Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thất bại và phá sản ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.54 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
----------

MÔN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI HIỆN ĐẠI

ĐỀ TÀI: THẤT BẠI VÀ PHÁ SẢN NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

GVHD:
TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
THÀNH VIÊN NHÓM:
Phạm Quốc Huy
Nguyễn Mạnh Trường
Lê Thị Như Huyền
Phạm Thị Mỹ Lượng
Nguyễn Thị Xuân Hương
Nguyễn Thế Hiệp
Nguyễn Ngọc Thuận
LỚP:

Ngân Hàng-K25 (Tối thứ 2 E201)

TP.HCM
Năm 2016
1


1. Thất bại và phá sản ngân hàng
1.1 Khái niệm


Theo một Paper “Những thất bại và nền tảng ngân hàng: phân tích so sánh Mỹ La
Tinh và Đông Nam Á” của Marco Arena thuộc Bank of Canada “hầu hết các nghiên cứu
thực nghiệm về thất bại ngân hàng nếu nó nhận được hỗ trợ bên ngoài hoặc trực tiếp
đóng cửa. Trong paper này, một tổ chức tài chính được xem là thất bại nếu nó thuộc một
trong các điều kiện sau (Bongini, Claessens, and Ferri 2001; Gonzalez-Hermosillo
1999):
Các tổ chức tài chính đã được tái cấp vốn bởi hoặc là ngân hàng trung ương hoặc một
cơ quan đặc biệt được tạo ra để giải quyết cuộc khủng hoảng, hỗ trợ thanh khoản của cơ
quan tiền tệ;
• Hoạt động các tổ chức tài chính đã được tạm thời bị đình chỉ bởi Chính phủ;
• Chính phủ đóng cửa tổ chức tài chính;
• Các tổ chức tài chính đã được sáp nhập hoặc mua lại bởi một tổ chức tài chính”.


“Một ngân hàng được coi là thất bại khi nó gặp vấn đề về thanh khoản, hợp nhất
(mua) một ngân hàng bị chính phủ kiểm soát, hoặc được nhà nước hỗ trợ tài chính” theo
giáo trình Mordern banking của Shelagh heffernan tại Đại Học Lon Don
Theo khoản 2 Điều 4 Luật phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm 2014
“Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa
án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”
Theo Điều 3 của Luật phá sản ngân hàng, tổ chức tín dụng và công ty bảo hiểm của
Hoa Kỳ ngày 06 tháng 11 năm 2001 “ Một Ngân hàng phá sản là khi đã được ngân
hàng trung ương yêu cầu thực hiện thủ tục phá sản. Trong trường hợp này các ngân
hàng khi thực hiện thanh lý và phá sản phải tuân theo luật này. Việc một ngân hàng thực
hiện thủ tục phá sản chỉ khi có yêu cầu ngân hàng trung ương, căn cứ theo các điều
khoản được quy định bởi điều 24 của luật này”
1.2 Nguyên nhân

Cho vay dựa trên quan hệ: Việc cho những người có quan hệ với ngân hàng vay tiền
xảy ra khi ngân hàng phân bổ khoản vay đến những bên mà ít nhiều có quan hệ với

ngân hàng: chủ sở hữu của ngân hàng, các thành viên của hội đồng quản trị ngân hàng,
gia đình và bạn bè họ, và những công ty mà ngân hàng có những mối ràng buộc đặc
biệt, do ngân hàng có vốn sở hữu trong công ty đó, hay do ngân hàng duy trì mối quan
hệ quản lý giám sát nào đó với người nhận khoản vay. Nó dẫn đến những người này
chiếm đoạt vốn của Ngân hàng. Để khắc phục điều này thì cơ quan giám sát quy định
cấm cho vay những đối tượng đó và yêu cầu các Ngân hàng công bố và liệt kê tất cả các
khoản vay đối với những người quan hệ. Quy định giới hạn cho vay đối với khách hàng,
nhằm phân tán rủi ro.
Rủi ro đạo đức: Ngân hàng tốt cân bằng 3 bên: Ngân hàng, xã hội, khách hàng
Rủi ro hệ thống (gọi hiệu ứng domino): là hiện tượng xảy ra khi một một Ngân
hàng sụp đỗ sẽ kéo theo các Ngân hàng khác
2


Sự yếu kém quản trị rủi ro của Ngân hàng: tăng cường áp dụng và xây dựng các
chuẩn mực quốc tế Basel nhằm hạn chế rủi ro.
Khủng hoảng niềm tin: khi có thông tin bất lợi của một Ngân hàng, thì người dân sẽ
ồ ạt đến rút tiền. Do việc rút bất ngờ, nên Ngân hàng không chuẩn bị kịp, gây ra rủi ro
phá sản, quản lý rủi ro thanh khoản phù hợp và đúng thời điểm, truyền thông tốt, chính
sách ứng phó của chính phủ và NHNN mạnh mẽ và liên tục, đồng thời cẩn trọng khi
đưa ra biện pháp xử lý rủi ro, tránh áp đặt như Argentina “quy định khách hàng rút tối
đa 1.000 USD/tháng’ lại gây mất niềm tin của người dân.
Thiếu sự quản lý của Ngân hàng nhà nước và cơ quan quản lý: Ngân hàng là một
ngành đặc biệt, là huyết mạch của nền kinh tế, cần có sự quản lý của nhà nước, tránh
buông lỏng việc hoạt động của Ngân hàng này, như ở Iceland cho vay quá mức so với
quy mô của nó gấp 9 lần GDP, phải vay và mượn nguồn vốn bên ngoài với lãi suất cao,
sau đó vỡ nợ phải cầu cứu IMF.
2. Phá sản ngân hàng tác động đến nền kinh tế
2.1 Vai trò của ngân hàng thương mai trong nền kinh tế
• Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế


Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá
nhân, mọi thành phần kinh tế; và đồng thời thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng
thương mại đã cung cấp vốn cho đầy đủ kịp thời cho quá trình sản xuất. Chính nhờ hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh
nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội và cả
nền kinh tế.


Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường.

Bước sang cơ chế thị trường đòi hỏi sự phát triển; hoạt động tín dụng của Ngân
hàng đã làm biến đổi các nhà máy, xí nghiệp, khơi dậy sức sống bằng các dây chuyền
sản xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Điều không thể thực hiện bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên
cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng
cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Thông qua hoạt động cấp tín dụng
cho doanh nghiệp ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường, tạo cho doanh
nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, Ngân hàng thương mại đã góp
phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông.
Hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế Ngân hàng thương mại đã thực hiện việc dẫn
dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một cách
hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô.
Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng
để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế. Khi nhà nước muốn phát triển một
ngành hay một vùng kinh tế nào đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để



-

-

3


khuyến khích thì các Ngân hàng thương mại luôn được sử dụng bằng cách Ngân hàng
thương mại yêu cầu các Ngân hàng thương mại thực hiện chính sách ưu đãi trong đầu
tư, sử dụng vốn như: giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc
qua hệ thống Ngân hàng thương mại Nhà nước cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất
định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức nhà nước thông qua Ngân hàng trung ương
thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ
đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững
chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại thường
đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được nhà nước sử dụng


Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc
tế.

Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được
mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng
trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì
vậy nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và
Ngân hàng thương mại với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan
trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và

các nghiệp vụ khác Ngân hàng thương mại tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại
thương phát triển. Thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối quan hệ tín
dụng với các Ngân hàng thương mại nước ngoài, Ngân hàng thương mại đã thực hiện
vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính
quốc tế.
2.2 Phá sản ngân hàng ảnh hưởng đến nền kinh tế

Phá sản ngân hàng được ví như hiệu ứng domino: Khi ngân hàng phá sản, người
dân gửi tiền sẽ phản ứng vô cùng dữ dội vì tiền tích lũy của họ có khả năng không thể
thu hồi, ngân hàng mất khả năng thanh toán. Do đó, đây cũng là thời điểm người dân ùn
ùn đi rút tiền  gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán thật sự  nếu một ngân
hàng sụp đổ thì nó có thể dẫn tới hiệu ứng sụp đổ một loạt.
Việc cam kết cho vay không thực hiện được, hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn  làm giảm lòng tin của công chúng vào sự
vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, những như hiệu lực của các chính sách
tiền tệ của Chính phủ/ nhà nước  nền kinh tế trì trệ.
Thị trường tài chính khắp nơi trên thế giới sẽ chao đảo vì hoảng sợ những tác động
xấu tiếp theo sau đó. Đồng tiền quốc gia sẽ suy yếu mạnh bởi nhà đầu tư trên toàn thế
giới đang chuyển dần sang việc tìm kiếm các công cụ đầu tư an toàn hơn  nguồn vốn
ồ ạt chuyển dịch ra khỏi thị trường.
Sự lo ngại càng trở nên lớn hơn khi người dân nhận thấy việc chính phủ/ nhà nước
từ chối hỗ trợ, hậu quả được dự báo là có thể sẽ còn những tổ chức tài chính khác chuẩn
4


bị sụp đổ. Đặc biệt là những tổ chức có quan hệ làm ăn với ngân hàng đó  bán tháo
các cổ phiếu, chứng khoán của các tổ chức/ công ty đó  náo loạn sang thị trường
chứng khoán, thị trường nhà đất và phản ứng dây chuyền sang một loạt các thị trường
khác.
Hoạt động của NHTM mang tính xã hội hóa cao vì nó liên quan đến nhiều ngành

nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy khi một ngân hàng bị
phá sản nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội  tạo ra một chuỗi
phản ứng dây chuyền mang tính toàn cầu.

3. Những nghiên cứu trước đây
Why do banks disappear? The determinants of u.s. bank failures and acquisitions.
David C. Wheelock and Paul W. Wilson
Tại sao các ngân hàng phá sản? Nguyên nhân thất bại và bị mua lại các ngân hàng
tại Mỹ.
Nghiên cứu này nhằm xác định các nguyên nhân dẫn đến sự thất bại và nguy cơ bị
mua lại của các ngân hàng tư nhân tại Mỹ. Tác giả sử dụng thông tin ngân hàng để ước
lượng mô hình cạnh tranh-rủi ro. Tác giả nhận thấy các ngân hàng có Tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/
Tổng tài sản thấp dẫn đến việc một ngân hàng dễ dàng bị mua lại nhiều hơn.
Hệ thống ngân hàng Mỹ đang trong thời kỳ quá độ. Từ giữa những năm 1930 qua
các năm 1970, lợi nhuận ngân hàng vẫn ổn định, môi trường pháp lý và công nghệ trong đó
hoạt động ngân hàng ít có sự thay đổi. Kể từ năm 1980, những thay đổi quan trọng đã tăng
cạnh tranh và bắt đầu làm thay đổi cơ cấu thị trường của ngành ngân hàng. Số lượng ngân
hàng Mỹ đã giảm mạnh kể từ năm 1985, ban đầu do những thất bại, nhưng nhiều thời gian
gần đây vì một số lượng lớn mua lại và sáp nhập. Chúng tôi đã tìm cách để xác định các
đặc tính của các ngân hàng thoát khỏi ngành công nghiệp thông qua hoặc thất bại hoặc mua
lại, đặc biệt tập trung vào sự kém hiệu quả quản lý như thế nào có thể ảnh hưởng đến khả
năng của một trong hai kết quả.
Chúng ta thấy, không đáng ngạc nhiên, các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ các ngân
hàng có tỷ lệ cho vay trên tài sản cao và danh mục cho vay kém chất lượng, và các ngân
hàng có thu nhập thấp có nhiều nguy cơ thất bại.
4. Déjà Vu All Over Again: The Causes of U.S. Commercial Bank Failures This Time Around
Rebel A. Cole&Lawrence J. White
Nguyên nhân thất bại của các ngân hàng Thương mại tại Mỹ trong thời gian gần đây.
Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích các nguyên nhân thất bại của các Ngân hàng
thương mại tại Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Kết quả nghiên cứu cho thấy

kết quả tương đồng về các yếu tố của hệ thống Camels –“ Hệ thống phân tích CAMELS
được áp dụng nhằm đánh giá độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng.
An toàn được hiểu là khả năng của ngân hàng bù đắp được mọi chi phí và thực hiện được
các nghĩa vụ của mình và được đánh giá thông qua đánh giá mức độ đủ vốn, chất lượng tín
dụng và chất lượng quản lý. Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS dựa trên 6 yếu tố cơ bản được
sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, đó là: Mức độ an toàn vốn, Chất lượng
tài sản có, Quản lý, Lợi nhuận, Thanh khoản và Mức độ nhạy cảm thị trường”. Các khoản
đầu tư bất động sản là nguyên nhân chính dẫn đến các thất bại và đóng cửa của Ngân hàng
thương mại vào năm 2009, cũng giống như nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
5


năm 1985-1992.
Failure*i,2009 = βt’ Xi, 2009 - t + μi, t , t = 1, 2, . . . , 5
X i, 2009 - t là bộ các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng i vào cuối năm;
t: năm thứ t trước năm 2009
Kết quả nghiên cứu hỗ trợ cho phương pháp CAMELS để đánh giá sự an toàn và
lành mạnh của các ngân hàng thương mại, đặt ra câu hỏi về mức độ nghiêm trọng
của rủi ro pháp lý và giới hạn tỷ lệ các khoản cho vay bất động sản của các ngân hàng
thương mại.
1. An toàn vốn
CAPAD = Tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản
2. Chất lượng tài sản
A1 = Tổng dư nợ cho vay/tổng tài sản.
A2 = Dư nợ cho vay bất động sản/tổng dư nợ cho vay
A3 = Tài sản bất động sản khác/tổng tài sản
A4 = Thu nhập (không bao gồm thu nhập cho vay)/tổng tài sản
A5 = Dư nợ cho vay thương mại và công nghiệp/tổng dư nợ cho vay
A6 = Nợ xấu/Tổng tài sản
3. Quản lý

