Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận cao học Vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói giảm nghèo của việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.23 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nghèo đói là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên
thế giới đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam
đều phải quan tâm và tìm cách giải quyết.Việc tấn công vào nghèo đói là
một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của nước ta. Đại Hội VII của Đảng đã xác định xoá đói giảm nghèo
là một trong `những chương trình kinh tế xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa
cơ bản lâu dài. Đồng thời việc xoá đói giảm nghèo đòi hỏi cũng phải có
những chính sách thích hợp thì mới đạt được hiệu quả. Những chính sách mà
nhà nước đưa ra không những góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn góp
phần phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống người nghèo để giúp họ
thoát khỏi cảnh nghèo đói. Khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN, công tác giảm nghèo là một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao
giờ hết và những chính sách của nhà nước càng có ý nghĩa nhiều hơn nữa
đối với công tác giảm nghèo. Trong những năm qua, xóa đói giảm nghèo là
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa
các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xóa đói giảm
nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và
thực hiện công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Để bảo đảm công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện tốt, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội – những bộ phận nòng cốt
của hệ thông chính trị nước ta phải đưa ra những chủ trương, đường lối,
chính sách và tổ chức quản lý, thực hiện tích cực, chủ động và hiệu quả.


Từ đó, tôi quyết định chọn vấn đề “Vai trò của hệ thống chính trị đối
với công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu


- Mục tiêu chung: Tìm hiểu, phân tích, đánh giá vai trò của hệ thống
chính trị và tác động của các chủ trương, chính sách đối với công tác xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Phân tích vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói
giảm nghèo thông qua các chủ trương chính sách và cách thức tổ chức quản
lý thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo.
+ Đánh giá hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo.
+ Đưa ra các giải pháp thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tích
cực, hiệu quả và bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối với đề tài này thì đối tượng cần nghiên
cứu là vai trò của hệ thống chính trị đối với công tác xóa đói giảm nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu
công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay


NỘI DUNG
1- Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1- Cơ sở lý luận
1.1.1- Quan điểm chung về hệ thống chính trị ở Việt Nam
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp
trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội được liên kết với nhay trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác
động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế
độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp nhà
nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ
thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ

chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
1.1.2- Những quan niệm chung về đói nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu.
Nó không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn


tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tuỳ thuộc
vào điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi
quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau.
Nhìn chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ
nghèo khổ và đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới hạn nghèo khổ.
Giới hạn nghèo khổ của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối
thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia
đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc,
ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói
nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo
định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau.

Theo số liêu của ngân hàng thế giới thì hiện nay trên thế giới có khoảng 1,3
tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của
nhân dân trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như
sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào
đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn
phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.


Ở Việt Nam thì nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo
tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi
lại...
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang
xét.
- Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có
những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và
một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
- Khái niệm về hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt
bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ.
- Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia

đình chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo.
* Xã nghèo là xã có những đặc trưng như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xã.
- Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như:
Điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm ytế và nước sinh hoạt.
- Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
* Khái niệm về vùng nghèo:
Vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số xã liền kề
nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông


không thuận tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản
xuất đảm bảo cuộc sống và là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.
1.2- Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay
Xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những mục tiêu trọng tâm
trong mối quan tâm chung của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Trong
thực tế, hoạt động giảm nghèo đã đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng còn
không ít khó khăn, thách thức cần vượt qua để thực hiện Mục tiêu thiên niên
kỷ của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã cam kết.
Việt Nam là một trong những nước thành công về quá trình phát triển
kinh tế và giảm nghèo. Thành tích của Việt Nam về tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo trong hai thập niên qua là rất lớn. Việt Nam từ một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người dưới 100 đô
la Mỹ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, với thu nhập đầu
người 1.200 đô la Mỹ như hiện nay…
Được biết, trong “Báo cáo "Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn
thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách
thức mới" của Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng ghi nhận: Trong

vòng 20 năm (1990-2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60%
xuống còn 20,7% với khoảng hơn 30 triệu người thoát nghèo. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng đạt được thành tựu ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ nhập
học ở bậc tiểu học của người nghèo là trên 90% và ở bậc trung học cơ sở là
70%. Trình độ học vấn tăng và sự đa dạng hóa các hoạt động phi nông
nghiệp, cơ hội làm việc ở công trường, nhà máy... cũng đóng góp tích cực
cho công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam .
Không chỉ Ngân hàng thế giới mà nhiều nước và tổ chức quốc tế khác
cũng đánh giá cao, coi Việt Nam là "một điểm sáng thành công" trong xóa


