Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ - XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN AN LÃO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.92 KB, 101 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Dân vận Huyện uỷ
Ban Tổ chức Huyện uỷ
Ban Tổ chức Thành uỷ
Ban Tuyên giáo Huyện uỷ
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp, dịch vụ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mặt trận Tổ quốc
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
Tổ chức Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng
Trong sạch vững mạnh
Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban Kiểm tra Huyện uỷ
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BDV HU
BCTHU
BCTTU
BTGHU
DN
DNNNN
CNXH
CN, DV


CNH, HĐH
MTTQ
NLLĐ, SCĐ
TCĐ
TCCSĐ
TSVM
UBND
UBKTHU
UBMTTQ
UBND
XHCN

MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU

3
1


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ

12

ĐẢNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN AN LÃO,
1.1.


THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước và những vấn đề cơ bản
về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp ngoài

1.2.

12

Nhà nước trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng.
Thực trạng, nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây
dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghịêp ngoài Nhà

nước trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG

35
56

CƯỜNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG HIỆN NAY.
2.1.

Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và yêu cầu xây

56

dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghịêp ngoài Nhà
nước trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng

2.2.

hiện nay
Những giải pháp tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở

65

đảng ở các doanh nghịêp ngoài Nhà nước trên địa bàn
huyện An Lão thành phố Hải Phòng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

91
94

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là yếu tố cực kỳ quan
trọng, quyết định đến chất lượng hiệu quả lãnh đạo và sự sống còn của Đảng
2


ta qua các thời kỳ cách mạng; là quy luật tất yếu trong suốt quá trình tồn tại,
trưởng thành, phát triển của Đảng, là một nội dung trọng tâm, then chốt trong
đổi mới chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Tổ chức cơ sở Đảng nói chung và Tổ chức Đảng trong các Doanh
nghiệp ngoài Nhà nước nói riêng là tế bào của Đảng, lập thành nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị, nơi trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến

với quần chúng, người lao động, nơi tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là cầu nối
giữa Đảng với nhân dân.
Ý thức sâu sắc được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của TCCSĐ, là cơ sở
trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm củng cố, xây dựng và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ nói chung và TCĐ trong
các Doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
IX của Đảng chỉ rõ phương hướng công tác phát triển đảng viên là: "Phát
triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong
công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng
viên” [18]; Năm 1996, Bộ Chính trị (khoá VIII) ban hành Chỉ thị số 07CT/TW "Về tăng cường công tác xây dựng Đảng và các Đoàn thể nhân dân
trong các DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân
(gọi tắt là DN tư nhân) và DN có vốn đầu tư nước ngoài". Đặc biệt, từ khi
thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII ) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh
đốn Đảng”, Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, nhất là Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
Đảng ta đã triển khai nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn, đồng bộ về xây
dựng TCCSĐ nên chất lượng của các TCCSĐ nói chung và TCĐ ở các
DNNNN nói riêng đã được nâng lên một bước cả về số lượng và chất lượng;
phát huy được vị trí, vai trò trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sản
3


xuất, kinh doanh tại doanh tại đơn vị; góp phần quan trọng tạo nên những thành
tựu trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; đặc biệt trong sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Thực hiện chủ trương của Đảng, trực tiếp là sự chỉ đạo định hướng của

Thành uỷ Hải Phòng và Ban Tổ chức Thành uỷ (BTCTU), trong những năm
qua, Đảng bộ huyện An Lão đã hết sức chú trọng tới công tác xây dựng, chỉnh
đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; tập trung
thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ về xây dựng phát triển TCĐ ở các DNNNN
trên địa bàn huyện. Bởi vậy, công tác phát triển đảng viên, phát triển TCĐ ở
các DNNNN trên địa bàn đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần
không nhỏ trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nông thôn mới… của huyện.
Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên và xây dựng, phát triển TCĐ
trong các DNNNN trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, chưa đạt kết quả theo
yêu cầu đề ra; bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém; chưa thực sự ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi để xây dựng và
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCĐ ở các DNNNN trên địa
bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng thực sự là vấn đề vừa cơ bản, vừa
cấp thiết. Với những lý do nói trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng ở DN ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải
Phòng hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Về phương diện nghiên cứu, xoay quan vấn đề xây dựng TCCSĐ nói
chung và xây dựng TCCSĐ trong các loại hình DN cũng đã thu hút nhiều nhà
khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý tập trung nghiên cứu, đến nay, cũng đã có
nhiều công trình, đề tài đã nghiệm thu, công bố.
* Các công trình, đề tài, luận văn, luận án đã công bố
Tiêu biểu như: Sách tham khảo: Cuốn “Nâng cao năng lực lãnh đạo và

