổ
chức bên dưới trong việc chủ động quản lý các nguồn lực được phân bổ trong phạm vi
thẩm quyền, đồng thời đề cao mối quan hệ giữa chính phủ với các bộ phận hoạch định
chính sách, giữa cấp hoạch định chính sách với cấp thi hành. Phân quyền trong cải cách
hành chính nhằm đạt được năm mục đích sau:
-

Tăng cường hoạch định chính sách ở cấp hành chính trung ương bằng cách
giảm bớt các hoạt động có tính chất tác nghiệp;

-

Phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương làm cho nền hành
chính sát và phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương;

-

Phát triển dịch vu đa dạng hơn theo hướng người tiêu dùng là khách hàng, làm
cho dịch vụ công có hiệu quả cao;


-

Phát triển nền dân chủ, tăng cường sự tham gia của công dân trong nền hành
chính công;

-

Thúc đẩy sự công bằng, trách nhiệm giải trình giúp cho công dân dễ dàng giám
sát hoạt động của các nhà chức trách.

3


1.2.4. Áp dụng một số yếu tố của cơ chế thị trường
Áp dụng các yếu tố của cơ chế thị trường như cạnh tranh, đấu thầu, tính hiệu quả,
lượng hóa, so sánh kết quả/chi phí, công dân là “khách hàng” của nền hành chính, làm
cho nền hành chính trở nên năng động, đa dạng, phong phú, thoát khỏi vỏ ốc quan liêu
truyền thống của bộ máy thư lại cũ.
1.2.5. Gắn bó với chính trị, với chính phủ, nhà nước và nền hành chính nhà nước
Đội ngũ cán bộ công chức hành chính, đặc biệt là các cán bộ quản lý cao cấp, không
phải là những người trung lập về chính trị, không còn hoàn toàn là “chính trị ra đi, hành
chính ở lại”. Họ tham dự vào quá trình xác lập đường lối, chính sách. Bản thân họ là
những người được rèn luyện chính trị, tham gia công tác chính trị và làm công tác chính
trị và hành chính trong bộ máy hành pháp vào nền hành chính nhà nước và do đó có thể
xem họ là chiếc cầu nối giữa quyền lực chính trị với nền hành chính quốc gia.
1.2.6. Tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước trên cơ sở thực hiện được
các mục tiêu và pháp luật nhà nước, đặc biệt là các dịch vụ công.
Xu hướng này bắt đầu tại Vương quốc Anh từ khi bà Margaret Thatcher lên nắm
quyền vào năm 1979 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tư nhân hóa
không chỉ là con đường nâng cao hiệu quả mà còn vì bản thân chính phủ đã có quá nhiều

chức năng, nếu không tư nhân hóa thì không thể đáp ứng nhanh chóng được các yêu cầu
ngày càng tăng của công dân. Ngoài ra, một ý nghĩa quan trọng khác của tư nhân hóa là
thu hút được đông đảo các thành phần xã hội, nhất là khu vực tư nhân, các công dân và
các tổ chức phi chính phủ, tham gia vào hoạt động của nền hành chính công. Trong một
chừng mực nào đó tư nhân hóa có thể coi là một phần của xã hội hóa. Mức độ, phạm vi tư
nhân hóa và xã hội hóa ở các nước khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước và
xu hướng chính trị của đảng cầm quyền và chính phủ đương thời.
1.2.7. Hành chính công không tách khỏi hành chính tư và vận dụng nhiều phương
pháp quản lý doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động của mình
Tuy phân biệt rõ và không biến hành chính công thành tổ chức quản lý tư nhân theo cơ
chế thị trường, song trong xã hội hiện đại và nền kinh tế thị trường, nền hành chính công
4


có thể và đã vận dụng nhiều phương pháp quản lý của các doanh nghiệp tư nhân, nhất là
phương pháp quản lý hiện đại. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của hiệu quả, chất lượng và
sự linh hoạt trong đáp ứng các dịch vụ cho yêu cầu ngày càng tăng của công dân cả về số
lượng và chất lượng.
1.2.8. Xu hướng quốc tế hóa
Sự quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến nền hành chính công.
Các nước phải điều chỉnh nhiều quy định pháp luật theo pháp luật và thông lệ quốc tế đối
với các vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề xã hội. Nền hành chính phát
triển là nền hành chính hướng đến gánh vác những nghĩa vụ chung của nhân loại. Nói
cách khác, nền hành chính công trong quản trị công mới là nền hành chính công mở,
không chỉ quản lý tốt trong nước mà còn hướng đến thực hiện các trách nhiệm của quốc
gia.
1.2.9. Hiện đại hóa nền hành chính
Quản trị công mới hướng đến việc áp dụng các công nghệ hiện đại vào quản lý, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động, kịp thời đáp ứng các yêu cầu của công dân và tổ chức.
Các công nghệ áp dụng vào nền hành chính công không chỉ là các phương tiện khoa học