đói giảm nghèo. Mới đây, tại Italia, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc
(FAO) đã tổ chức "Công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói
giảm nghèo" cho 38 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đồng thời,
Việt Nam cũng nằm trong nhóm 18 quốc gia được trao bằng khen chứng
nhận việc sớm đạt được Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ 1 (MDG 1) hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015”
[ />Có thể khẳng định rằng, công tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam là
nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị, đúng đắn, hợp lòng dân, phù hợp với
xu hướng chung của thế giới. Mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó
khăn nhưng Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong
những mục tiêu quan trọng. An sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong
những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ những năm
qua. Những thành tựu có được trong xóa đói giảm nghèo là nhờ nỗ lực
chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp không
nhỏ của các doanh nghiệp, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội và các cá
nhân.
Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta đã giảm một cách tích cực. “Tính đến năm
2012, đã có 500 nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt
người được hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được
cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo và các huyện nghèo giảm nhanh, hoàn thành vượt

mục tiêu Quốc hội đề ra từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 9,6% (năm 2012).
Thông qua thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã,
thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống còn 28,8%
(năm 2010), thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệu đồng/người/năm. Tỷ
lệ các xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản


lên tới 80,7%. 2,2 triệu hộ được hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; xây dựng
được 6.834 mô hình phát triển nông, lâm, ngư nghiệp... Sau gần 4 năm thực
hiện, tỷ lệ hộ nghèo ở 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a đã giảm từ
58,33% (năm 2010) xuống còn 43,89% (năm 2012), bình quân giảm trên
7%/năm. Các địa phương đã hỗ trợ 1.340 lao động ở các huyện nghèo đi
xuất khẩu lao động, nâng tổng số lao động xuất khẩu lao động qua gần 4
năm lên gần 8.500 người. Các địa phương còn tổ chức đào tạo nghề cho hơn
10.000 lao động nghèo để tạo việc làm tại chỗ, ngoài địa bàn hoặc tham gia
xuất khẩu lao động. 225 nghìn hộ được vay vốn với tổng số tiền 1.122 tỷ
đồng với lãi suất ưu đãi để chăn nuôi gia cầm, gia súc, phát triển ngành
nghề...”
[ />m-ngheo-tai-viet-nam-con-nhieu-thach-thuc.aspx]
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn
thiện hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghèo. Nhiều nghị quyết, chỉ thị,
chiến lược, quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm
nghèo đã được ban hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất
nước. Các chương trình, chính sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội) và sự vươn lên của chính người nghèo...,
tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn lực của Nhà nước thực hiện hiệu quả
công tác có ý nghĩa xã hội sâu sắc này. Kết quả tích cực của công cuộc xóa
đói giảm nghèo đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội, an sinh xã hội cho người dân vùng đặc biệt khó khăn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Chương trình giảm
nghèo bền vững vẫn còn những hạn chế, cần tập trung khắc phục: Tỷ lệ giảm
nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách giàu - nghèo giữa các


vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do nhiều cơ chế,
chính sách được ban hành còn chồng chéo dẫn đến việc thực hiện phân bổ,
hiệu quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; nhiều địa phương còn trông chờ, ỷ
lại vào Nhà nước mà chưa tự lực vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, một số
cơ chế, chính sách hiện còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn nhưng việc
sửa đổi, bổ sung còn chậm; công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận
thức về giảm nghèo chưa được tổ chức thường xuyên.
“Mục tiêu đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm
(từ 9,6% xuống còn 7,6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm
bình quân 5%/năm (từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2013); đến
cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn dưới 5% theo chuẩn
nghèo hiện hành; tỷ lệ nghèo các huyện còn dưới 30%”
[ />m-ngheo-tai-viet-nam-con-nhieu-thach-thuc.aspx]
2- Vai trò của hệ thống chính trị đôi với công tác xóa đói giảm
nghèo ở nước ta hiện nay.
2.1- Quan điểm về công tác xóa đói giảm nghèo
Theo Nghị quyết về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo Số 30a/2008/NQ-CP:
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước
và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã
hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa
phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo,
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà
nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của