M1 = Chi phí không hiệu quả
M2= Chênh lệch đầu vào không hiệu quả kỹ thuật
M3 = 1/ Chênh lệch đầu ra không hiệu quả kỹ thuật
4. Thu nhập
EARN = Thu nhập ròng sau thuế/tổng tài sản
5. Thanh khoản
LIQ = (Quỹ tiền mua vào – Quỹ tiền bán ra)/tổng tài sản.
6. Các yếu tố khác
SIZE = log của tổng tài sản.
HOLD = 1 nếu công ty sở hữu nhiều ngân hàng nắm giữ từ 25% cổ phần ngân hàng; ngược lại
là 0
BR1 = 1 nếu ngân hàng có trụ sở tại quốc gia cho phép hạn chế chi nhánh; ngược lại là 0
BR2 = 1 nếu ngân hàng có trụ sở tại quốc gia cho phép không hạn chế chi nhánh; ngược lại là
6


0
AGE = log tuổi của ngân hàng.

3 Bài nghiên cứu của Arena trong sự thất bại của ngân hàng được nghiên cứu trong khu
vực Mỹ La Tinh và các quốc gia Châu Á
Bài viết này sử dụng dữ liệu là các ngân hàng từ các cuộc khủng hoảng ngân hàng gần
đây ở Đông Á và Mỹ La tinh để giải quyết hai câu hỏi: (1) Giải thích về mức độ và điều
kiện dẫn đến sự thất bại ngân hàng. (2) Về nguyên tắc cơ bản, có phải chủ yếu là sự thất
bại của các ngân hàng yếu kém là nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng ở 2 khu
vực này? Kết quả cho thấy rằng đối với hai khu vực, nguyên tắc cơ bản, cấp độ của
ngân hàng ảnh hưởng đáng kể khả năng sụp đổ cho các ngân hàng này và những cú sốc
có hệ thống (cả kinh tế vĩ mô và thanh khoản) gây ra các cuộc khủng hoảng chủ yếu là
sự mất ổn định ở các yếu ngân hàng yếu kém, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, trong
đó đặt ra câu hỏi về sự khác biệt về mức độ khả năng phục hồi ngành ngân hàng với các

cú sốc hệ thống trong tài chính và môi trường kinh tế vĩ mô.
4 Chung-Hua Shen và Men – Fen Hsieh: Dự đoán sự phá sản của ngân hàng bằng cách
sử dụng những yếu tố vi mô và vĩ mô.
Tóm tắt: Mặc dù có rất nhiều bằng chứng cho thấy cuộc khủng hoảng ngân hàng mang
lại nhiều thay đổi trong cả hai yếu tố vi mô và vĩ mô. Rất ít nhà khoa học đã tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm trong đó có hệ thống kiểm tra những đóng góp đồng thời của
những thay đổi này. Nghiên cứu này kết hợp cách tiếp cận vi mô và vĩ mô, do đó đặt ra
một hệ thống cảnh báo sớm, có thể giám sát các ngân hàng gặp khủng hoảng trong năm
quốc gia châu Á khủng hoảng ảnh hưởng nghiêm trọng, cụ thể là, Indonesia, Malaysia,
Thái Lan, Hàn Quốc và Philippines. Đặc biệt bài nghiên cứu này đã đưa vào nghiên cứu
về cơ cấu sở hữu trong ngân hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh
Đầu tiên là cách tiếp cận vi mô, xem xét dữ liệu về những ngân hàng cụ thể để nỗ lực
giải thích lý do tại sao họ đã thất bại. Xác suất của ngân hàng bị thất bại chủ yếu phụ
thuộc vào việc thực hiện kinh doanh trong ngân hàng: sự sai phạm trong khâu kế toán
và kiểm toán, thiếu kiểm soát nội bộ và quản lý yếu kém, trong số những người khác.
Và tác giả đã đưa ra giải pháp bằng cách sử dụng bộ điều chỉnh CAMEL để theo dõi
7


các yếu tố dự báo vi mô của ngân hàng đổ vỡ.
Các cách tiếp cận vĩ mô, hệ thống cảnh báo thứ hai, nghiên cứu được sử dụng để dự
đoán một ngân hàng khủng hoảng. Các yếu tố liên quan đến những yếu tố vĩ mô tác
động đến khủng hoảng được nghiên cứu đầu tiên, bởi Demirgüç-Kunt và Detragiache
(1998), được coi là vai trò của các biến số kinh tế vĩ mô và thể chế tại 65 nước công
nghiệp và các nước đang phát triển. Họ phát hiện ra rằng nguy cơ của một cuộc khủng
hoảng ngân hàng được nâng cao bởi sự mất cân bằng vĩ mô (tăng trưởng chậm, sự bùng
nổ tín dụng) và kỷ luật thị trường trung bình (bảo hiểm tiền gửi không đúng luật, tự do
hóa nhanh). Với khả năng tiếp cận các dữ liệu vĩ mô, nghiên cứu xuyên quốc gia đã phổ
biến nhất được tiến hành. Liên quan đặc biệt một cuộc khảo sát các nghiên cứu đã sử

dụng phương pháp tiếp cận vĩ mô gần đây đã được cung cấp bởi Eichengreen và Arteta
(2000) và những nghiên cứu rõ ràng trỏ đến một nhu cầu để phân biệt mạnh mẽ từ các
chỉ số vĩ mô mỏng manh, nơi mà trước đây vẫn không thay đổi mặc dù bất kỳ đặc điểm
kỹ thuật thay đổi, nhưng sau này nói chung là khó nắm bắt và nhạy cảm với thiết kế mô
hình.

5. Những trường hợp phá sản kinh điển trên thế giới
4.1 Lehman Brothers
Trong giai đoạn phát triển nóng của thị trường tín dụng và nhà đất ở Mỹ, các ngân
hàng đầu tư ở Mỹ đã thu được rất nhiều lợi nhuận thông qua nghiệp vụ chứng khoán
hóa các khoản vay bất động sản. Nhưng khi khủng hoảng xảy ra thì rủi ro tín dụng từ
các loại chứng khoán này đã khiến các ngân hàng bị thua lỗ nặng nề. Hậu quả là trong
5 ngân hàng đầu tư lớn ở phố Wall, Bear Stearns và Merrill Lynch đã bị ngân hàng
khác mua lại, Morgan Stanley và Goldman Sachs thì buộc phải chuyển sang hình thức
ngân hàng đa năng, nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ngân hàng Lehman Brothers
khi ngân hàng này buộc phải nộp đơn xin phá sản vào ngày 15 tháng 9 với khoản thua
lỗ lên đến 613 tỷ USD. Đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử ngân hàng Mỹ.
Lehman Brothers được thành lập năm 1850 bởi anh em nhà Lehman, sau đó sát
nhập với American Express năm 1969 rồi lại tách ra năm 1994. Lehman Brothers là
một định chế tài chính hoạt động trên các lĩnh vực chủ yếu là: đầu tư cổ phiếu, trái
phiếu và thu nhập cố định (fixed income); ngân hàng đầu tư; quản lý quỹ. Thế mạnh
của Lehman Brothers là thị trường trái phiếu và tín dụng bất động sản. Năm 2007, tổng
doanh thu của họ đạt 59 tỷ, trong đó doanh thu từ lãi và cổ tức chiếm đến 70%.
8