4



sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới” của GS.TS Nguyễn Phú Trọng,
PGS.TS Tô Huy Rứa và PGS. TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên năm 2004
[44]; Cuốn “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ
phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay”, PGS. TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên [35]
Tập tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng,
Đoàn thể năm 2012 “Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng hiện nay”
nêu rõ các vấn đề lý luận về công tác xây dựng Đảng, những nguy cơ đối với
Đảng ta; đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng Đảng trong
hiện tại và thời gian tới.
Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng Tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước
ta hiện nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10
năm 1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng TCCSĐ và đề xuất một số
giải pháp củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc Tổ quốc.
Đề tài luận án tiến sĩ "Chất lượng các đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ
hiện nay", của tác giả Dương Trung Ý (2008). Tác giả tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất lượng các đảng bộ vùng trung du
Bắc Bộ, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới
phương thức lãnh đạo và xác định đúng nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ
vùng trung du Bắc Bộ.
Đề tài luận án phó tiến sĩ “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng
nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh
(1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất
lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng; đề
xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn: nâng
cao chất lượng đảng viên, đổi mới phương thức lãnh đạo và xác định đúng
nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Đề tài luận án Phó tiến sĩ “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở
các tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện
nay” của tác giả Đặng Đình Phú (1996). Tác giả đã phân tích những cơ sở

khoa học của quan niệm mới về chất lượng đảng viên. Thực trạng chất lượng
5


đội ngũ đảng viên trong tổ chức cơ sở đảng. Đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven
đô trong tình hình hiện nay.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu
Dược (2003). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân, rút ra bài
học kinh nghiệm, xây dựng tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn
vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay-Thực trạng và
giải pháp” của tác giả Huỳnh Ngọc Thành (2005). Tác giả đã tập trung phân
tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất hệ giải pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ
của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả
Phùng Đức Thái (2000). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ
giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Dũng (2000). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân và đề xuất hệ giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An.

Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng cao phía Bắc
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tác giả đã tập
trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ; đề xuất hệ giải pháp
cơ bản nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng cao phía Bắc.
6


Luận văn Thạc sĩ “Phát triển đảng viên trong sinh viên các trường Đại
học công an nhân dân phía Bắc trong giai đoạn hiện nay” [27] của Vũ Thế
Kỉ (2000), luận văn đã nêu lên thực trạng công tác phát triển Đảng, đề cập tới
tính cấp thiết phải phát triển đảng trong đội ngũ sinh viên các trường Đại học
công an và các nhóm giải pháp để phát triển đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
của cấp uỷ đảng trong lực lượng công an trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đọan hiện
nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá
thực trạng và nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
* Các bài báo khoa học đã đăng tải
Tiêu biểu như: “Nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng Bộ đội
biên phòng” của tác giả Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp chí Cộng sản số
1/1999. Tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, thực trạng các TCCSĐ Bộ đội biên phòng, trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ Bộ đội biên phòng.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn với bảo
vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Đình Ban, đăng
trên Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001, số 9. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả
đã đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng gắn với bảo vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới.

“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở” của tác giả Trần Đình
Hoan, đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2004. Tác giả đã luận giải vai
trò của tổ chức cơ sở đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nêu lên thực trạng
những ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, đề xuất các giải pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức
cơ sở đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở.
“Nâng cao NLLĐ,SCĐ của Đảng bộ Quân đội trong tình hình mới”
của Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư TW Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị
7


(Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 2, 2009). Tác giả đã đề xuất một số trọng
tâm: tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ
trương, giải pháp của Hội nghị TW 9 (khoá X); Tiếp tục đổi mới toàn diện
công tác cán bộ; Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công
tác kiểm tra, giám sát, công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng” của tác giả Vũ Văn Phúc (2011), đăng trên Tạp chí Cộng sản
(chuyên đề cơ sở số 55). Từ cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng của
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tác giả đã đề xuất
các giải pháp tiếp tục nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng.
“Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Lê Quốc
Lý (2013), đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị (số 11). Tác giả đã phản ánh
thực trạng về sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp để góp phần nâng cao sức chiến đấu của TCCSĐ hiện nay.
Về sách tham khảo gồm có: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng trong thời kỳ mới” GS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS,TS Tô Huy
Rứa và PGS,TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà Nội-2004;
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ

phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS,TS Đỗ Ngọc
Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm 2004 v.v…
Bài báo “Nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển đảng trong DN tư nhân
tại Hà Nội” của Nguyễn Văn Hùng đăng trên Tạp chí Mặt trận số 108 (Tháng 10
năm 2012) [25]; “Nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong các
DN Nhà nước và DN tư nhân ” của Vũ Văn Phúc đăng trên Tạp chí Cộng sản số
842 (tháng 12 năm 2012) [37] đã làm sâu sắc thêm ý nghĩa, sự cần thiết của công
tác phát triển đảng, xây dựng TCCSĐ tại DN tư nhân trong điều kiện hiện nay…
Tác phẩm của Lê Văn Lý (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội,
năm 2002) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền” [29] đề cập tới vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và những yêu cầu nâng cao năng lực, sức chiến đấu

8


của Đảng, trong đó cũng đề cập tới vai trò của TCCSĐ.
Trên báo Quân đội nhân dân số ra ngày 22/3/1994 có bài của Trần Nhật
Độ: "Đổi mới hơn nữa công tác phát triển Đảng". Trong Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 5/2004, Mạch Quang Thắng với bài: "Một số vấn đề đặt ra đối với
công tác phát triển đảng viên". Tạp chí Cộng sản, số 3/ 1995 Hồ Đức Việt với
bài: "Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong thanh niên". Trên báo Nhân
dân số ra ngày 7/12/2004, Lâm Huệ Nữ có bài: "Công tác xây dựng TCĐ và
các Đoàn thể trong DN ngoài quốc doanh ở Đồng Nai"; số ra ngày
23/10/2004, Nguyễn Đình Khánh với bài: "Hội nghị công tác xây dựng TCĐ,
Đoàn thể trong DN ở các khu công nghiệp". Trong Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 6/2003 Trần Thu Thủy với bài: "Kinh nghiệm phát triển đảng viên mười
DN ngoài quốc doanh". Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11/ 2004, Nguyễn Đức
Hạt: "Tăng cường xây dựng TCĐ, Đoàn thể trong DN ở các khu công
nghiệp". Trên báo Nhân dân số ra ngày 23/10/2004, Nguyễn Đình Khánh với