kỹ thuật mà quan trọng hơn là các phương pháp quản lý hiện đại.
1.3.Những ưu điểm và hạn chế của quản trị công mới
1.3.1.Ưu điểm của quản trị công mới
Quản trị công mới là đỉnh cao trào lưu của quản lý công ra đời xuất phát từ yêu cầu
của quá trình đổi mới quản lý khu vực công, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của ý thức dân chủ. Chính vì vậy, Quản trị
công mới đã đem lại những luồng gió mới cho quá trình cải cách khu vực công, tạo ra
những định hướng mới cho quá trình cải cách khu vực công.
Thật vậy, quản trị công mới chỉ ra định hướng cải cách khu vực công từ một nền hành
chính công truyền thống sang một nền quản trị công mới, khi mà khu vực công ở các
nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nới riêng tỏ ra còn quá nhiều trì trệ và yếu
kém. Lý thuyết quản trị công mới cho thấy rằng cần phải thay đổi nhận thức về vai trò của
5


nhà nước và cách thức sử dụng nguồn lực của quốc gia. Nhà nước luôn là người chịu
trách nhiệm cao nhất về sự tồn vong và phát triển của quốc gia, dân tộc, nhưng nhà nước
không cần làm tất cả mọi việc mà có thể chuyển giao một phần công việc cho khu vực tư
nhân đảm nhiệm. Từ việc nhận thức lại vai trò của nhà nước, cách thức sử dụng nguồn lực
cũng sẽ thay đổi. Những hiện tượng tiêu cực trong nền hành chính công truyền thống như
lãng phí, vô trách nhiệm trong sử dụng tài sản công, lạm quyền, tham nhũng cũng sẽ được
hạn chế do bởi giờ đây đã có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự trong một nền hành
chính công mới.
Không những vậy, lý thuyết quản trị công mới còn giúp các nhà quản lý nhận thức
được đầy đủ hơn về sự cần thiết phải không ngừng đổi mới trong quản lý.
Cải các khu vực công là một quá trình bền bỉ. Quá trình đó được định hướng rõ ràng
và đồng thời luôn được cân đo đong đếm một cách cẩn thận do bởi trong quản trị công
mới, hiệu quả của hoạt động quản lý luôn luôn được coi trọng. Đó cũng là một trong
những ưu điểm nổi bật của quản trị công mới so với nền hành chính truyền thống. Khi áp
dụng những yếu tố của quản trị công mới, mục tiêu phải đạt được là hiệu quả của hoạt

động quản lý nên các nhà hành chính bên cạnh việc quan tâm đến chu trình, phương pháp
mà còn quan tâm đến mục đích có đạt được hay không, cụ thể là hiệu quả phải được
lượng hóa, đánh giá bằng các chỉ tiêu dựa trên sự so sánh kết quả/chi phí. Điều này thực
sự tạo ra sự khác biệt khi trong nền hành chính truyền thống. Đánh giá hiệu quả thực thi
sẽ giúp nền hành chính hoạt động hiệu quả hơn, giảm thiểu sự tùy tiện, lãng phí trong sử
dụng nguồn lực cũng như tâm lý không quan tâm đến kết quả đầu ra của cán bộ, công
chức nhà nước. Khi ban hành một chính sách, họ sẽ phải áp dụng một cách khoa học và
cẩn trọng những phương pháp phân tích để lượng hóa tính khả thi và hiệu quả của chính
sách ấy. Những nguồn lực nào cần được huy động để thực thi chính sách, kết quả đầu ra
là gì, làm sao để đạt được kết quả với một chi phí thấp nhất, mức độ hài lòng của người
dân với chính sách…những yếu tố ấy đều được tính toán và kiểm soát. Tất nhiên, do bởi
tính đa dạng của hoạt động hành chính và mức đô ảnh hưởng của các quyết định hành
chính nên việc đánh giá hiệu quả thực tế không đơn giản chỉ là lượng hóa kết quả/chi phí.
Nhưng để đánh giá kiểm soát hiệu quả hoạt động công vụ, việc có được những tiêu chí cụ
6