người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa
đói giảm nghèo.
Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là
nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền,
sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng
thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế
hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung
trong cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ
trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh
thần của Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn
thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào
dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu
tư hỗ trợ các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.
Mục tiêu nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất,
tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện
nghèo, bảo đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực.
Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất
hàng hóa, khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội phù với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây
dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được
nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh,
quốc phòng.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40%
(theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8



tháng 7 năm 2005); cơ bản không còn hộ dân ở nhà tạm; cơ bản hoàn thành
việc giao đất, giao rừng; trợ cấp lương thực cho người dân ở những nơi
không có điều kiện tổ chức sản xuất, khu vực giáp biên giới để bảo đảm đời
sống. Tạo sự chuyển biến bước đầu trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát
triển nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, đẩy mạnh một bước xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tăng cường nghiên cứu và chuyển
giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực;
triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới; tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 25%.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang
bằng mức trung bình của tỉnh. Tăng cường năng lực cho người dân và cộng
đồng để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu
tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên; bước đầu phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô
nhỏ và vừa, người dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu
thụ sản phẩm một cách thuận lợi; lao động nông nghiệp còn dưới 60% lao
động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt
trên 40%.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang
bằng mức trung bình của khu vực. Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc
làm, thu nhập để nâng cao đời sống của dân cư ở các huyện nghèo gấp 5 – 6
lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội,
tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%; số
xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới
tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện



tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt 4
mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được
quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều
kiện học tập; chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
2.2 – Vai trò của hệ thống chính trị với công tác xóa đói giảm
nghèo
2.2.1 – Đảng và Nhà nước
Trong lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đề ra và chỉ
đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách giúp người dân phát triển kinh
tế, cải thiện cuộc sống, vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Từ Đại hội VII (năm
1991), xóa đói, giảm nghèo đã trở thành Chương trình mục tiêu quốc gia,
đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VII) đã đặt ra nhiệm vụ ưu tiên xóa
đói, giảm nghèo cho các hộ gia đình "vùng đồng bào các dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng"
Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng
đầu trong đường lối, chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 được Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XI thông qua tháng 1/2011 với mục tiêu tổng
quát: Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Do
đó, các chương trình và chính sách giảm nghèo của Chính phủ đã được xây
dựng tập trung trên ba chiến lược chính:
Thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập cho
người nghèo, tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ
xã hội, tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức của người dân.


Những chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc

gia hỗ trợ giảm nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5 nhóm
chính sách: Tín dụng, phát triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo
dục và y tế. Nhờ đó, người nghèo được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất
sản xuất, công nghệ, thị trường) và các dịch vụ xã hội cơ bản.
Tính đến năm 2010, có hơn 77% người nghèo được hưởng lợi từ các
chương trình và chính sách hỗ trợ của Chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập
chính sách rộng khắp trên cả nước.
2.2.2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Với vai trò là trung tâm đoàn kết, tập hợp các lực lượng, Mặt trận Tổ
quốc các cấp đã giúp các địa phương thực hiện hoàn thành nhiều phong trào,
mục tiêu quan trọng, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo.
Mặt trận Tổ quốc là tổ chức đoàn thể, cầu nối giữa Đảng với quần
chúng nhân dân đã phát huy có hiệu quả vai trò của mình, góp phần tích cực
vào chương trình “Xóa đói giảm nghèo” và đảm bảo an sinh xã hội. Ủy Ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì, phối hợp với các tổ chức
thành viên chỉ đạo các cấp hội cơ sở tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận
động hội viên và toàn dân hưởng ứng, tham gia các cuộc vận động hỗ trợ
giúp đỡ các huyện nghèo, giảm nghèo nhanh và bền vững như phong trào
ngày vì người nghèo, phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa khu
dân cư …, xây dựng nông thôn mới; động viên, khích lệ tính tự chủ của
người dân vươn lên thoát nghèo.
2.3 – Tổ chức thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo
2.3.1 – Các Bộ, Cơ quan Trung ương
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực các
Chương trình giảm nghèo, chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan tổ chức
thực hiện, theo dõi, đánh giá hiệu quả của Chương trình; xây dựng đề án