bài: "Hội nghị công tác xây dựng TCĐ, Đoàn thể trong DN ở các khu công
nghiệp". Website tạp chí xây dựng Đảng ngày 20/01/2015, PGS,TS. Nguyễn
Văn Giang với bài: “Tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà
nước - Thực trạng và giải pháp”. Website tạp chí xây dựng Đảng ngày
12/6/2015, Khánh Chi với bài: “Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước ở Nghệ An”… các bài viết đề cập sâu đến sự cần thiết
phải phát triển đảng viên, xây dựng TCCSĐ nói chung và phát triển đảng viên,
xây dựng TCCSĐ trong các DNNNN nói riêng, tính cấp thiết của vấn đề này
trong điều kiện đổi mới, hội nhập của đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
một công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về xây dựng TCĐ
ở DNNNN trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng. Vì vậy, công trình
nghiên cứu về “Xây dựng TCĐ ở các DN ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện
An Lão thành phố Hải Phòng hiện nay” là đề tài có hướng nghiên cứu độc lập,
không trùng lắp với các công trình, đề tài đã được công bố, nghiệm thu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn, trên cơ sở đó đề
xuất giải pháp xây dựng TCCSĐ ở DNNNN trên địa bàn huyện An Lão,
9


thành phố Hải Phòng hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về TCĐ và xây dựng TCĐ
trong các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm về xây dựng TCĐ trong các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão
thành phố Hải Phòng.
- Xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp tăng cường xây dựng TCĐ ở các
DNNNN trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng hiện nay.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng TCĐ ở các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão thành phố
Hải Phòng hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hoạt động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở ở DN
ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng. Các tư
liệu, số liệu điều tra, khảo sát tập trung chủ yếu các cơ quan của huyện ủy, các
xã có DN ngoài quốc doanh đứng chân và các chi bộ, đảng bộ cơ sở ở các
doanh ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng;
thời gian giới hạn từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, phương hướng của
Đảng Cộng sản Việt Nam về Đảng và xây dựng Đảng; các chỉ thị, nghị quyết,
Hướng dẫn, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư về công tác xây dựng Đảng; công tác xây dựng TCCSĐ ở các DNNNN.

10


* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác phát triển
đảng viên, xây dựng, phát triển chi bộ, đảng bộ ở các DNNNN trên địa bàn
huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ năm 2010 đến nay.
Các chỉ thị, nghị quyết, các báo cáo sơ tổng kết về công tác xây dựng TCĐ
ở DNNNN của Thành ủy Hải Phòng, Ban Tổ chức Thành ủy (BTCTU); các kết
quả khảo sát thực tiễn tại các chi, đảng bộ trực thuộc Huyện uỷ, trực thuộc đảng
bộ cơ sở; tại các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng.

* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênnin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành; trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp: phân tích; tổng hợp;
logic, lịch sử; điều tra xã hội học; thống kê; so sánh; tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học
giúp cho các cấp ủy, TCĐ vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng TCĐ ở
các DN ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng
hiện nay
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập ở các trường chính trị tỉnh, các học viện, nhà trường trong và
ngoài quân đội; làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy, nhất là những chi ủy
viên và đảng viên của chi bộ, đảng bộ ở các DN ngoài quốc doanh.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, nội dung: 2 chương (4 tiết), kết luận và kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY

11


DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP
NGOÀI NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN AN LÃO THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước và những vấn đề cơ bản về
xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa
bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng

1.1.1. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước và tổ chức cơ sở đảng ở các
doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải
Phòng
* Khái quát về DN và DNNNN ở huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
+Về doanh nghiệp:
Theo Luật DN Nhà nước được Quốc hội khoá IX kì họp thứ 7 thông
qua ngày 20/4/1995; Luật DN sửa đổi được Quốc hội khoá X, kì họp thứ 5
thông qua ngày 12/6/1999 qui định: “DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở ấn định được đăng kí kinh doanh theo qui định của Pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Thành phần của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (ngoài Nhà nước)
gồm: DN tư nhân; các công ty (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn;
công ty hợp doanh; DN có vốn đầu tư nước ngoài; DN tập thể, DN Đoàn
thể)... Theo đó có thể hiểu: DNNNN là các DN thành lập theo Luật DN, là
DN không có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển
kinh tế nhiều thành phần, DNNNN trong cả nước, cũng như trên địa bàn
huyện An Lão đã có bước phát triển khá nhanh, thu hút và giải quyết việc làm
cho đại đa số lao động, góp tỉ trọng lớn trong tăng trưởng GDP, là điều kiện
quan trọng để thực hiện mục tiêu của Thiên niên kỉ, xóa đói giảm nghèo, bảo
đảm an sinh xã hội và tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng văn minh, hiện đại.
+ Về DN ngoài nhà nước trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải Phòng
12