thể để đánh giá luôn luôn là điều cần thiết và Quản trị công mới bắt buộc nền hành chính
phải thiết lập được điều đó.
Quản trị công mới chỉ ra xu hướng cải cách mới cho nền hành chính nhà nước: phi tập
trung hóa, tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước nhưng vẫn phải đảm bảo vai
trò trung tâm của chính phủ và tính trách nhiệm cao nhất của nhà nước. Quá trình tư nhân
hóa ở đây không chỉ đơn thuần là bán đi các tài sản của nhà nước, chuyển sở hữu công
thành sở hữu tư mà còn bao hàm rất nhiều hình thức như đấu thầu, làm hợp đồng phụ, cho
thuê hay cổ phần hóa các doanh nghiệp và tập đoàn hoặc các công ty để nâng cao tính
cạnh tranh. Thực chất của quá trình tư nhân hóa là nhà nước chuyển giao những phần việc
mà các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước có thể đảm nhiệm được, qua đó thu hút được
đông đảo các thành phần xã hội tham gia vào hoạt động của nền hành chính công. Điều
này đưa đến thu nhỏ bộ máy, từ đó giảm bao cấp, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách
nhà nước khi không phải trả lương cho một bộ máy nhà nước quá cồng kềnh như trước

đây nữa. Như vậy, một trong những giá trị mà quản trị công mới đem lại cho nền hành
chính trong giai đoạn tới đó là chỉ ra rõ cần phải tiếp tục đẩy nhanh quá trình phi tập trung
hóa và tư nhân hóa trong công cuộc cải cách nên hành chính nhà nước.
Một ưu điểm tiếp theo của quản trị công mới đó là lý thuyết này đã chỉ ra rằng cần
phải đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc của công dân và các tổ
chức. Thủ tục phức tạp sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả, mà một trong số đó là sự trì trệ trong
giải quyết các công việc cho công dân. Thủ tục phức tạp làm phát sinh nhiều tiêu cực, sự
nhũng nhiễu, lạm quyền của cán bộ công chức nhà nước. Chính vì vậy, cải cách thủ tục
hành chính luôn là trọng tâm trong nội dung cải cách hành chính ở nước ta nói riêng và
các nước đang phát triển nói chung. Phi quy chế hóa, giảm thiểu thủ tục, giấy tờ trong giải
quyết công việc cho công dân tổ chức sẽ đưa nền hành chính đến gần dân hơn và như vậy
sẽ góp phần khắc phục tính quan liêu của hành chính truyền thống.
Quản trị công mới còn đem đến một tư duy mới về xây dựng thể chế. Nói tóm lại, lý
thuyết quản trị công mới có rất nhiều ưu điểm khi nó đã chỉ ra được định hướng và những
nội dung cốt tử mà khu vực công của nền hành chính truyền thống cần có sự đổi mới. Lý
thuyết này đã hướng đến giải quyết những hạn chế của mô hình hành chính quan liêu: Cơ
7


cấu cồng kềnh, quá nhiều cấp trung gian, chuyên môn hóa quá sâu dẫn đến khó thích
nghi, lạm dụng về mặt hành chính, tranh cấp giấy tờ, thủ tục hành chính, máy móc, cứng
nhắc, không linh hoạt…Các nhà nghiên cứu về quản trị công mới đã nhìn ra được những
hạn chế lớn của mô hình hành chính quan liêu và phủ nhận những giá trị mà mô hình này
có thể đem lại. Chính vì vậy, quản trị công mới đã chỉ ra những hướng cải cách quan
trọng về cơ cấu bộ máy, quản lý nhân sự, cải cách thủ tục, giấy tờ hành chính, chi tiêu,
mua sắm công, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn thực thi công vụ.
1.3.2.Những hạn chế của quản trị công mới
Lý thuyết quản trị công mới của những ưu điểm quan trọng trong định hướng đổi mới
khu vực công nhưng cùng với tiến trình phát triển của quản trị hiện đại, các nhà nghiên
cứu đã chỉ ra những hạn chế của quản trị công mới. Sự phê phán quản trị công mới tập

