Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ NÂNG CAO NĂNG lực đấu TRANH tư TƯỞNG lý LUẬN CHO đội NGŨ GIẢNG VIÊN KHOA học xã hội ở các NHÀ TRƯỜNG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.37 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, CNXH
hiện thực tạm lâm vào thoái trào, ảnh hưởng bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới. Công cuộc đổi mới
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được nhiều thành tựu, song cũng đang phải vượt lên
những thách thức và nguy cơ to lớn. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong và ngoài nước
đang ra sức tấn công một cách tinh vi và hiểm độc vào cách mạng nước ta hòng lật đổ chế độ XHCN, xoá
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm biến đổi xã hội ta theo quỹ đạo của CNTB. Kinh tế thị trường và toàn cầu
hoá kinh tế với tất cả những mặt trái của nó đang làm cho cuộc đấu tranh ý thức hệ diễn ra hết sức quyết
liệt ở nước ta và trên thế giới. Chưa bao giờ cuộc ĐTTT-LL lại diễn ra phức tạp, gay gắt như lúc này. Trong
cuộc ĐTTT-LL để bảo vệ sự trong sáng CNM-LN và TTHCM, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng
XHCN, vai trò lãnh đạo của Đảng đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải giữ vững niềm tin khoa
học đối với mục tiêu, lý tưởng mà chúng ta đã chọn, đề cao cảnh giác cách mạng trước các luận điệu thù
địch, không bị mất phương hướng chính trị ở thời điểm bước ngoặt - điều mà V.I.Lênin coi là nguy hiểm, tệ
hại nhất, là một sự tự sát chính trị.
Muốn vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng - lý luận của Đảng, trong đó một lực lượng rất
quan trọng là các giảng viên KHXH ở các nhà trường trong và ngoài quân đội phải không ngừng nâng
cao năng lực ĐTTT-LL trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hoạt động chính trị - xã hội. Năng lực
đó giúp họ đủ sức bảo vệ học thuyết khoa học và cách mạng là CNM-LN và TTHCM - thế giới quan,
phương pháp luận, hệ tư tưởng của những người mác xít, cơ sở lý luận đem lại sự giác ngộ và niềm tin
khoa học về CNXH và chủ nghĩa cộng sản, nền tảng lý luận của Đảng ta. Năng lực đó giúp họ đủ sức phê
phán, vạch trần những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận CNM-LN, TTHCM và CNXH hiện thực của các thế
lực thù địch. Đồng thời, năng lực đó cũng giúp cho giảng viên KHXH trang bị cơ sở lý luận và thực tiễn cho
học viên để họ đủ sức tự phân tích, phê phán những nhận thức mơ hồ, không đúng đắn, biết vạch ra tính
chất phản động của kẻ thù, ngăn ngừa và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, sự dao động, bấp bênh về tư
tưởng- chính trị trong quân đội. Đương nhiên, đối tượng của ĐTTT-LL trước hết và chủ yếu là các thế lực
chống độc lập dân tộc và CNXH. Còn làm rõ đúng, sai về nhận thức, lý luận, tư tưởng ở các NTQĐ là thuộc
phạm trù đấu tranh tư tưởng nội bộ, là thực hiện phương pháp gắn “Xây” với “Chống” trong quá trình giáo
dục- đào tạo. Trong tình hình kẻ thù đang ráo riết đẩy mạnh "DBHB", ra sức chống phá ta trên mặt trận tư
tưởng- lý luận, âm mưu phi chính trị hoá quân đội, hòng tạo nên “tự diễn biến” nội bộ, loại bỏ vai trò lãnh


đạo của Đảng đối với quân đội và làm biến chất quân đội ta thì cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý
luận càng gay gắt và phức tạp. Nó đòi hỏi năng lực ĐTTT-LL của đội ngũ giảng viên KHXH ở các NTQĐ
phải được nâng cao tương ứng và toàn diện.