Thực hiện qui hoạch của Thành phố Hải phòng về chủ trương phát triển
các quận, huyện, trong những năm qua huyện An Lão đã có bước chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng
nông nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng gần 2 lần so với

năm 2010. Trong điều kiện khó khăn, các DN trên địa bàn vẫn đứng vững,
tăng cả về số lượng và qui mô sản xuất.
Hiện nay, trên địa bàn huyện An Lão có gần 200 DN đứng chân, trong
đó có 178 doanh nghiệp ngoài nhà nước, hoạt động khá đa dạng về lĩnh vực
sản xuất (bao gồm: cơ khí, may mặc, sản phẩm dịch vụ gia đình, chăn nuôi
gia súc, gia cầm, giày da…). Hàng năm các DNNNN thu hút trên 30.000 lao
động địa phương, giải quyết khá hiệu quả công ăn việc làm, thu nhập cho
người lao động của Huyện, góp phần tăng thu nhập cho người dân, thực hiện
tốt các chỉ tiêu về xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và ổn định tình hình
kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở địa phương. DNNNN là bộ phận hết sức
quan trọng góp phần thực hiện đường lối đối mới, phát triển kinh tế ở địa
phương, trực tiếp góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế và sắp xếp, cơ cấu lại các DN ở địa phương.
* Khái quát về Đảng bộ huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
Đảng bộ huyện An Lão thuộc hệ thống đảng bộ cấp huyện, trực thuộc
Thành ủy thành phố Hải Phòng, cùng với chính quyền huyện An Lão, Đảng
bộ huyện được tái lập năm 1988, khi mới tái lập Đảng bộ huyện An Lão có 31
chi, đảng bộ trực thuộc, với 1672 đảng viên. Gần 30 năm xây dựng và phát
triển, đến nay Đảng bộ huyện An Lão đã phát triển gồm có 64 chi, đảng bộ
trực thuộc với gần 6000 đảng viên.
Trong những năm qua, Đảng bộ không ngừng trưởng thành, lớn mạnh
cả về tổ chức, số lượng và chất lượng đảng viên, công tác phát triển đảng
được tập trung chỉ đạo; hằng năm công tác phát triển đảng viên mới đạt tỉ lệ
khoảng 3% (kết nạp gần 200 quần chúng ưu tú vào Đảng/năm, trong đó có
những quần chúng là công nhân ưu tú tại các DNNNN; kể cả các DNNNN
chưa có TCCSĐ); nhiều TCCSĐ được xây dựng (từ năm 1988 đến hết năm
13


2014 đã xây dựng và phát triển được 33 chi, đảng bộ); sức chiến đấu, tinh

thần tiền phong gương mẫu của đảng viên được phát huy; vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ đã được khẳng định (hằng năm, tỉ lệ đảng viên đạt danh hiệu đảng
viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ khá cao (trên 80%); trong đó, tỉ lệ
đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ gần 20%; số TCCSĐ đạt
tiêu chuẩn TSVM và TSVM biểu cao, hầu như không có TCCSĐ yếu kém).
* Tổ chức cơ sở đảng ở các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão.
- Quan niệm:
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân chính trị, lãnh
đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, phát triển kinh tế -xã hội ở cơ sở địa phương. Mỗi chi bộ, đảng bộ cơ
sở là một tế bào cấu thành cơ thể sống của Đảng, là yếu tố bảo đảm cho sự
phát triển bền vững của toàn Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, trực tiếp đưa
đường lối, chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối ấy; đồng thời là nơi thường xuyên sâu sát, gắn bó mật thiết với
quần chúng, trực tiếp nắm, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
quần chúng; nơi hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường
học giáo dục, rèn luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần
chúng ưu tú cho Đảng.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước đã chứng minh, nơi nào có TCĐ
trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết, thống nhất thì nơi đó đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, được quán triệt, thực hiện kịp thời, có hiệu quả,
kinh tế phát triển, đời sống Nhân dân được cải thiện và nâng lên, tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với
Đảng không ngừng được củng cố, quan hệ giữa Đảng với quần chúng ngày
càng mật thiết. Ngược lại, nơi nào không có TCĐ, hoặc TCĐ yếu kém, mất
đoàn kết, đảng viên thiếu tiền phong, gương mẫu thì lòng tin của Nhân dân
đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế mạnh của địa phương không được
phát huy, chủ trương, đường lối của Đảng thực hiện kém hiệu quả, dân chủ


14


cơ sở và quyền làm chủ của Nhân dân bị vi phạm.
Theo hướng tiếp cận trên, có thể quan niệm:
Tổ chức đảng ở các DNNNN là một bộ phận quan trọng hợp thành các
TCCSĐ ở địa phương, được xây dựng và hoạt động tuân theo theo Điều lệ
Đảng, bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở được lập ra ở các công ty, xí
nghiệp, nhà máy không có vốn của Nhà nước (hoặc vốn Nhà nước dưới
51%), trực thuộc Đảng bộ huyện, là tế bào của Đảng, là hạt nhân chính trị ở
DN, có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo phát triển DN về mọi mặt.
Nghị quyết 28-NQ/TU, ngày 10/11/2009 của Ban Thường vụ Thành uỷ
Hải Phòng nhận định: “Những năm qua, được sự quan tâm của các cấp, các
ngành, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ
Chính trị và các qui định của Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ
và các loại hình TCCSĐ, hệ thống TCCSĐ, đoàn thể và đội ngũ đảng viên,
đoàn viên, hội viên ở khu vực DNNNN đã sớm được hình thành, củng cố và
tăng cường, có bước phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng, góp
phần giúp DN, đơn vị hoạt động ổn định, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị,
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật
Nhà nước, đảm bảo đời sống người lao động”.
Thực tế, hệ thống TCĐ trong các DNNNN ở huyện An Lão đang ngày
càng được kiện toàn và phát triển rộng khắp, hiện nay đã có 09/178 DNNNN
đã tổ chức được TCĐ; trong đó có 2 đảng bộ, 7 chi bộ, với số lượng 186 đảng
viên; có 8 TCCSĐ bí thư chi bộ, đảng bộ đồng thời là chủ DN. Tuy số lượng
các chi bộ, đảng bộ trong các DNNNN ở huyện còn khá khiêm tốn, nhưng
theo đánh giá của nhiều chuyên gia: trong những năm qua (nhất là từ năm
2010 trở lại đây), công tác phát triển đảng viên, xây dựng và phát triển TCĐ
trong các DNNNN ở huyện An Lão được Huyện ủy tập trung chỉ đạo khá chặt
chẽ. Hằng năm, đều có quần chúng ưu tú là công nhân tại các DNNNN được