Biểu đồ: Biến động giá cổ phiếu của Lehman năm 2007-2008
Đơn vị: USD

Nguồn: BigCharts.com

Kết cục của Lehman đã được biết từ trước khi vào ngày 09 tháng 09 năm 2008,
những đàm phán với Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc đã chính thức thất bại và ngay
lập tức các nhà đầu tư đã bán tháo cổ phiếu khiến giá cổ phiếu sụt giảm 42% chỉ trong
một ngày. Phương án đàm phán với Bank of America (BOA) và Barclays của Anh
cũng chính thức thất bại ngày 14 tháng 09, kết thúc mọi nỗ lực cứu vãn tình thế. Chỉ
trong vòng một năm, dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, giá cổ phiếu của
tập đoàn trị giá trên 600 tỷ USD này đã giảm từ 67 USD/cổ phiếu xuống chỉ còn 0,21
USD/cổ phiếu. Trong 6 tháng đầu năm, Lehman đã công bố khoản lỗ 6,7 tỷ USD. Thua
lỗ nặng nề với khoảng nợ 613 tỷ USD, Lehman Brothers đã buộc phải nộp đơn phá sản
với tổng tài sản được định giá thanh lý chỉ là 1,75 tỷ USD. Sự sụp đổ của Lehman bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân, song có thể tổng hợp lại ở bốn nhóm nguyên nhân chính:
các quyết định kinh doanh rủi ro, sai lầm trong cách thức giải quyết khủng hoảng, sự
cứng rắn của FED và hành động bán khống của các nhà đầu tư.
Các quyết định kinh doanh rủi ro
Nguyên nhân đầu tiên khiến ngân hàng bị sụp đổ là do Lehman đã đi vay quá
nhiều vốn và dùng phần lớn khoản tiền này cho những vụ đầu tư vào các loại tài sản có
rủi ro lớn để thu được lợi nhuận cao.
Mùa hè năm 2007, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường phố
Wall, Dick Fuld - giám đốc điều hành của ngân hàng khẳng định đó chỉ là những rắc
rối ngắn hạn và những công ty dám chấp nhận rủi ro lớn sẽ là những người thu lợi lớn
khi khủng hoảng chấm dứt. Do đó Lehman đã tăng gấp đôi số tiền đầu tư vào các loại
chứng khoán phái sinh phát hành dựa trên các khoản vay thế chấp. Còn vào tháng 10
năm 2007, giữa lúc giá nhà ở Mỹ giảm mạnh, ngân hàng đã bỏ ra tới 22,2 tỷ USD để
mua lại một công ty đầu tư phát triển nhà chung cư lớn là Archstone. Vụ làm ăn này
ngay lập tức đã đem lại thua lỗ. Đó là những sai lầm quá lớn. Và từ đó trở đi, Lehman
liên tục thua lỗ nặng nề. Cùng với đà leo thang của cuộc khủng hoảng, các loại chứng
9


khoán này liên tục sụt giá và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh khoản của

Lehman Brothers.
Sai lầm trong cách thức giải quyết khủng hoảng
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tín dụng đã khiến hàng loạt các tổ chức tên tuổi
gặp khủng hoảng. Các ngân hàng đều phải gánh chịu các khoản lỗ nặng nề với tổng số
tiền lên đến hàng trăm tỷ USD. Nhưng chỉ có Lehman buộc phải tuyên bố phá sản là vì
cách thức giải quyết khủng hoảng thiếu sáng suốt và thiếu quyết đoán của ban lãnh đạo
ngân hàng. Lehman đã không ít hơn ba lần bỏ qua cơ hội tự cứu mình.
Cơ hội thứ nhất là cơ hội tăng vốn khi sau khi Bear Stearns bị quốc hữu hóa.
Lehman đã tiến hành tăng vốn vào đầu tháng 4 năm 2008 để chuẩn bị cho việc đối đầu
với khủng hoảng. Lehman đã huy động thêm 4 tỷ USD vốn thông qua phát hành cổ
phiếu ưu đãi. Mặc dù tỷ lệ đăng ký mua cổ phiếu của các nhà đầu tư rất cao, vượt qua
con số 4 tỷ cần huy động nhưng ngân hàng đã từ chối phát hành thêm và cho rằng
như thế là đủ. Cơ hội thứ hai cũng là cơ hội tăng vốn sau khi báo cáo kết quả quý II
năm 2008 bị lỗ 2,8 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên ngân hàng báo cáo kết quả kinh doanh
lỗ từ khi niêm yết. Ngay lập tức, Lehman tiến hành huy động thêm 6 tỷ USD vốn trong
đó có 4 tỷ USD cổ phiếu phổ thông và 2 tỷ USD cổ phiếu ưu đãi nhằm bù đắp số lỗ
quý II. Lần này, tỷ lệ đăng ký mua cổ phiếu cũng rất cao, song Lehman lại một lần
nữa đã từ chối không phát hành thêm chứng khoán. Cơ hội thứ ba là khi kết quả quý
III chuẩn bị đến ngày công bố và thị trường cho rằng số lỗ sẽ là 4 tỷ USD. Lần này, ban
lãnh đạo ngân hàng thực sự nhận ra sự nghiêm trọng và tiến hành tìm nhà đầu tư chiến
lược để bán 25% ngân hàng. Đồng thời Lehman cũng đưa ra hàng loạt kế hoạch tái cơ
cấu bao gồm: bán một phần mảng quản lý tài sản để tăng tiền mặt, chia tách ngân hàng
thành 2 công ty (spin off), công ty tốt và công ty xấu. Dự kiến công ty xấu sẽ nắm giữ
toàn bộ các tài sản xấu liên quan đến bất động sản và không niêm yết nhằm tránh áp
dụng kế toán giá trị hợp lý. Cuộc đàm phán với Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc
(KDB) đáng lẽ ra có thể thành công song Lehman đã không làm được điều đó do bất
đồng về giá. Vậy là Lehman đã bỏ qua cơ hội thứ ba để cứu vãn tình hình.
Sự cứng rắn của FED
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan trên, Lehman buộc phải phá sản còn vì
ngân hàng đã không nhận được sự giúp đỡ từ phía FED. Trong vòng 6 tháng từ tháng 3