xuất khẩu lao động; trình, ban hành chính sách hỗ trợ học nghề và xuất khẩu
lao động ở các huyện nghèo; chỉ đạo ưu tiên đầu tư các cơ sở dạy nghề, tổ

chức đào tạo nghề gắn với việc làm và xuất khẩu lao động.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo thực
hiện các Chương trình giảm nghèo thành lập các tổ công tác liên ngành để
thẩm tra các đề án của 61 huyện nghèo trong quý I năm 2009; chủ trì, phối
hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về đầu tư, đấu thầu phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực
hiện ở các huyện nghèo; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính cân đối vốn đầu
tư phát triển hàng năm cho các huyện nghèo.
3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội và các Bộ liên quan phân bổ vốn sự nghiệp
cho các huyện nghèo; nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan
sửa đổi cơ chế tài chính phù hợp với tình hình đặc thù và năng lực tổ chức
thực hiện ở các huyện nghèo.
4. Ủy ban Dân tộc chủ trì, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện và xây
dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách hiện hành theo hướng nâng cao định
mức các chương trình, chính sách dân tộc hiện có (Chương trình 135, trung
tâm cụm xã, Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, Quyết định số 32/2007/QĐTTg, Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, chính sách trợ giá trợ cước và Đề án
phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số) đồng thời bổ sung
thêm cơ chế, chính sách đặc thù cho 61 huyện nghèo trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các
Bộ liên quan chỉ đạo, hướng dẫn việc quy hoạch sản xuất ở các huyện
nghèo; quy hoạch bố trí dân cư; chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa


bàn các huyện nghèo; hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách đã có,
nhất là các chính sách về sản xuất nông, lâm, ngư kết hợp.
6. Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Y tế và các
địa phương liên quan tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho y, bác sĩ, cán bộ y tế cơ sở cho các xã thuộc huyện

nghèo, xây dựng trạm xá quân dân y kết hợp; phối hợp với Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vận động thanh niên, trí thức trẻ
tình nguyện đến công tác tại các xã thuộc huyện nghèo, các khu kinh tế quốc phòng, để tạo nguồn cán bộ cho địa phương; chỉ đạo lực lượng Bộ đội
Biên phòng, các đoàn kinh tế quốc phòng, các lực lượng an ninh tham gia
xây dựng các công trình hạ tầng; xây dựng trường nghề để đào tạo nghề đối
với bộ đội xuất ngũ và lao động của địa phương; tổ chức các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, giúp dân xây dựng nếp sống mới, bảo đảm an ninh trật tự và
an toàn xã hội trên địa bàn.
7. Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ nghiên cứu, sửa đổi pháp
luật về xây dựng phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các
huyện nghèo; cùng với Ủy ban Trung ương Mặt trật Tổ quốc Việt Nam chỉ
đạo, hướng dẫn, bố trí vốn giải quyết cơ bản nhu cầu nhà ở cho hộ nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số từ nay đến năm 2010 trên địa bàn các huyện
nghèo.
8. Bộ Giao thông vận tải rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy định quy
hoạch phát triển giao thông trên địa bàn các huyện; ưu tiên bố trí nguồn vốn
để đầu tư các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ và đường giao thông đến trung
tâm xã phục vụ phát triển kinh tế và đời sống trên địa bàn các huyện nghèo.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan
trình, ban hành chính sách ưu đãi đối với giáo viên, học sinh; chỉ đạo ưu tiên