đi học lớp nhận thức về Đảng, kết nạp đảng và chuyển đảng chính thức; có
chi bộ mới được thành lập, có chi bộ phát triển thành đảng bộ.
- Chức năng, nhiệm vụ và các mối quan hệ công tác của các TCĐ ở
15


DNNNN ở huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
Căn cứ theo Quy định số 100-QĐ/TW ngày 4 tháng 6 năm 2004, của
Ban Bí thư về quy định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong
các DN tư nhân, các chi bộ, đảng bộ cơ sở ở các DNNNN ở huyện An Lão
thành phố Hải Phòng có chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:
Về chức năng: các đảng bộ, chi bộ cơ sở trong DNNNN là hạt nhân
chính trị lãnh đạo đảng viên, người lao động và tuyên truyền, vận động chủ
DN, các thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc nghiêm chỉnh chấp
hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở DN; bảo vệ
lợi ích hợp pháp của người lao động, chủ DN và thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước.
Về nhiệm vụ:
Một là, lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, bảo đảm an ninh, quốc
phòng.
Lãnh đạo đảng viên, người lao động trong DN và tuyên truyền, vận
động chủ DN, các thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hợp
đồng và các thoả ước lao động đã ký kết. Đoàn kết, động viên đảng viên và
các thành viên trong DN phấn đấu vì mục tiêu chung là thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của DN; chủ động ngăn ngừa, khắc phục
những biểu hiện vi phạm pháp luật trong sản xuất kinh doanh, làm thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, chủ DN, quyền lợi hợp pháp và nhân phẩm của
người lao động. Lãnh đạo đảng viên, người lao động tích cực học tập, nâng
cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức khoa học, công

nghệ, ngoại ngữ, ý thức tôn trọng pháp luật và tinh thần lao động có kỷ
cương, kỷ luật. Lãnh đạo đảng viên, người lao động và tuyên truyền, vận
động chủ DN thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, các mặt công tác xã hội trong DN và ở
địa phương. Đề xuất, kiến nghị lên cấp có thẩm quyền những vấn đề cần thiết
liên quan đến DN.
16


Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng.
Tuyên truyền, giáo dục đảng viên, người lao động và các thành viên
trong DN hiểu rõ và tự giác chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của DN; phát huy truyền
thống yêu nước và ý thức trách nhiệm của công dân vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; động viên người lao động
tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ;
xây dựng tinh thần đoàn kết, hợp tác tương trợ giữa các thành viên trong DN,
từng bước nâng cao giác ngộ giai cấp, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của người
lao động.
Tuyên truyền, vận động, thuyết phục và bằng hoạt động có hiệu quả
của TCĐ, các đoàn thể quần chúng, làm cho đảng viên, quần chúng trong DN
nắm vững chủ trương của Đảng, Nhà nước ta là: tạo điều kiện và khuyến
khích kinh tế tư nhân phát triển; kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác và là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.
Lãnh đạo xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và các đoàn thể quần chúng khác trong DN vững mạnh, thực hiện
đúng pháp luật của Nhà nước và điều lệ của mỗi đoàn thể; tham gia ý kiến với

chủ DN, giám đốc trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người
lao động; giáo dục, động viên đoàn viên đẩy mạnh phong trào thi đua, hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo ban chấp hành công đoàn kịp thời
trao đổi với chủ DN, giám đốc để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa người
lao động và người sử dụng lao động phù hợp với pháp luật hiện hành; ngăn
ngừa và khắc phục có hiệu quả các biểu hiện chia rẽ, phân hoá trong cộng
đồng người lao động; tham gia ý kiến với các cơ quan có thẩm quyền để xử lý
đúng đắn các vụ tranh chấp trong DN.
Bốn là, công tác tổ chức, cán bộ.
17


Xây dựng cấp ủy và đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể có đủ phẩm chất,
năng lực và hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và quần chúng tín nhiệm.
Chủ động đề xuất với cấp ủy cấp trên xây dựng và thực hiện kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng, đoàn thể trong DN. Chủ động tham gia ý kiến với
chủ DN, giám đốc trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ quản lý, lao
động kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trong DN.
Năm là, xây dựng tổ chức đảng.
Cấp ủy đề ra chủ trương, biện pháp xây dựng chi bộ, đảng bộ trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCĐ và đội
ngũ đảng viên, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự phát
triển của DN. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê
bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi
bộ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ; thực hiện đúng các quy định
về bảo vệ chính trị nội bộ; chống những biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến
thanh danh của Đảng và đạo đức tư cách của người đảng viên. Giáo dục đảng
viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao
động giỏi; tích cực học tập, nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ và
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Thường xuyên làm tốt