đến tháng 9 năm 2008, FED đã cứu ngân hàng Bear Stearns bằng cách cung cấp 29 tỷ
USD cho JP Morgan để mua Bear, cứu Fannie và Freddie bằng cách tiếp quản trực
tiếp, cứu AIG bằng việc tung ra 85 tỷ USD để mua 80% cổ phần, nhưng FED đã không
làm như vậy để BOA hoặc Barclays mua lại Lehman. Lehman và Bear có nhiều điểm
tương đồng vì đều là ngân hàng đầu tư, do đó việc cứu Bear mà không cứu Lehman là
do vấn đề thời điểm.
Thứ nhất, sau khi Bear sụp đổ, chính phủ Mỹ đã có dịch vụ cho vay chiết khấu dựa
trên tài sản đảm bảo (discount window) nhằm cung cấp vốn cho ngân hàng đầu tư gặp
khó khăn thanh khoản. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Lehman không phải là do thanh
10


khoản nên chính sách này không thể giúp gì cho ngân hàng. Thứ hai, Lehman gặp khó
khăn đúng lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cùng Merrill Lynch, Washington
Mutual, AIG. Vấn đề rủi ro đạo đức trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết vì nếu cứu tất
cả, chính phủ sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu, khuyến khích các tập đoàn tham gia vào các
hoạt động có rủi ro cao. Chính phủ muốn khối tư nhân hiểu rằng họ phải tự giải quyết
vấn đề của chính họ và cần có một tổ chức không nhận được sự hỗ trợ từ FED để thị
trường hiểu được điều này. Hơn nữa, đây là thời điểm rất nhạy cảm vì đã gần tới cuộc
bầu cử ở Mỹ, khủng hoảng tài chính trở thành vấn đề tranh luận giữa hai ứng cử viên
tổng thống. Việc dùng tiền thuế của người dân đi giải cứu các tập đoàn tài chính cần có
một lý do thuyết phục cao. Do đó, sự hy sinh lúc này là cần thiết cho thị trường nhưng
cần phải chọn ra tổ chức nào có ít ảnh hưởng tới xã hội nhất.
Fannie và Freddie với tư cách là hai tập đoàn hoạt động được chính phủ bảo lãnh
nhằm cung cấp tín dụng bất động sản cho người dân nên hai tập đoàn này không thể bị
sụp đổ. AIG là tập đoàn bảo hiểm lớn, cung cấp hàng triệu hợp đồng bảo hiểm cho
người dân với số tài sản khổng lồ trên 1000 tỷ USD, nên AIG cũng không phải là lựa
chọn thích hợp. Sự lựa chọn tốt nhất của chính phủ là ép khối tư nhân phải tự cứu
Lehman. Và khi điều này không thành công thì đương nhiên Lehman buộc phải phá
sản.

Hoạt động bán khống
Ngoài ba nguyên nhân trên, sự sụp đổ của Lehman còn do sự tàn nhẫn của thị
trường khi cổ phiếu của ngân hàng này bị bán khống. Các nhà đầu tư đã thực hiện bán
khống vì dự đoán rằng cổ phiếu của ngân hàng này sẽ giảm giá mạnh. Việc bán khống
được thực hiện thông qua việc vay cổ phiếu để bán trước và mua quyền bán cổ phiếu.
Tuy việc bán khống không có gì là sai nhưng nó chính là nguyên nhân tạo ra các tin
đồn sai sự thật nhằm hạ giá cổ phiếu Lehman. Điều này làm mất lòng tin của thị trường
vào Lehman và đẩy ngân hàng dần rơi vào thế bất lợi.
Từ khi Lehman công bố kết quả lỗ quý II thì các hoạt động bán khống bắt đầu diễn
ra mạnh mẽ. Cổ phiếu ngân hàng giảm thấp hơn rất nhiều so với giá trị ghi sổ là 30
USD. Vào tháng 7 năm 2008, cổ phiếu của Lehman chỉ còn 15 USD tương đương với
mức vốn hóa 10 tỷ.
Sự sụp đổ của Lehman đã gây ảnh hưởng lớn cho thị trường tài chính. Một làn
sóng khủng hoảng niềm tin lan rộng ra toàn cầu và tạo ra làn sóng bán tháo chứng
khoán. Hàng loạt các đối tác cung cấp vốn cho Lehman kể cả các cổ đông đã phải chịu
những tổn thất nặng nề. Với quy mô tài sản trên 600 tỷ và hàng ngàn tỷ USD hợp đồng
phái sinh, việc thanh lý tài sản trở nên vô cùng khó khăn và làm giá chứng khoán, bất
động sản càng thêm suy giảm. Từ mức vốn hóa 45 tỷ USD vào thời điểm năm 2007,
giờ đây giá trị Lehman gần như về con số 0. Các cổ đông mới đầu tư 10 tỷ vào
Lehman sẽ không thể thu hồi lại được vốn. Và với việc Barclays chỉ tiếp quản một
phần hoạt động của Lehman khi phá sản thì 25.000 nhân viên của tập đoàn đã phải lâm
vào cảnh thất nghiệp.

4.2 IndyMac
11


Tại thời điểm vào tháng 07 năm 2008, Indymac là ngân hàng lớn nhất được FDIC
bảo hiểm bị sụp đổ kể từ năm 1984.
Biểu đồ: Biến động giá cổ phiếu của Indymac năm 2007-2008

Đơn vị: USD

12


Nguồn: BigCharts.com
Indymac Bank được sáng lập vào năm 1985 với vai trò là một bộ phận của
Countrywide. Ngân hàng có trụ sở chính ở thành phố Pasadena, bang California và
địa bàn hoạt động chính là ở bang này. Ngân hàng bắt đầu cho vay thế chấp nhà ở
vào những năm 1990 và trở nên độc lập hoàn toàn vào năm 1997. Trong thời kỳ
bùng nổ của thị trường nhà ở và xây dựng ở Mỹ, ngân hàng đã phát triển rất nhanh
chóng. Trong khoảng thời gian từ năm 2001 - 2006, lợi nhuận của Indymac đã tăng
gấp ba lần. Sản phẩm đặc biệt của ngân hàng này là các khoản vay loại Alt-A dành
cho những người có tiền sử tín dụng tốt. Khách hàng là những người muốn mua
nhà mà không cần phải cung cấp nhiều thông tin, hoặc thậm chí không phải cung
cấp một thông tin nào về thu nhập hoặc tài sản ngoài ngôi nhà mà họ sẽ mua. Khi
giá nhà tăng cao, các khoản vay này hầu như chẳng gây ra vấn đề gì cho IndyMac.
Nếu một người mua nhà không có khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ tịch thu ngôi nhà
và bán được với giá cao hơn so với khoản vay. Ngân hàng này cũng có thể tìm
được các nhà đầu tư sẵn sàng mua lại các loại chứng khoán được chứng khoán
hóa từ các khoản vay này. Cũng như nhiều chuyên gia tài chính khác ở phố Wall,
Ban giám đốc ngân hàng chưa bao giờ nghĩ rằng giá nhà đất sẽ hạ. Vì vậy Indymac
đã tiến hàng cho vay rất nhiều với kỳ vọng thu được lợi nhuận lớn nhờ giá nhà đất
liên tục tăng.
Tuy nhiên, khi thị trường bất động sản đóng băng và giá nhà bắt đầu giảm
mạnh thì những khoản thua lỗ của IndyMac cũng bắt đầu tăng cao. Hơn nữa, trong
hoàn cảnh thị trường chứng khoán hóa tê liệt, ngân hàng đã không còn có thể huy
động được vốn cho các khoản vay mới. Trong khi đó, Ban giám đốc của Indymac
13