trung nhiều vào vấn đề áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vực công.
Các nhà quản trị công mới khởi đầu đề cập đến vấn đề lựa chọn kỹ thuật quản lý khu vực
tư để áp dụng cho khu vực công và hoàn toàn không quên bản chất quản lý của khu vực
công và khu vực tư. Tuy nhiên ở giai đoạn sau khi sự lên ngôi của quản trị công mới được
khẳng định, nhiều nhà quản trị công mới đã đánh giá quá cao các kỹ thuật quản lý của khu
vực tư và cho rằng những hiệu quả của khu vực tư đều có thể áp dụng cho khu vực công.
Một hạn chế nữa của quản trị công mới được chỉ ra là xem công dân là khách hàng của
nền công vụ mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò công dân của họ, vai trò của một công
dân trong một nhà nước dân chủ. Thực tế quan hệ giữa chính phủ và người dân không
hoàn toàn đồng nhất với quan hệ người cung cấp dịch vụ và khách hàng. Mối quan hệ
giữa chính phủ và công dân phức tạp hơn và vai trò của công dân thực tế thể hiện ở 4
phạm trù: công dân, khách hàng, người sử dụng dịch vụ và dân chúng. Vì vậy, việc chỉ
nhấn mạnh vào quan hệ khách hàng thì chưa thể hiện hết vai trò của công dân. Công dân
không chỉ là khách hàng có quyền đòi hỏi về chất lượng dịch vụ mà với vai trò công dân,
công dân thực hiện những quyền và nghĩa vụ khác đối với nền công vụ.

8


CHƯƠNG 2
LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆT NAM
2.1.

Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010

2.1.1. Nội dung
Trước năm những 1986, Việt Nam dựa vào nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước quản lý tất cả mọi hoạt động của nền kinh
tế, kinh tế tư nhân về hình thức hầu như không tồn tại, bộ máy hành chính cồng kềnh,
quan liêu… có thể nói điều này giống với đặc điểm của mô hình hành chính công truyền

thống.
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Chính phủ đã tiến
hành nhiều cuộc cải cách lớn, trên nhiều lĩnh vực để làm cho hiệu lực hiệu quả quản trị
nhà nước được tăng lên. Cải cách hành chính nhằm cải cách bộ máy hành chính nhà nước
với mục tiêu là “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả… xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước”.
Trong giai đoạn từ năm 2001-2010 chính phủ Việt Nam đã đưa ra chương trình cải
cách hành chính tổng thể bao gồm cải cách một số lĩnh vực như: cải cách thể chế; cải
cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức; cải cách tài chính công.
Để thực hiện việc cải cách trong các lĩnh vực trên, chương trình cải cách hành chính tổng
thể giai đoạn 2001-2010 được chia thành 7 chương trình bao gồm:
-

Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm
pháp luật;

-

Nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quantrong hệ
thống hành chính nhà nước;

-

Tinh giản biên chế;

-


Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;
9


-

Cải cách tiền lương;

-

Đổi mới quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công.

-

Hiện đại hóa nền hành chính.

2.1.2. Những kết quả đạt được.
Về cải cách thể chế: Đã đổi mới một bước quy trình xây dựng và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi trách nhiệm của Chính phủ, góp phần tích cực vào
việc bổ sung hoàn thiện hệ thống thể chế, từng bước tạo môi trường hành lang pháp lý
đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động kinh tế– xã hội của đất nước trong điều kiện mới.
Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: Xác định rõ hơn, điều chỉnh
một bước chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước. Sắp xếp lại cho gọn hơn tổ chức bộ máy hành chính các cấp; các
đầu mối của Chính phủ đã giảm từ 48 xuống còn 30 (bao gồm 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ
và 8 cơ quan trực thuộc Chính phủ).
Về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức: Công tác quản lý
đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về phân công, phân
cấp, thẩm quyền trách nhiệm quản lý cán bộ, công chức của mỗi cấp trong hệ thống hành

chính nhà nước về các mặt: tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật, nâng lương, nâng ngạch cho các đối tượng cán bộ, công chức.
Về cải cách tài chính công: Đã đổi mới đáng kể về cơ chế phân cấp quản lý tài
chính ngân sách, phân biệt 2 cấp ngân sách là ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương, tăng thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh trong quyết định ngân sách và phân bổ
ngân sách địa phương hàng năm. Bước đầu thực hiện nguyên tắc công khai tài chính, sử
dụng ngân sách ở các cấp hành chính, các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước,
thực hiện thí điểm và đang nhân rộng dần cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành
chính đối với các cơ quan hành chính và cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp
có thu.
Về hiện đại hóa nền hành chính nhà nước: Đã quy định rõ hơn về nguyên tắc
làm việc và quan hệ phối hợp trong vận hành bộ máy hành chính nhà nước từ Chính phủ,

10


các Bộ đến UBND các cấp; về trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ
quan hành chính, về chế độ giải quyết công việc…
2.1.3. Những bất cập, hạn chế còn tồn tại
Kể từ khi cải cách hành chính được tiến hành, Việt Nam đã có những thay đổi
đáng kể trong quản lý hành chính thông qua việc tư nhân hóa, bãi bỏ nhiều quy định,
khuyến khích đầu tư nước ngoài, giảm bao cấp…Tuy nhiên quản lý hành chính vẫn
không phát triển kịp so với sự phát triển kinh tế – xã hội dẫn đến không giúp nền kinh tế
thị trường phát triển một cách lành mạnh. Những trở ngại nghiêm trọng trong hệ thống
hành chính có thể kể đến như:
-

Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế trong những năm qua mặc dù rất tích cực
và đã làm khá nhiều về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; còn có tính
chắp vá, cục bộ, thiếu ăn khớp, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế

cũ, thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Để tháo gỡ những vướng mắc trên đây thì mấu chốt là hoạt động lập pháp của
chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề khoa học về tổ chức, về quản lý và quản trị
công hay gọi là hành chính công để xây dựng nền hành chính thống nhất, hiệu lực,
hiệu quả phục vụ nhân dân.

-

Các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, phức tạp trong nhiều lĩnh vực hoạt động,
hệ thống các cơ quan hành chính không đồng bộ, chồng chéo, không phù hợp,
mệnh lệnh hành chính và kỷ luật lỏng lẻo.
“Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, với thời gian 872 giờ doanh nghiệp phải bỏ
ra để nộp thuế mỗi năm, Việt Nam đã trở thành nước tốn nhiều thời gian nộp thuế
nhất khu vực. Năm 2014, thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm được 290 giờ,
từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm. Theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị
quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12/3/201 thì năm 2015 phải rút
ngắn thời gian nộp thuế không quá 121,5 giờ/năm. Tuy nhiên, đây vẫn là con số
khá cao Doanh nghiệp vẫn tốn rất nhiều thời gian cho việc nộp thuế thay vì tập
trung kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.”

11


-

Những quy định pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan
hành chính, cũng như của từng cán bộ, công chức; chế độ làm việc tập thể tràn lan,
không rõ trách nhiệm chậm được khắc phục.
“Năm 2014, dịch sởi xảy ra khiến cho 108 trẻ em phải chết, tuy nhiên với tư cách
là người đứng đầu Bộ Y tế- Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn không có trách

nhiệm gì mặc dù đã có nhiều lời kêu gọi từ chức. Hay như, kỳ thi tuyển sinh Đại
học 2015 kéo dài hơn 20 ngày khiến người dân mệt mỏi tốn kém tuy nhiên Bộ
trưởng Phạm Vũ Luận chỉ nhận trách nhiệm thiếu xót. Việc không có những quy
định về pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan khiến
cho người dân chịu nhiều tổn thất, tốn kém tiền bạc của xã hội”

-

Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền địa phương
còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt
động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước.
Chẳng hạn như lĩnh vực điện năng, tập đoàn điện lực Việt Nam là công ty trực
thuộc và chịu sự quản lý của Bộ Công thương có chức năng kinh doanh trong thị
trường điện lực tuy nhiên lại chịu sự quản lý hành chính của Bộ Công thương, chịu
ảnh hưởng bởi nhiều mệnh lệnh hành chính khiến cho giá điện của Việt Nam luôn
ở mức cao, thị trường độc quyền thiếu sự cạnh tranh. Đó là do nhà nước ôm đồm
luôn việc quản lý, sản xuất và kinh doanh khiến thị trường méo mó.

-

Việc triển khai đẩy mạnh phân cấp Trung ương - địa phương vẫn đang còn nhiều
hạn chế, cơ chế giám sát và trách nhiệm giải trình còn mang tính hình thức, chưa
đảm bảo tính răn đe, dẫn đến hiện tượng lạm quyền.

-

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương chưa có sự đổi mới, cải cách đáng kể; về
cơ bản vẫn như cũ, cả 3 cấp tỉnh – huyện – xã đều có HĐND và UBND với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn gần giống nhau, trùng nhau và quá nhiều việc dẫn đến

bộ máy hành chính cồng kềnh.

-

Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp chậm được đổi
mới, chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong Chính phủ và UBND các
cấp mặc dù có nhiều hạn chế, nhược điểm nhưng chậm được thay đổi.
12


-

Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, mặc dù công tác đào tạo bồi dưỡng
những năm qua được tăng cường đáng kể nhưng do nội dung và phương pháp đào
tạo chậm đổi mới một cách cơ bản và do ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công
chức trong việc học tập, bồi dưỡng chưa cao nên nhìn chung trình độ, năng lực
thực tế, nhất là về kiến thức quản lý hành chính và kỹ năng thực thi công vụ, trình
độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, bất cập
trước yêu cầu cải cách, mở cửa, hội nhập hiện nay.
Biên chế càng lớn thì chi thường xuyên càng lớn. Trong bộ máy chúng ta có tới
30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi,
tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều này nói lên
chất lượng của công chức tại Việt Nam, còn có 1 bộ phận không làm việc, không
đóng góp vào sự phát triển của tổ chức nhưng vẫn nhận lương từ Ngân sách”

-

Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ công chức có vi phạm pháp
luật tiến hành chưa thật sự nghiêm minh, thiếu khách quan, công bằng.