công tác tuyên truyền và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu chuẩn và quy
trình; chú trọng phát triển đảng viên trẻ, thành viên trong bộ máy quản lý của
DN và những cán bộ, đoàn viên công đoàn ưu tú, giỏi về chuyên môn, nghiệp
vụ. Xây dựng cấp ủy có năng lực, hoạt động hiệu quả. Định kỳ hằng năm, cấp
ủy tổ chức để quần chúng tham gia góp ý về sự lãnh đạo của TCĐ, trách
nhiệm và vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên.
Các mối quan hệ công tác của các đảng bộ, chi bộ cơ sở ở DNNNN
Đối với người quản lý doanh nghiệp: Cấp uỷ xây dựng mối quan hệ
phối hợp công tác với người quản lý doanh nghiệp trên nguyên tắc hợp tác,
đồng thuận để tổ chức đảng tham gia xây dựng, phát triển doanh nghiệp và
doanh nghiệp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức đảng hoạt
động theo quy định của Điều lệ Đảng, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư…
18


tạo ra sự đồng thuận vì mục tiêu chung là xây dựng và phát triển DN. Hàng
quý, cấp ủy chủ động trao đổi với người quản lý doanh nghiệp ý kiến của
đảng viên và người lao động về tình hình sản xuất kinh doanh, việc thực hiện
các thoả ước, hợp đồng lao động, các chính sách, chế độ trong DN, tâm tư
nguyện vọng của người lao động và bàn biện pháp phối hợp giải quyết.
Đối với các đoàn thể quần chúng: Định kỳ hàng quý hoặc khi có yêu
cầu, cấp ủy làm việc với các đoàn thể, nắm tình hình hoạt động của từng đoàn
thể để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
Đối với cấp trên và các tổ chức có liên quan: Đảng bộ, chi bộ trong
DN chịu sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra của cấp ủy cấp trên trực tiếp (hoặc
TCĐ được cấp ủy đó ủy quyền) về mọi mặt; xây dựng mối quan hệ với cơ
quan quản lý cấp trên, với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi DN đứng chân
và nơi có đảng viên cư trú để phối hợp công tác và quản lý đảng viên.
* Vị trí vai trò của TCĐ ở các DNNNN ở huyện An Lão:
Một là, TCĐ ở DNNNN là hạt nhân chính trị ở cơ sở, cầu nối giữa cấp

ủy, TCĐ với quần chúng, nơi trực tiếp tuyên truyền vận động và tổ chức quần
chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ở DN.
Xuất phát từ cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các TCĐ trong
DNNNN nên mối quan hệ giữa người lao động với các cấp ủy, chính quyền
các cấp chỉ có thể thực hiện thông qua cầu nối trực tiếp là các TCĐ. Mặt khác,
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chỉ
có thể đến quần chúng lao động trong DN thông qua công tác tuyên truyền,
giáo dục và tổ chức thực hiện của các TCĐ. Vì vậy, TCĐ ở DNNNN là nơi
gắn kết quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng lao động, nơi
củng cố, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần
chúng, chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi
công việc đều tiến bộ không ngừng, trái lại nếu chi bộ kém thì mọi công việc
không trôi chảy”, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ
19


thị của cấp trên được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thông qua hoạt động của
các TCĐ trong DN.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ các cấp, các chi, đảng bộ cơ sở ở
các DNNNN có trách nhiệm cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của mỗi DN.
Tiến hành tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng chấp hành nghiêm
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thông qua quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, các TCĐ
có trách nhiệm thu nhận thông tin, báo cáo với các cơ quan lãnh đạo cấp trên
những kiến nghị, góp ý của quần chúng ở DN về đường lối, chính sách đã ban
hành, góp phần bổ sung, hoàn thiện chính sách cho phù hợp thực tiễn. Vì vậy,

thắng lợi của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và sự hoàn thành
nhiệm vụ của các DN phụ thuộc rất lớn vào vai trò lãnh đạo của TCĐ. Không
có TCĐ và hoạt động lãnh đạo của các TCĐ thì mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, và của cấp ủy, chính quyền địa phương
không thể đi vào phong trào cách mạng của quần chúng.
Hai là, tổ chức cơ sở đảng ở các DNNNN huyện An Lão là nơi trực tiếp
quản lý, giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên ở DN
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, xây
dựng đội ngũ cán bộ luôn là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên quan trọng hàng
đầu của các TCĐ. Mọi đảng viên dù đảm nhiệm cương vị, trọng trách nào
trong DN cũng đều phải tham gia sinh hoạt và chịu sự quản lý của TCĐ ở DN
đó. Các TCĐ thông qua công tác tư tưởng và tổ chức, bằng các biện pháp
quản lý, duy trì các chế độ, nền nếp sinh hoạt đảng, phân công nhiệm vụ cho
đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát đảng viên, giáo dục, rèn luyện đảng
viên trở thành những đảng viên ưu tú. Với vai trò là cầu nối trực tiếp giữa
Đảng với quần chúng, các chi, đảng bộ cơ sở có điều kiện và trách nhiệm giáo
dục, rèn luyện, bồi dưỡng, lựa chọn những quần chúng ưu tú, có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn để kết nạp họ vào Đảng, tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp
20


phần nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng; đồng thời có trách
nhiệm phát hiện, bồi dưỡng, rèn luyện và giới thiệu đội ngũ cán bộ chủ trì cho
đảng bộ các DN để làm nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý DN.
Ba là, các tổ chức đảng ở DNNNN giữ vai trò lãnh đạo chăm lo cho
quyền lợi của người lao động; xây dựng DN vững mạnh toàn diện, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và phát triển DN về mọi mặt.
Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, với chức năng, nhiệm vụ được qui định,
các TCĐ trong DNNNN có trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt công tác của DN,
trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo chăm lo cho quyền và lợi ích chính đáng của người