đã nhìn ra những vấn đề của ngân hàng quá muộn. Cho đến tận tháng 2/2008,
giám đốc điều hành của ngân hàng - Micheal Perry vẫn cho rằng ngân hàng sẽ trụ
vững trong sự đi xuống của thị trường nhà đất và có thể thu được lợi nhuận trong
năm 2009. Do đó, năm 2007, ngân hàng này đã lỗ khoảng 614 triệu USD và trong
quý I năm 2008, IndyMac cũng đã lỗ khoảng 184,2 triệu USD. Những khoản lỗ
này chủ yếu là do ngân hàng đã quá tập trung vào lĩnh vực cho vay thế chấp với
các khoản vay Alt-A. Trong vòng hai năm 2006 - 2008, cổ phiếu của IndyMac đã
mất 95% giá trị tương đương với khoảng 3,5 tỷ USD giá trị vốn hóa thị trường. Ở
thời điểm thứ sáu ngày 04 tháng 08 năm 2008, giá cổ phiếu của IndyMac chỉ còn
0,28 USD/cổ phiếu.
Indymac không đầu tư nhiều vào loại hình cho vay dưới chuẩn. Tuy nhiên, số
vụ vỡ nợ tăng cao ở những khoản vay Alt-A và những khoản vay đạt chuẩn cũng
đủ để khiến cho ngân hàng này gặp khủng hoảng. Trước tình hình trên, các nhà
lãnh đạo của ngân hàng đã cố gắng tìm mọi biện pháp cải thiện tình hình khi họ
tiến hành thương lượng với các nhà đầu tư để tìm một tổ chức mua lại ngân hàng,
đồng thời họ cũng bắt đầu bán các bộ phận khác nhau của ngân hàng. Nhưng cho
đến tháng 6/2008, Ban giám đốc vẫn không tìm được tổ chức nào thích hợp, họ
đành phải lên kế hoạch đóng cửa bộ phận cho vay thế chấp và sa thải một nửa số
nhân viên.
Trong khi tình hình hoạt động của ngân hàng ngày một xấu đi thì vào ngày
26/06, Thượng nghị sỹ đảng Dân chủ bang New York - ông Charles Schumer đã
công bố bức thư gửi cho OTS và FDIC có liên quan đến những nghi vấn của ông
về khả năng tài chính của Indymac. Mặc dù ngài Thượng nghị sỹ cũng trấn an dư
luận rằng Ban giám đốc ngân hàng vẫn làm chủ được tình hình song lòng tin của
người dân vào ngân hàng này đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngay sau đó, khách
hàng của Indymac đã đổ xô đến ngân hàng để rút tiền. Tính đến ngày 11/7, ngân
hàng đã bị rút khoảng 1,3 tỷ và lâm vào tình trạng khủng hoảng thanh khoản. Vì
thế OTS đã buộc phải ra lệnh phong tỏa ngân hàng và giao cho FDIC tiếp quản.
Sau khi bị phong tỏa, toàn bộ cơ sở, chi nhánh, điểm giao dịch của Indymac đã

lần lượt được bàn giao lại cho FDIC. Giám đốc điều hành - Micheal Perry đã phải
từ chức và được thay thế bằng một quan chức của FDIC. Ngân hàng cũng được đổi
tên thành Indymac Federal Bank. Các cá nhân, tổ chức gửi tiền tiết kiệm tại ngân
hàng dưới 100.000 USD sẽ được FDIC trả lại toàn bộ ngay. Còn nếu gửi trên
100.000 USD thì sẽ được trả thêm 50% số tiền vượt trên mức 100.000. Có tới 95%
trong tổng số tiền gửi tiết kiệm 19 tỷ USD của khách hàng được bảo hiểm nhưng
vẫn còn 1 tỷ USD nằm trong diện không được bảo hiểm do đó sẽ có khoảng
10.000 khách hàng mất mất tổng số tiền là 500 triệu USD. FDIC đã phải chi trên 8
tỷ USD cho vụ tiếp quản này.

4.3 Washington Mutual
Tháng 9 năm 2008, trong lúc các nhà lập pháp Hoa Kỳ tranh luận với nhau về
14


kế hoạch giải cứu nền kinh tế trị giá 700 tỷ USD thì một trong các ngân hàng lớn
nhất nước này là Washington Mutual (WaMu) đã bị sụp đổ dưới sức nặng của
những khoản đầu tư thất bại trên thị trường tín dụng nhà đất. Đây là vụ sụp đổ
ngân hàng tiết kiệm lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ngân hàng với tổng tài sản
lên đến 307 tỷ USD này đã bị phong tỏa khi tỷ lệ nợ xấu lên đến mức cực kỳ nguy
hiểm.
Biểu đồ: Biến động giá cổ phiếu của WaMu năm 2007-2008
Đơn vị:USD

Nguồn: BigCharts.com
Ngày 25 tháng 09, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) thuộc Chính
phủ Mỹ đã tuyên bố phong tỏa tài sản của WaMu và sau đó bán lại các khoản vốn
huy động của ngân hàng này cho JP Morgan Chase. Giá vụ chuyển nhượng là 1,9
tỷ USD. Vụ sụp đổ này đã trở thành vụ sụp đổ của một ngân hàng lớn nhất được
FDIC bảo hiểm từ năm 1984 đến nay khi vượt qua vụ Continental Illinois Bank