“ 80.000 tỷ đồng tương đương khoảng 4,2 tỷ USD, tức là đã bằng khoảng 4% GDP
của cả nước năm 2009. Đó là số nợ của Vinashin hiện nay cho thấy mức độ
nghiêm trọng đến thế nào. Một con số dư nợ khổng lồ của một Doanh nghiệp nhà
nước phát sinh tuy nhiên lại vượt qua được cả một hệ thống thanh tra chính phủ,
kiểm toán chưa kể thanh tra ngành, địa phương. Tuy chưa thể đánh giá ngay được
mức độ thiệt hại về kinh tế nhưng một lần nữa sự kiện này cho chúng ta nhiều bài
học trong quản lý và giám sát”.

-

Cơ chế quản lý ngân sách, tài sản công còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, chưa
khuyến khích tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân thụ
hưởng ngân sách; chưa đổi mới cơ bản theo hướng quản lý dựa trên kết quả đầu ra
như yêu cầu của chương trình cải cách hành chính tổng thể, đồng thời lại tạo nhiều
kẽ hở cho tình trạng lãng phí, tham nhũng phổ biến, tràn lan,….

-

“ Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) ngày 3/12/2014 công bố Chỉ số Cảm nhận
Tham nhũng 2014 (CPI 2014), xếp hạng 175 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xếp hạng
dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và các chuyên gia trong nước về tham
13


nhũng trong khu vực công ở mỗi quốc gia/ vùng lãnh thổ. Theo công bố, Việt Nam
đạt 31/100 điểm, đứng thứ 119 trên bảng xếp hạng toàn cầu và thứ 18 trên tổng số
28 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Mặc dù đã có nhiều cải cách, quy định chế tài nhưng tham nhũng ở Việt
Nam vẫn chưa thay đổi mà mức độ tham nhũng ngày càng tinh vi hơn”.
-


Lòng tin của công chúng vào cơ quan công quyền và sự tham gia của người dân và
các tổ chức xã hội dân sự vào quản lý nhà nước còn hạn chế.

2.2.

Một số giải pháp

Nền hành chính Việt Nam tồn tại khá nhiều bất cập hạn chế dẫn đến yêu cầu cần phải
cải cách mạnh mẽ, sâu rộng dựa trên các nguyên lý cơ bản của quản trị công mới để thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện ở một nước mà mô hình quản trị
công truyền thống còn chi phối nặng nề như nước ta, sẽ có những yếu tố không phù hợp
hoặc khó được chấp nhận. Do đó, chúng ta không thể bê nguyên xi mô hình quản trị công
mới của các nước trên thế giới vào thực tiễn Việt Nam mà chỉ vận dụng các yếu tố tích
cực của mô hình này cho phù hợp với các điều kiện thực tế tại Việt Nam.
-

Áp dụng mô thức quản lý của doanh nghiệp: theo quan điểm của quản trị công
mới, dù là quản lý của khu vực công hay quản lý của khu vực tư nhân, bản chất
của nó tương tự nhau, sự khác nhau chỉ thể hiện ở một số phương diện thứ yếu. Vì
thế, Chính phủ cần thiết phải vận dụng “tinh thần doanh nghiệp” vào tổ chức và
hoạt động của mình, đổi mới văn hóa hành chính; tiếp đó hình thành một nền hành
chính có sinh lực và sức sống, có năng lực thích ứng để góp phần đổi mới nền hành
chính, khắc phục những yếu kém trong hoạt động của nền hành chính, nâng cao
hiệu quả hành chính và cải thiện chất lượng phục vụ công.

-

Thiết lập cơ chế lấy khách hàng làm định hướng: bản chất là vận dụng nguyên tắc
“khách hàng là trên hết”, “khách hàng là tối cao” của thị trường, xem công chúng

là khách hàng của các tổ chức công, tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng, coi sự
hài lòng của khách hàng là mục tiêu trong thực thi nhiệm vụ của nền hành chính.
Việc thiết lập cơ chế" “lấy khách hàng làm định hướng” đã đặt cơ sở cho nghiên
cứu dân chủ hành chính và mô hình nền hành chính phục vụ
14


-

Vận dụng việc quản lý theo kết quả nhưng có sự định hướng mục tiêu: để áp dụng
phương pháp quản lý theo kết quả, buộc nhà quản lý phải có các tiêu chí cụ thể để
đánh giá kết quả đầu ra. Các tiêu chí một mặt để lượng hóa công việc, mặt khác để
đánh giá khối lượng, chất lượng công việc đã hoàn thành, đánh giá khả năng làm
việc của cán bộ, công chức, của bộ máy nhà nước. Một điều chú ý là, các nhà quản
lý cần định hướng các kết quả đầu ra theo mục tiêu nhất định. Do có nhiều phương
pháp để đạt mục tiêu nên nhà quản lý phải có định hướng nhằm tránh những hành
động đạt mục đích bằng mọi giá.