lao động. Đồng thời, có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng, phát triển DN về mọi
mặt và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trọng tâm của DN là sản xuất
kinh doanh và lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an
ninh, an sinh xã hội theo đúng quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Để làm tròn vai trò, trách nhiệm đó, các
TCĐ ở các DNNNN phải thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đảm bảo ngang tầm về trí tuệ để lãnh đạo xây dựng DN vững mạnh
toàn diện (VMTD), đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới như xây
dựng hệ thống chính quyền từ ban giám đốc (tổng giám đốc) đến các xí
nghiệp, phòng, ban, phân xưởng, tổ đội sản xuất vững mạnh, xây dựng các
phong trào, các hoạt động của DN, củng cố, kiện toàn các qui chế, qui định
trong DN, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng lao động.
Đồng thời coi trọng việc củng cố, kiện toàn cấp ủy, xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ theo cương vị được giao. Vai trò của các TCĐ ở
các DN được khẳng định trên thực tế bằng các chủ trương, biện pháp lãnh đạo
sát đúng phù hợp, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của
DN. Vì vậy, thường xuyên chăm lo xây dựng các TCĐ trong các DNNNN
trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến
đấu là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn
Đảng hiện nay.

21


* Đặc điểm của tổ chức cơ sở đảng ở các DNNNN ở huyện An Lão
Một là, tổ chức cơ sở đảng trong các DNNNN được thành lập ở các
công ty, xí nghiệp theo mô hình TCCSĐ một cấp hoặc hai cấp tùy theo qui
mô từng xí nghiệp và số lượng đảng viên.
Do đặc điểm chung là các TCĐ ở DNNNN ở huyện An Lão mới được

xây dựng, kiện toàn thời gian chưa lâu, mặt khác căn cứ vào quy mô, biên
chế, tổ chức của từng loại hình DN và số lượng đảng viên nên các TCĐ ở các
DNNNN hiện nay chủ yếu được thành lập, kiện toàn theo mô hình TCCSĐ
một cấp, hai cấp. TCCSĐ một cấp gồm các chi bộ cơ sở ở DN trực thuộc
Đảng bộ huyện, loại hình này thường tổ chức ở các xí nghiệp có qui mô tổ
chức vừa và nhỏ, số lượng đảng viên ít, TCĐ mới được xây dựng và kiện
toàn. TCCSĐ hai cấp gồm có đảng bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ huyện và các
chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở (ở các xí nghiệp hoặc phân xưởng). Loại hình này
thường được tổ chức ở các DN có qui mô tổ chức tương đối lớn, số lượng
đảng viên khá đông, TCĐ có thời gian xây dựng, kiện toàn lâu hơn.
Hai là, nhiệm vụ chính trị trọng tâm của TCĐ trong DNNN là lãnh đạo
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và
phát triển DN đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước.
Cũng như các TCCSĐ nói chung, các TCĐ trong DNNNN bên cạnh
nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện, đều có nhiệm vụ chính trị trung tâm là tập trung
lãnh đạo nhiệm vụ phát triển sản xuất, kinh doanh bảo đảm có lợi nhuận, hiệu
quả cao, đúng quan điểm, đường lối của Đảng, đúng pháp luật của Nhà nước;
bảo đảm cho DN có đủ năng lực sản xuất và sức cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường. Quá trình đó, đòi hỏi các TCĐ phải có đủ năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ; thường xuyên, chủ động đề
ra được các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo DN từ xây dựng chiến
lược phát triển sản xuất kinh doanh; đến động viên, tập hợp đông đảo quần
chúng lao động, nỗ lực phấn đấu, huy động đối đa mọi tiềm năng, thế mạnh
của DN, phát huy vai trò của mọi tổ chức, lực lượng trong DN để thực hiện
thắng lợi mọi kế hoạch, qui hoạch, chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh
22


và xây dựng DN vững mạnh về mọi mặt.
Hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các DNNNN là

một hoạt động mang đậm tính đặc thù, vì trong bối cảnh hiện nay hoạt động
này đang chịu tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhất là các quy luật kinh
tế thị trường và điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh, sự cạnh tranh gay
gắt giữa các thành phần kinh tế, dẫn đến sự không ổn định cho nhiệm vụ lãnh
đạo của TCĐ trong DN. Mặt khác, các TCĐ trong các DNNNN có trách
nhiệm quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động, lãnh đạo, chỉ đạo DN phát triển sản xuất, kinh doanh, bảo đảm cho lợi
nhuận của DN không ngừng tăng, đồng thời phải giải quyết hài hòa giữa lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của DN, của chủ DN và người lao động. Do đó, để
lãnh đạo DN hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh doanh và xây
dựng phát triển DN về mọi mặt, đòi hỏi các TCĐ ở DNNNN phải hết sức
năng động, sáng tạo thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
cho phù hợp với từng loại hình DN. Trên cơ sở nhận rõ những ưu thế, cũng
như những hạn chế của DN để chủ động tìm ra các chủ trương, biện pháp lãnh
đạo đúng, trúng, phù hợp thực tiễn để xây dựng phát triển DN về mọi mặt,
đáp ứng yêu cầu đảm bảo doanh thu, lợi nhuận ngày càng cao nhưng không vi
phạm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, các TCĐ ở các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão đang trong
quá trình kiện toàn, phát triển, quá trình xây dựng, hoạt động chịu sự chi phối
tác động trực tiếp bởi mục đích tìm kiếm lợi nhận ngày càng tăng của DN.
Có thể nói, so với các loại hình TCCSĐ trong Đảng bộ huyện An Lão
thì các TCĐ trong các DNNNN trên địa bàn huyện An Lão là loại hình
TCCSĐ ra đời sau, còn non trẻ; kinh nghiệm xây dựng, phát triển và hoạt
động lãnh đạo chưa nhiều. Hiện nay, ở phạm vi toàn Đảng, cũng như ở phạm
vi Đảng bộ huyện An Lão, việc xây dựng kiện toàn, phát triển loại hình TCĐ
trong các DNNNN đang còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên
cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm cả trong tổ chức, xây dựng, sinh hoạt và hoạt
động lãnh đạo. Đặc biệt, hoạt động lãnh đạo của các TCĐ ở các loại hình
23