bố trí nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đến năm 2010 cơ bản hoàn thành
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học đạt tiêu chuẩn.
10. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành
chính sách ưu đãi về y tế; chỉ đạo bố trí nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để
đến năm 2010 hoàn thành dự án đầu tư xây dựng bệnh viện huyện và bệnh
viện đa khoa khu vực, các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; tăng cường chỉ
đạo công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình để nâng cao chất lượng dân số.
11. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành

chính sách luân chuyển, tăng cường cán bộ chủ chốt cho các xã thuộc huyện
nghèo; chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút trí thức trẻ, cán bộ chuyên
môn kỹ thuật về làm việc tại các xã của các huyện nghèo.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính
và các Bộ liên quan trình, ban hành chính sách tín dụng ưu đãi đối với các
hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trên các địa bàn huyện nghèo.
13. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban
hành chính sách khuyến công, chính sách thu hút đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp và hướng dẫn xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản
phẩm của các huyện nghèo.
14. Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất các cơ chế, chính sách chuyển
giao công nghệ, nghiên cứu phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có hiệu
quả, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương.
15. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan trình, ban hành
chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm
nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.
2.3.2- Các địa phương


1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh có huyện nghèo, căn cứ Nghị
quyết về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo Số 30a/2008/NQ-CP tổ chức phê duyệt Đề án của các huyện
nghèo; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình, bố trí đủ vốn đầu tư cho các huyện
nghèo trong tổng mức vốn được phê duyệt; chỉ đạo xây dựng và phê duyệt
kế hoạch hàng năm của các huyện nghèo; hàng năm tổ chức giám sát, đánh
giá kết quả thực hiện, gửi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổng hợp
báo cáo Chính phủ.
2. Ủy ban nhân dân các huyện nghèo căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ,

cơ chế chính sách, định mức, tiêu chuẩn của Nhà nước để xây dựng Đề án
hỗ trợ giảm nghèo bền vững trên địa bàn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
chỉ đạo xây dựng kế hoạch hàng năm, tổng hợp nhu cầu từ dưới lên, sắp xếp
theo thứ tự ưu tiên, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt; chỉ đạo và phê
duyệt kế hoạch hàng năm của cấp xã; thành lập Ban Chỉ đạo của huyện (gồm
lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đại diện các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp)
để chỉ đạo tổ chức thực hiện Đề án.
3. Ủy ban nhân dân các xã xây dựng kế hoạch hàng năm có sự tham
gia của người dân trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt và tổ chức thực
hiện.
[Nghị quyết Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo
/>ItemID=12476]
2.3.3- Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo
*Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo:


- Mục tiêu: cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo(3,5-4 triệu hộ)
có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh với lãi suát thấp, không phải thế
chấp cho ngân hàng.
- Nội dung: đưa tổng vốn vay của ngân hàng phục vụ người nghèo lên
10000 tỷ đồng vào năm 2005(chủ yếu là huy động cộng đồng và vay các tổ
chức tín dụng ngân hàng, Nhà nước cấp bù lãi suất chênh lệch huy động và
cho vay 750 tỷ đồng trong 5 năm) và cho khoảng 5 triệu lượt hộ vay với
mức bình quân từ 2-3 triệu/hộ. Đảm bảo vốn vay đúng đối tượng, sử dụng
đúng mục đích, hiệu quả và tài chính lành mạnh.
* Chính sách hỗ trợ người nghèo về ytế.
- Mục tiêu: trợ giúp người nghèo trong khám chữa bệnh bàng các hình
thức nhu mua thẻ BHYT, cấp thẻ và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn
phí, khám chữa bệnh từ thiện nhân đạo... Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho

người nghèo.
- Nội dung:
+ Cung cấp trang thiết bị, cung ứng thuốc cho tuyến ytế cơ sở ở các
huyện nghèo, khuyến khích và tăng cường cán bộ ytế cơ sở để nâng cao chất
lượng phục vụ.
+ Bảo đảm tài chính để hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo
thông qua điều chỉnh, phân bố ngân sách ytế giữa các tỉnh, điều tiết và điều
chỉnh các mức thu viện phí giữa người giàu, người có khả năng kinh tế
,người nghèo...
+ Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho
người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, bữa ăn nhân đạo, khám chữa bệnh
nhân đạo, khuyến khích các đội ytế lưu động phục vụ vùng cao, vùng sâu,
biên giới hải đảo, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh,