(tài sản 40 tỷ) năm 1984 và IndyMac (tài sản 32 tỷ) vào tháng 7 năm 2008.
WaMu ra đời vào năm 1984 và đặt trụ sở tại thành phố Seattle thuộc tiểu bang
Washington. Vào thời kỳ đỉnh cao, tập đoàn này có tới hơn 49.400 nhân viên làm
việc tại hơn 2.300 cơ sở. Khi nước Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng tín dụng nhà
đất, bắt đầu từ cuối năm 2005, thì WaMu cũng bị ảnh hưởng theo. Tổ chức tài
chính này đã thực hiện hàng loạt các biện pháp cải tổ để tồn tại như thay đổi nhân
sự, cắt giảm nhân viên, đóng cửa các cơ sở làm ăn thua lỗ. Tuy nhiên, tình hình
không những không khả quan hơn mà ngược lại càng trở nên tồi tệ do các khoản
nợ khó đòi và chứng khoán mất giá trong lĩnh vực tín dụng nhà đất cứ gia tăng
trong khi khách hàng gửi tiết kiệm cứ đổ xô tới rút tiền. Cuối năm 2007, tổng tài
sản của WaMu là 327,9 tỷ nhưng đến ngày 30 tháng 06 năm 2008, tổng tài sản của
15


ngân hàng này đã giảm tới 10,6%. Chỉ trong vòng một năm, cổ phiếu của WaMu
đã giảm từ 36,47 USD xuống còn 1,54 USD vào ngày 17 tháng 9 năm 2008. Từ
ngày 15 đến ngày 25 tháng 09, khách hàng đã rút tới 16,7 tỷ USD khỏi WaMu. Vì
thế, ngày 25 tháng 09, Văn phòng Giám sát tiết kiệm thuộc Bộ Tài chính Mỹ đã ra
tuyên bố: “Với khả năng thanh toán tiền mặt yếu kém, WaMu đang ở trong tình
trạng không an toàn để hoạt động”. Và FDIC đã quyết định phong toả ngân hàng
tiết kiệm lớn nhất nước Mỹ này.
Việc JP Morgan mua lại WaMu cũng giống như sự sát nhập của hai ngân hàng
và khách hàng vẫn được đảm bảo quyền lợi từ sự chuyển giao này. Tuy nhiên, sau
khi việc phong tỏa ngân hàng xảy ra thì các cổ đông của WaMu sẽ không nhận
được gì cả, trong đó có những cổ đông như quỹ đầu tư TPG đã mất đến 2 tỷ USD.
Theo sau những vụ việc liên quan đến các tổ chức tài chính khổng lồ như Bear
Stearns, Fannie Mae, Freddie Mac, AIG, Lehman Brothers, Merrill Lynch…, sự
sụp đổ của WaMu cho thấy thời điểm đó, thị trường tài chính Mỹ đang ở trong giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng và không biết bao giờ thì kết thúc…
4.4 Bài học kinh nghiệm

• Lạm dụng đòn bẩy thường là chiến lược mang nhiều rủi ro

Đòn bẩy tài chính là biện pháp sử dụng tiền đi vay để đầu tư vào tài sản. Tuy
nhiên, phương pháp này là một con dao hai lưỡi, bởi ngoài khả năng khuếch đại lợi
nhuận khi giá cả trên thị trường tăng lên, nó cũng tiềm ẩn những khoản lỗ khổng lồ
khi giá cả sụt giảm trên thị trường.
Lạm dụng đòn bẩy là một trong những yếu tố tạo nên hiện tượng bong bóng nhà
đất tại Mỹ năm 2001-2006 cũng như sự đổ vỡ sau đó của nó vào năm 2007. Bong
bóng nhà đất được thổi bùng bởi sự gia tăng mạnh mẽ của các khoản vay dưới
chuẩn. Nguyên nhân của sự tăng vọt này là do lãi suất khởi điểm thấp và khoản đặt
cọc tối thiểu đã làm mờ mắt những người đi vay có điểm tín dụng thấp, khiến họ đổ
xô vào thị trường nhà đất. Ngoài ra, hành vị lạm dụng đòn bảy của các ngân hàng
cũng rất dễ nhận thấy, bởi năm ngân hàng đầu tư lớn nhất tại Mỹ đã tăng đáng kể tỷ
lệ đòn bảy giữa những năm 2003 và 2007 và dùng số tiền đi vay khổng lồ đó để đầu
tư vào chứng khoán có bảo đảm bằng tài sản thế chấp (mortgage-backed securities).
Lehman là trường hợp điển hình cho những nguy cơ của việc lạm dụng đòn bẩy.
Việc Lehman tham gia vào thị trường thế chấp dưới chuẩn ban đầu đem lại lợi
nhuận theo như công ty này báo cáo hàng năm từ 2005 đến 2007 là lợi nhuận kếch
xù. Nhưng cho đến năm 2007, tỷ lệ đòn bảy tăng cao tới mức đáng báo động và
cùng lúc đó, Lehman đang là tập đoàn bảo lãnh phát hành chứng khoán có đảm bảo
bằng tài sản thế chấp hàng đầu tại phố Wall với tổng danh mục vốn đầu tư lên tới 85
tỷ đô la Mỹ. Năm 2007, tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần của cổ đông lên tới 31
vào, nghĩa là mỗi đô la tài sản trên bảng cân đối kế toán chỉ được bảo đảm bởi ba
cent vốn cổ phần.
Những nhóm đầu cơ bất động sản ở Mỹ cũng đã lạm dụng đòn bảy trong thời kì
bong bóng nhà đất bằng việc rút vốn từ thị trường nhà ở dân cư để đầu cơ vào
16


những bất động sản đang hot. Cũng như Lehman, thành công ban đầu khiến họ bất

chấp rủi ro, nhưng rốt cuộc, họ không còn cách nào khác ngoài việc bán tháo bởi thị
trường nhà đất chỉ trong nháy mắt đã xóa sổ lớp đệm vốn tối thiểu của họ.
Không ai trong số những bên liên quan, người đi vay dưới chuẩn, nhà đầu cơ
bất động sản hay ngân hàng đầu tư, lường trước được điều gì sẽ xảy đến. Toàn bộ
chiến lược đầu cơ của họ có thể đã được tính toán trước để có thể thoái vốn đầu tư
khi diễn biến vẫn tốt đẹp hay nói cách khác, rút vốn khi chưa có biến động gì xảy
ra. Nhưng sự điều chỉnh của thị trường xảy ra nhanh và sâu sắc hơn so với dự đoán
của nhà đầu cơ đồng thời tỷ lệ đòn bảy quá cao thường sẽ làm mất sự linh hoạt của
những người đi vay vào.
Bài học ở đây là một tỷ lệ đòn bẩy hợp lý thì không đáng lo ngại nhưng lạm
dụng đòn bẩy nhìn chung mang nhiều rủi ro cho hầu hết các nhà đầu tư cá nhân. Vì
vậy, hãy dành ra một khoản vốn đủ lớn để làm bảo đảm khi mua một tài sản hoặc
khi đầu tư dù cho đó là nhà ở, bất động sản cho thuê hay danh mục cổ phiếu.
• Duy Trì Tốt Tính Thanh Khoản
Đánh giá và quản trị hiệu quả rủi ro thanh khoản: Ban lãnh đạo phải có cái nhìn
hàng ngày về vị thế đầu tư, quan điểm về rủi ro thanh khoản, cũng như có kế hoạch
ứng phó với tình hình thanh khoản của các loại tài sản nhằm đảm bảo khả năng
thanh toán và an toàn tài chính.
Washington Mutual đã bị buộc phải phá sản khi mà các khách hàng của ngân
hàng này đồng loạt rút tiền (chiếm tới 9% lượng tiền gửi) trong khoảng 10 ngày vào
tháng 9 năm 2008. Sau sự phá sản của Lehman Brothers và gần sụp đổ của AIG,
Fannie Mae và Freddie Mac, thị trường tín dụng gần như đóng băng vào thời điểm
đó. Khối lượng và tốc độ của dòng tiền gửi rút ra từ Washington Mutual đã khiến
ngân hàng này không kịp trở tay trong việc tìm kiếm nguồn vốn mới, cải thiện tính
thanh khoản cũng như tìm đối tác góp vốn cổ phần.
Bài học rút ra là tiền mặt thường bị coi là sự cản trở trong thị trường giá lên
(bull market) nhưng nó lại là “vua” trong những thời điểm khó khăn của thị trường.
Vì vậy, bạn nên duy trì tính thanh khoản ở mức tốt tại mọi thời điểm để có thể ứng
phó với mọi trường hợp bất trắc, ví dụ như, đột ngột mất việc hay phải đi cấp cứu.
Doanh nghiệp phải hiểu và giám sát rủi ro từ đối tác, rủi ro thị trường và rủi ro tín