DNNNN cũng thể hiện rõ tính đặc thù, quá trình lãnh đạo phải giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa quan tâm chăm lo cải thiện đời sống của người lao động
với đảm bảo doanh thu, lợi nhận của DN và lợi ích của các chủ đầu tư, chủ
DN; giải quyết tốt quan hệ giữa quyền của giám đốc, tổng giám đốc trong
quyết định điều hành chiến lược sản xuất kinh doanh với các chủ trương lãnh
đạo của tập thể TCĐ, với việc quan tâm giải quyết các chính sách theo quan
điểm đường lối Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữa việc thực
hiện thời gian giờ giấc làm việc, qui chế lao động với duy trì nền nếp, chế độ
sinh hoạt và hoạt động của các TCĐ; giải quyết hài hòa giữa quyền chỉ huy
điều hành của giám đốc xí nghiệp, với vai trò của bí thư, vai trò lãnh đạo tập
thể của các cấp ủy, chi bộ. Thực tế cho thấy, việc giải quyết những vấn đề này
càng khó khăn, phức tạp hơn nếu trong trường hợp giám đốc, tổng giám đốc,
người chủ trì xí nghiệp, phân xưởng không phải là đảng viên.
Đặc điểm này chi phối rất lớn đến quá trình xây dựng, kiện toàn các
TCĐ ở các DNNNN, một mặt nó đặt ra vấn đề trong kiện toàn đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở các DNNNN phải coi trọng vận động, sắp xếp, phát triển bảo
đảm cho đội ngũ giám đốc, tổng giám đốc, những người chủ trì xí nghiệp
đồng thời là bí thư, hoặc phó bí thư chủ trì TCĐ, vận động đội ngũ cán bộ chủ
trì các cấp trong xí nghiệp vào Đảng nếu họ không phải là đảng viên; mặt
khác phải xây dựng hệ quy chế, quy định hết sức chặt chẽ bảo đảm cho việc
giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong nội bộ xí nghiệp, nhất là quan hệ
giữa giám đốc, tổng giám đốc công ty, quản đốc, phân xưởng với bí thư, cấp
ủy và ban chấp hành các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội
trong xí nghiệp.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các
doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải
Phòng
1.1.2.1. Quan niệm về xây dựng TCCSĐ ở các DN ngoài nhà nước trên
địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng

Xây dựng TCCSĐ ở DNNNN ở huyện An Lão là một nội dung quan
24


trọng trong xây dựng TCCSĐ, đòi hỏi phải tuân theo quan điểm, đường lối
của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương,
Ban Bí thư và Thành ủy thành phố Hải Phòng. Đồng thời, phải bám sát mục
tiêu, phương hướng đổi mới, chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ; bám sát thực tiễn DN, bảo đảm cho mọi hoạt động
xây dựng TCCSĐ ở DNNNN luôn giữ vững phương hướng chính trị đúng
đắn. Mặt khác, do tính chất đặc thù của mô hình DNNNN, nên việc xây dựng
TCCSĐ cũng có những nét đặc thù riêng, ngoài việc tập trung giải quyết
những khâu yếu, mặt yếu đang nổi lên, đòi hỏi các chủ thể xây dựng phải
nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, một mặt
phải nắm vững những quan điểm, nguyên tắc chung, đồng thời, phải bám sát
đặc điểm từng loại hình DN để có những chủ trương, giải pháp cụ thể, phù
hợp. Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm:
Xây dựng TCCSĐ ở các DNNNN ở huyện An Lão là tổng thể những
chủ trương, nội dung, biện pháp của các cấp ủy, TCCSĐ, cán bộ chủ trì, cơ
quan chức năng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm kiện toàn, phát
triển tổ chức, bảo đảm cho các đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở ở các DNNNN
luôn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ sức lãnh đạo DN phát triển sản xuất kinh doanh,
góp phần phát triển kinh tế của địa phương và xây dựng DN vững mạnh toàn
diện.
Quan niệm trên chỉ ra:
* Mục đích xây dựng các TCCSĐ ở các DNNNN là nhằm thiết lập,
củng cố, kiện toàn các chi, đảng bộ cơ sở về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo, không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu đảm bảo cho các TCCSĐ thực sự là nền tảng của Đảng,

hạt nhân chính trị ở cơ sở, trung tâm đoàn kết, phát huy vai trò tiền phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đồng thời đại diện chăm lo cho lợi ích và
phát huy tối đa quyền làm chủ của người lao động, thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ sản xuất, kinh doanh và xây dựng DN vững mạnh toàn diện theo đúng đường
25


×