tự bảo vệ chăm lo sức khoẻ và chia sẻ một phần kinh phí trong khám chữa
bệnh.
* Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục
- Mục tiêu: Bảo đảm cho con em tất cả các hộ nghèo có các điều kiện
cần thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về môi trường trong học tập và
sinh hoạt trong các nhà trường ở thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và
miền núi, giữa vùng khó khăn với vùng có điều kiện phát triển.
- Nội dung:
+ Miễn giảm học phí và các khoản đòng góp xây dựng trường, lớp, hỗ
trợ vở viết sách giáo khoa, cấp học bổng cho học sinh tiểu học loại quá
nghèo, khuyến khích học sinh nghèo học khá, học giỏi băng các giải thưởng,
học bổng và các chế độ ưu đãi khác.
+ Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở các
trường dân tộc nội trú để đào tạo các cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn.
+ Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp người

nghèo nâng cao trình độ học vấn, tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp để
xoá mù chữ và ngăn chặn tình trạng tái mù như các lớp bổ túc văn hoá, lớp
học tình thương, lớp học chuyên biệt.
* Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Mục tiêu: Hỗ trợ các gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn có
số dân nhỏ hơn 10000 người nhằm ổn định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản
xuất, thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu, từng bước hướng dẫn đồng bào
dân tộc tiếp cận phương thức sản xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát
huy bản sắc dân tộc, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững.
- Nội dung:


+ Hỗ trợ các đồngbào dân tộc đặc biệt khó khăn ổn định cuộc sống,
lương thực cứu đói, quần áo chống rét, chăn màn, dụng cụ gia đình, hỗ trợ
làm giếng nước hoặc nước tự chảy cho 1 nhóm hộ gia đình.
+ Hỗ Trợ các gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất để
tự đảm bảo cuộc sống.
+ Về nông nghiệp: Chọn và đưa giống cây mới có năng suất cao cho
đồng bào, khuyến khích thâm canh tăng vụ lúa nước, lúa nương. Tăng cưòng
và khuyến khích phát triển đàn gia súc, gia cầm, vật nuôi phù hợp với trình
độ của các hộ gia đình. Hưóng dẫn kỹ thuật, khuyến khích khai hoang ruộng
đồng, mở rộng diện tích canh tác.
+ Về lâm nghiệp: Hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, hỗ trợ công cụ sản
xuất, thuốc bảo vệ thực vật, mở rộng diện tích trồng rừng, trồng cây công
nghiệp, vườn đồi tập làm kinh tế VAC.
* Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo.
- Mục tiêu: Tạo điều kiện cho người nghèo nắm được những kiến thức
phổ thông về pháp luật để phát huy được vai trò của mình trong đời sống
kinh tế-xã hội. Nhận thức được đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của mình
trong gia đình và xã hội.

- Nội dung:
+ Ban hành pháp lệnh về trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn
thực thi pháp luật.
+ Phát hành sổ tay trợ giúp pháp lý cho các chuyên viên và cộng tác
viên, phát hành tờ gấp pháp lý để hỗ trợ cho các tỉnh để tuyên truyền, phổ
biến và giải đáp pháp luật.
+ Tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ trợ giúp pháp lý cấp TW, tỉnh,
huyện, xã.
+ Trợ giúp pháp lý ở 61 tỉnh thành, trợ giúp các vụ việctư vấn pháp lý.


* Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.
- Mục tiêu: Hỗ trợ trực tiếp cho những người bị rủi ro do thiên tai, bão
lụt, để ổn định cuộc sống. Hỗ trợ nhóm người yếu thế(người già cô đơn
không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn
tật...) ổn định cuộc sống, từng bước hoà nhập xã hội .
- Nội dung:
+ Trợ giúp các đối tượng yếu thế (có khả năng làm việc) về học nghề,
toạ việc làm, tự đảm bảo cuộc sống.
+ Hỗ trợ các vùng thiên tai phải di chuyển nhà, hỗ trợ điều kiện sản
xuất để sớm ổn định cuộc sống.
+ Trợ giúp di dân kịp thời, hỗ trợ cứu đói, hỗ trợ sửa chữa nhà đổ, sập,
trôi, hư hỏng nặng, hỗ trợ gia đình có người chết, bị thương.
+ Trợ cáp xã hội thường xuyên cho các đối tượng thuộc diện trợ cấp
xã hội có hoàn cảnh khó khăn, nuôi dưỡng các đối tượng đặc biệt khó khăn.
* Dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng:
- Mục tiêu: phát triển hạ tầng cơ sở cho các xã đặc biệt khó khăn, xã
biên giới, hải đảo, ven biển. Phấn đấu đến năm 2005 cơ bản hoàn thành các
công trình cơ sở hạ tầng thiếtyếu như: thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm ytế,
nước sinh hoạt, điện, đường giao thông, chợ; xây dựng các trung tâm cụm xã

thành các thị tứ và trở thành nơi giao lưu văn hoá của nhân dân trong vùng
tạo điều kiện cho người nghèo trong vùng tiếp cận được cácdịch vụ xã hội
cơ bản trong vùng. Mỗi năm bình quân các xã đặc biệt khó khăn có thêm 1
công trình.
* Hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông-lâm-ngư, chuyển giao công
nghệ, hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn.
- Mục tiêu:


+ Trong 5 năm đào tạo 5000 cán bộ khuyến nông tỉnh, tập huấn
khoảng 2,5 triệu lượt hộ nghèo cách làm ăn.
+ Xây dựng và chuyển giao các mô hình hỗ trợ sản xuất, phát triển
ngành nghề, định canh, định cư,di dân và kinh tế mới, phòng ngừa và giảm
nhẹ rủi ro, thiên tai cho người nghèo trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
phù hợp với từng vùng.
+ Hỗ trợ phát triển, xây dựng mô hình chế biến, bảo quản nông- lâm
sản và nghề phi nông nghiệp.
* Dự án định canh, định cư, di dân, kinh tế mới
- Mục tiêu: Tiếp tục thực hiện phân bố dân cư, giải quyết việc làm, di
dân xây dựng kinh tế mới nhằm thực hiện phát triển kinh tế xã hội và xây
dựng nông thôn mới, chấm dứt tình trạng du canh, du cư, hoàn thành cơ bản
định canh, định cư. Sắp xếp ổn định di dân tự do và tiến tới kiểm soát và
chấm rứt tình trạng di dân tự do.
* Dự án hỗ trợ người nghèo về văn hoá thông tin
Mục tiêu: Hỗ trợ người nghèo cải thiện đời sống tinh thần, giúp người
nghèo có được thông tin về kinh tế -xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống
của họ và từng bước tiếp cận với đời sống văn hoá mới và duy trì văn hoá
truyền thống. Đến năm 2005 xoá bỏ toàn bộ các xã trắng về hoạt động văn
hoá , những hộ nghèo đều được với văn hoá thông tin.
* Dự án đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác

xoá đói giảm nghèo
Mục tiêu: Trang bị kiến thức và chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, nội dung chương trình xoá đói giảm nghèo, những kỹ năng cơ
bản trong tổ chức thực hiện và quản lý chương trình , những kiến thức cơ
bản đối với đội ngũ cán bộ xoá đói giảm nghèo ở cấp xã về xây dựng kế


hoạch, dự án và tổ chức triển khai thực hiện trên địa bàn nhằm nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ này.
[Các hoạt động của chương trình xoá đói giảm nghèo
/>3. Một số biện pháp đẩy mạnh hiệu quả của công tác xoá đói,
giảm nghèo
Giải pháp cơ bản và tổng thể về xoá đói, giảm nghèo là sớm hình
thành đồng bộ và thực hiện tốt hệ thống thể chế kinh tế, xã hội để thúc đẩy
sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cụ thể, để khắc phục những hạn chế trên, cần đảm bảo thực
hiện tốt các biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục phân cấp triệt để cho địa phương trong thực hiện
các chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm sự hài hòa giữa trách
nhiệm đi đôi với quyền hạn; các bộ, ngành tập trung vào xây dựng cơ chế,
chính sách, xây dựng tiêu chí, tạo nguồn lực, đào tạo cán bộ, hướng dẫn và
giám sát đánh giá; việc huy động nguồn lực tại chỗ và tổ chức thực hiện là
trách nhiệm của xã, huyện và tỉnh. Phát huy sáng kiến, năng động của địa
phương, vai trò của các đoàn thể và người dân trong quá trình thực hiện.
Thứ hai, đối với 35 huyện miền núi nghèo nhất cần đưa vào kế
hoạch đầu tư tập trung. Kinh nghiệm của Trung Quốc giải quyết vấn đề
này rất thành công. Ở nước ta, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Yên
Bái... cũng đang có xu hướng giải quyết như trên. Đối với vùng đồng bào
dân tộc ở Tây Nguyên, vận động và giao nhiệm vụ cho các lâm, nông
trường quốc doanh; các đơn vị kinh tế của quân đội; làng kinh tế thanh