-

Thực hiện hợp tác xã hội, tư nhân hóa một số dịch vụ công: chính phủ cần phải
thực hiện tốt vai trò là “người cầm lái”, vai trò “hoa tiêu” chứ không phải vai trò
“chèo thuyền”. Nhiều chức năng quản lý vốn trước đây do khu vực công đảm
nhiệm, nay cần hợp tác với khu vực doanh nghiệp để thực hiện. Để làm đươc điều
này, khu vực công cần phải đổi mới quan niệm hành chính, không tự cho mình sự
độc quyền đối với các nguồn lực công, trực tiếp thực hiện việc cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ công mà cần áp dụng các hình thức như đấu thầu rộng rãi, quản lý
chất lượng, quản lý mục tiêu để phát huy vai trò của khu vực doanh nghiệp vào
việc tham gia cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công.


-

Thực hiện phân cấp, phân quyền cho địa phương: phân quyền giúp cho cấp trung
ương tập trung thực hiện vai trò hoạch định chính sách, giảm bớt các hoạt động tác
nghiệp; phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, cơ quan
chuyên môn, đơn vị cơ sở, đưa nền hành chính sát hơn với những đặc điểm kinh tế
- xã hội cụ thể. Phân quyền đảm bảo công bằng, phát triển dịch vụ đa dạng, cung
ứng hiệu quả hơn theo hướng công dân là khách hàng sử dụng dịch vụ; phát triển
nền dân chủ, tạo điều kiện cho công dân và các tổ chức của mình tham gia vào các
hoạt động quản trị công và giám sát quá trình thực thi công vụ. Tuy nhiên, khi tiến
hành phân cấp, phân quyền cần có kế hoạch nâng cao năng lực, chuẩn bị đầy đủ
nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, các điều kiện thuận lợi cho chính quyền địa
phương, đơn vị cơ sở. Đồng thời, tăng cường chế độ thông tin, báo cáo và vai trò
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cấp trên, của các cơ quan hữu quan
15


-

Vận dụng cơ chế cạnh tranh: giống như các quy tắc của thị trường, khu vực công
cần phải thông qua thị trường để đạt được các nguồn lực, đồng thời có sự cạnh
tranh với các tổ chức khác. Cần chú trọng vào việc phát triển kỹ thuật thông tin,
coi trọng quản lý và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực hành chính.
Quan trọng hơn là, trong nội bộ nền hành chính cần phải thực hiện một cách rộng
rãi việc đánh giá kết quả hoạt động, hiệu suất quản lý, hiệu suất hoạt động; quy
định rõ ràng mục tiêu công việc; đồng thời, sáng tạo và sử dụng tổng hợp các
phương thức và phương pháp mang tính công cụ để góp phần nâng cao hiệu suất
hoạt động như: đánh giá định lượng về hiệu suất công việc, thực hiện chế độ hợp
đồng làm việc, khen thưởng trực tiếp về vật chất, tiến hành đánh giá kết quả công
việc cuối cùng.


-

Phi quy chế hoá nhằm loại bỏ các “hàng rào” không cần thiết: công khai quy trình
giải quyết công việc và áp dụng cơ chế “một cửa” là một trong những biện pháp
nhằm đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan công quyền với công dân, tổ chức; tạo sự
liên thông giữa các cơ quan chức năng trong phối hợp công tác, xử lý công việc
nhanh chóng, rõ trách nhiệm từng khâu; giúp cơ cấu lại tổ chức bộ máy hợp lý hơn.
Đồng thời phải xóa bỏ cơ chế xin cho đã ăn sâu vào nhận thức người dân sẽ là một
bước đột phá trong cải cách hành chính. Cần luật hoá các quy định liên quan đến
thủ tục hành chính.