dụng, đặc biệt là các rủi ro liên quan đến các giao dịch phái sinh hay repo.
6. Việc phá sản ngân hàng áp dụng ở VN sẽ tác động như thế nào? => Áp
dụng phá sản tại Việt Nam có được không?
• Kịch bản 1: Thị trường phản ứng tiêu cực trước sự phá sản của các Ngân hàng:
• Ngân hàng hoạt động chủ yếu vào lòng tin của người dân, những phản ứng tiêu cực
trước sự phá sản của các ngân hàng yếu kém sẽ dẫn đến việc KH ào ạt rút tiền dẫn
đến việc Ngân hàng mất khả năng thanh khoản, ảnh hưởng đến uy tín của các
TCTD khác cũng như toàn bộ thị trường tài chính.
• Hoạt động của các Doanh nghiệp bị trì trệ: Nguồn vốn cung ứng cho các doanh
nghiệp bị gián đoạn làm cho hoạt động SXKD trở nên khó khăn hơn => sản xuất trì
trệ dễ dàng dẫn đến khủng hoảng kinh tế.


17














Tình trạng tẩu tán tài sản dễ xảy ra: Việc tẩu tán tài sản trong trường hợp Ngân hàng
phá sản rất có thể xảy ra với nhiều phương thức khác nhau: (thành lập công ty con

và thực hiện cho vay,….)
Bảo hiểm tiền gửi không phát huy được tác dụng: Bảo hiểm tiền gửi không còn là
“lá chắn” nhằm bảo hiểm rủi ro của người gửi tiền, trường hợp ngân hàng phá sản,
các công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ gánh chịu hậu quả nghiêm trọng đến từ số tiền bảo
hiểm.
Kịch bản 2: Thị trường phản ứng tích cực theo hướng ủng hộ việc phá sản Ngân
hàng:
Thị trường tài chính sẽ gặp khó khăn trong một thời gian nhất định. Khó khăn đến
từ việc xây dựng lại niềm tin đối với khách hàng, xây dựng thương hiệu đối với các
Ngân hàng,…
Cần có những chính sách phù hợp thời “hậu phá sản” nhằm hạn chế những tiêu cực
có thể xảy ra cũng như chấn chỉnh những Ngân hàng TMCP khác trong hoạt động
kinh doanh nhằm tránh sự phá sản có thể tiếp diễn.
Tiết giảm được các khoản chi Ngân sách Nhà nước thay vì mua lại Ngân hàng với
giá “0 đồng”
Áp dụng phá sản tại Việt Nam có được không?
Việc phá sản 1 Ngân hàng là khái niệm khá mới tại Việt Nam, do đó, để dẫn đến
phá sản một Ngân hàng cần phải có lộ trình nhằm đảm bảo sự ổn định về pháp lý,
về tình hình phát triển kinh tế cũng như đối với tâm lý khách hàng.
Một số định hướng nhằm xây dựng lộ trình phá sản Ngân hàng:











Đánh giá cụ thể tình hình kinh tế vĩ mô trước khi đưa ra quyết định cho phá sản
ngân hàng. Trường hợp nền kinh tế Việt Nam cũng như thế giới gặp nhiều bất ổn
như hiện nay, việc cho phá sản ngân hàng sẽ dẫn đến phản ứng tiêu cực đối với thị
trường tài chính, dẫn đến hiệu ứng "donimo" gây đổ vỡ hàng loạt trong hệ thống
ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến các chính sách điều hành kinh tế quốc gia, đe
doạ đến sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tâm lý thiếu thiện cảm và cách nhìn e ngại đối với vấn đề phá sản đã được hình
thành lâu nay trong cộng đồng người dân, doanh nghiệp và cả các cơ quan thực hiện
pháp luật nên việc cho phá sản ngân hàng khó nhận được sự đồng thuận trong cộng
đồng. Vì vậy, để thực hiện phá sản, phải giải quyết được vấn đề quyền lợi người gửi
tiền, lợi ích của khách hàng trước khi tiến tới phá sản ngân hàng. Điều này sẽ làm
ổn định tâm lý của khách hàng, củng cố niềm tin đối với Hệ thống NHTM tại Việt
Nam, hạn chế tối thiểu khả năng mất thanh khoản có thể xảy ra đối với các NHTM.
Giải quyết ổn thỏa bài toán nợ xấu, xác định cụ thể vai trò và trách nhiệm của Ngân
hàng trong việc xử lý nợ xấu, tránh gây thất thoát, ảnh hưởng đến lợi ích cổ đông
cũng như ảnh hưởng đến Ngân sách Nhà nước.
Phát huy vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền (cụ thể thông qua việc
thay đổi tỷ lệ bảo hiểm tiền gửi thay vì cố định là 50 triệu đồng như hiện nay).
Xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá và có biện pháp “cảnh báo” đối với những ngân
18


hàng đứng trước nguy cơ phá sản và đánh giá lộ trình khắc phục đối với những
ngân hàng trên.
• Tóm lại, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng chứa đựng rủi ro, có thành công và
thất bại. Vì vậy, cho phép phá sản ngân hàng là một xu thế tất yếu của nền kinh tế
thị trường hiện nay. Đối với Việt Nam, để theo đuổi một nền kinh tế thị trường hoàn
thiện và lành mạnh trong tương lai, việc cho phá sản ngân hàng thương mại tại Việt
Nam là hết sức cần thiết như các nước phát triển trên thế giới đã từng. Chỉ là trước
khi cho thực hiện phá sản ngân hàng, phải có đầy đủ những điều kiện vững chắc cả

về tâm lý, hệ thống luật pháp, phản ứng của các bên liên quan, đặc biệt là của các cơ
quan quản lý cho lộ trình thực hiện và giải quyết thủ tục phá sản nhanh chóng, tinh
gọn, tránh để những tác động hay hậu quả tiêu cực trầm trọng thời kỳ hậu phá sản.

19



×