niên giúp đồng bào với các hình thức phù hợp. Cần phát huy được vai trò
của người dân địa phương tham gia vào quá trình thực hiện dự án, tạo nên
sự liên kết vững chắc giữa chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể
và người dân... Đây là cơ sở quan trọng để giảm thiểu tình trạng tái nghèo
đang diễn ra tại nhiều địa phương.
Thứ ba, cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn lực theo
hướng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phương; có chính sách phù
hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào miền núi, nhất là ưu đãi về đất,
thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, tạo lực mạnh
về tài chính cho các vùng nghèo.
Thứ tư, đổi mới hệ thống cơ chế quản lý theo hướng phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương. Tăng
cường năng lực và thẩm quyền trong quản lý và điều hành thực hiện
chương trình cho tỉnh; làm rõ quyền và trách nhiệm của người nghèo, hộ
nghèo, xã nghèo, khắc phục tư tưởng ỷ lại. Xây dựng cơ chế khuyến khích
hộ, xã tự lực vươn lên thoát nghèo và huy động, sử dụng vốn có hiệu quả.
Để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, cần khuyến khích làm giàu, tạo điều
kiện cho mọi người có khả năng đều hăng hái đầu tư, sản xuất, kinh doanh,
làm giàu một cách chính đáng
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức
của người dân; Coi trọng công tác cán bộ trong xoá đói, giảm nghèo.
Trong công tác này, công tác cán bộ, nhất là những cán bộ trực tiếp lãnh
đạo công tác xóa đói, giảm nghèo có vai trò quyết định; nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, cán bộ chuyên trách làm công
tác giảm nghèo, cán bộ khuyến nông; tiếp tục duy trì cán bộ chuyên trách


làm công tác xóa đói, giảm nghèo, cán bộ khuyến nông ở xã nghèo. Thiết

lập hệ thống theo dõi, giám sát, đánh giá ở cả 4 cấp, bảo đảm tính khách
quan, khoa học, góp phần chỉ đạo chương trình có hiệu quả hơn.
Thứ sáu, kiên quyết chống bệnh hình thức và bệnh thành tích trong
xoá đói, giảm nghèo. Chúng ta đều biết xoá đói, giảm nghèo phải đi liền
với tiết kiệm, chống lãng phí; nhưng trên thực tế do bệnh hình thức và
bệnh thành tích nên những người tổ chức lại thích phô trương, gây lãng phí
về công sức và tiền của.

C- KẾT LUẬN
Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không
dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành
lao động - xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành
công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi tổ chức, cá nhân đều phải quan
tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự
tham gia của toàn thể cộng đồng.
Đói nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội; xoá đói giảm nghèo là trách
nhiệm của mọi người. Giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo gồm nhiều lĩnh
vực không chỉ là kinh tế mà cả văn hoá, y tế , giáo dục. Bắt nguồn từ thực
trạng nghèo đói và ý thức muốn vươn lên nghèo đói mà Đảng và nhà nước ta
đã đề ra nhiều biện pháp có hiệu quả trong quá trình thực hiện xoá đói giảm
nghèo. Những chuyển biến tích cực của công tác này là tiền đề có ý nghĩa
quan trọng để đấy mạnh kinh tế ngày càng phát triển trong những giai đoạn


×