-

Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức: việc tuyển dụng cán bộ, công
chức ngoài các phương pháp truyền thống, có thể áp dụng phương pháp tuyển
dụng theo vị trí việc làm. Đó là mô tả yêu cầu, tiêu chuẩn đối với từng vị trí, chức
danh để tuyển chọn người đảm nhiệm có phẩm chất, năng lực phù hợp nhất, sử
dụng “đúng người, đúng việc”. Đồng thời phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng
thường xuyên để cán bộ, công chức không bị lạc hậu với thời đại và tiếp cận nhiều
hơn kiến thức mới. Mỗi công chức phải tích cực học tập, nâng cao hiệu quả hoạt
động, đổi mới tư duy, tác phong phục vụ và cải tiến lề lối làm việc thì công cuộc
cải cách hành chính ở nước ta mới đạt hiệu quả.

16


-

Kiểm soát tham nhũng: lương thấp và sự xuống cấp đạo đức trong các cơ quan Nhà

nước góp phần làm tăng tham nhũng ở Việt Nam. Chống tham nhũng là một việc
quan trọng trong cải cách khu vực công do đó Việt Nam cần thiết lập một cơ quan
chống tham nhũng độc lập, cơ quan này sẽ nhận và điều tra các khiếu nại tố cáo
tham nhũng của người dân. Cơ quan chống tham nhũng chỉ hành động theo pháp
luật và được trao đủ quyền điều tra, truy tố bất kỳ một thành viên cấp cao nào
trong Đảng và chính phủ mà không chịu bất cứ sự can thiệp nào.

-

Mở rộng quan hệ quốc tế trong vấn đề cải cách hành chính: trong xu hướng toàn
cầu hóa, nhiều nước đã điều chỉnh hệ thống thể chế, thủ tục hành chính cho phù
hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu,
rộng vào nền kinh tế quốc tế. Do đó, một mặt nền hành chính cần gìn giữ, phát huy
các giá trị, truyền thống quý báu trong lịch sử dựng nước, giữ nước và trị quốc của
cha ông ta. Mặt khác, tiếp thu có chọn lọc các tri thức phát triển hành chính của
nhân loại; đúc rút kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng nền hành chính chuyên
nghiệp với cơ cấu vị trí việc làm được thiết kế theo nhu cầu thực tế từng cơ quan,
đơn vị.

17


KẾT LUẬN
Quản trị công mới có ý nghĩa sâu sắc trong việc xác định bản chất của quản lý Nhà
nước và hoạch định chính sách ở các nước trên thế giới. Quản trị công mới đã tạo ra một
nền “văn hóa doanh nghiệp” cho khu vực công với mục đích rõ ràng, với chiến lược tốt,
lấy người dân làm trung tâm, xác định rõ trách nhiệm và quyền của người công chức.
Quản trị công mới cũng đảm bảo sự trung thực và tính trung lập trong quản lý công. So
với hầu hết các nước phương Tây, Việt Nam ít được thể chế hóa, hệ thống cơ quan công
quyền cũng ít trung lập và dễ bị ảnh hưởng bởi chính trị.

Việc áp dụng kinh nghiệm và bài học thực tế từ nước này sang nước khác không
phải là việc dễ dàng bởi nó không chỉ đơn giản chỉ là sao chép mô hình mà còn phải xem
xét kỹ các yếu tố đặc thù của mỗi quốc gia. Việt Nam đã thực hiện một số cải cách như
tinh giản biên chế, tư nhân hóa và xóa bỏ nhiều quy định bất hợp lý trong lĩnh vực hành
chính. Điều này tạo cơ sở cho việc áp dụng các nguyên lý cơ bản của quản trị công trong
tương lai.
Cải cách hành chính trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những thành công đáng
ghi nhận, tuy nhiên hoạt động của Nhà nước và nền hành chính quốc gia vẫn còn nhiều
điểm bất cập. Nếu duy trì quá lâu tình trạng này sẽ tạo ra tác động kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Trước yêu cầu phát triển sâu hơn nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, yêu cầu hội nhập mạnh mẽ và toàn diện, công cuộc cải cách hành
chính đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Để vượt qua những thách thức
này, cải cách hành chính trong giai đoạn mới cần phải có những thay đổi hết sức sâu sắc
cả về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, của bản thân hệ thống thể chế
hành chính, của cơ cấu hệ thống tổ chức hành chính và đội ngũ công chức hành chính...
Việc thực hiện những phương hướng mới trong cải cách hành chính như đã phân tích ở
trên là hết sức cần thiết. Với những thành công đã đạt được và quyết tâm to lớn của cả hệ
thống chính trị, chắc chắn cải cách hành chính trong giai đoạn tới sẽ thu được những
thành công to lớn, góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh,
mạnh, vững chắc nền kinh tế - xã hội của nước ta.
18



×