Năng lực ĐTTT-LL không chỉ là trình độ khoa học mà còn là bản lĩnh chính trị, nhiệt tình và trí tuệ,
không chỉ là lý luận mà còn là thực tiễn, kinh nghiệm, sự từng trải, nhất là từng trải trong đấu tranh chính trị.
Năng lực này không tách rời đạo đức, lý tưởng, lẽ sống của người cách mạng, nó gắn liền với phương pháp,
hành động sáng tạo để đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái. Lòng trung thành với mục tiêu lý
tưởng XHCN, công cuộc đổi mới, sự nghiệp bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng đòi hỏi đội ngũ giảng viên KHXH
quân đội và những người làm công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta những năng lực như thế. Thực tế cho
thấy, giảng viên KHXH ở các NTQĐ có những mặt mạnh rất cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực
công tác, tính kỷ luật và trách nhiệm cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của giáo dục- đào tạo và cuộc ĐTTTLL hiện nay thì năng lực công tác nói chung và năng lực ĐTTT-LL nói riêng của đội ngũ này còn nhiều non
yếu và bất cập. Do đó, nâng cao năng lực ĐTTT-LL cho giảng viên KHXH ở các NTQĐ vừa là vấn đề lý luận,
thực tiễn cơ bản và cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà kinh điển của CNM-LN và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết liên quan đến đề tài
đấu tranh tư tưởng, vai trò của đấu tranh tư tưởng trong xây dựng đảng và trong đấu tranh cách mạng; về
quan điểm, thái độ, nội dung... và phương pháp đấu tranh tư tưởng; về những phẩm chất và năng lực của
người cộng sản trong đấu tranh tư tưởng; về cách thức tổ chức tiến hành đấu tranh tư tưởng v.v... Đó là
những quan điểm lý luận và phương pháp luận rất cơ bản có giá trị làm cơ sở và định hướng cho quá trình
nghiên cứu đề tài.
Đảng ta và các nhà khoa học đã bàn về ĐTTT-LL với nhiều góc tiếp cận và cấp độ khác nhau liên
quan đến đề tài. Những năm gần đây, có Nghị quyết 09 của Bộ chính trị “Về những định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay”, ngày 18-2-1995; “Chỉ thị về tăng cường đấu tranh chống các luận
điệu sai trái và hoạt động tán phát tài liệu chống Việt Nam”, ngày 4-1-2002; Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới”, ngày 18-3-2002... Một số công trình khoa học có liên quan với đề tài như: "Nâng
cao hiệu quả công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay ”- Luận án Phó tiến sĩ của
Trần Ngọc Tuệ, Học viện Chính trị Quân sự, 1996; “Đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta

hiện nay và sự tác động của nó đến quân đội”- Luận án Phó tiến sĩ của Lê Bỉnh, Học viện Chính trị
Quân sự, 1996; “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng trong quân đội trước yêu cầu của
cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay”- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Cần, Học viện Chính trị
Quân sự, 2001... "Mấy ý kiến về sắc thái cuộc đấu tranh chính trị- tư tưởng hiện nay ở nước ta ”- Bài
viết trong cuốn sách CNXH tương lai của dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, 2002, của Phó giáo sư Hồ
Kiếm Việt;Các bài viết đăng trong cuốn sách “Đổi mới vì độc lập dân tộc và CNXH”- Nxb Quân đội
nhân dân, 1996 như: “Về cuộc ĐTTT-LL hiện nay ở nước ta", "Quân đội và cuộc đấu tranh đánh bại
chiến lược DBHB mới” của Giáo sư Trần Xuân Trường; “Chống chủ nghĩa cơ hội xét lại- một nhiệm vụ


cấp bách của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng hiện nay" của Phó giáo sư Lê Hồng Quang; “Suy nghĩ về
CNXH đổi mới - phê phán chủ nghĩa xét lại cơ hội hữu khuynh và giáo điều bảo thủ ” của Phó tiến sĩ Lê
Quang; “Đa nguyên chính trị - con đường thủ tiêu CNXH” của Giáo sư Lê Xuân Lựu… Sách "Báo chí
trong đấu tranh chống DBHB" do Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hiền và Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang
Nhiếp đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
Nhìn chung, các tài liệu, Nghị quyết và công trình khoa học đó đã đề cập tới nhiều vấn đề quan
trọng liên quan đến đề tài như: tính cấp thiết, bản chất, đặc điểm và tính chất của cuộc ĐTTT-LL; đánh
giá thực trạng ĐTTT-LL ở nước ta, xác định phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả cuộc đâú tranh này; xác định vai trò của quân đội trong cuộc ĐTTT-LL... với nhiều “lát cắt”
khác nhau. Song, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về Năng lực
ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt Nam hiện nay. Vì vậy, đề tài luận án là
một công trình khoa học độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực ĐTTT-LL của giảng viên
KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực
ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cấu thành năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các
NTQĐ.
- Phân tích vai trò năng lực ĐTTT-LL và một số đặc điểm phát triển năng lực đó ở đội ngũ giảng

viên KHXH trong các NTQĐ.
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân thực trạng năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở
các NTQĐ hiện nay.
- Luận giải tính tất yếu khách quan và yêu cầu nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH
ở các NTQĐ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các
NTQĐ hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các
NTQĐ, trong đó chủ yếu là giảng viên các khoa học Mác - Lênin, TTHCM, Lịch sử đảng và Công tác đảng,
công tác chính trị. Khái niệm “các nhà trường quân đội” dùng trong luận án này bao gồm các học viện,
trường đại học đào tạo sĩ quan quân đội...(không kể các nhà trường như: trường quân sự quân khu, quân
đoàn, tỉnh thành; trường cao đẳng, trung cấp, nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật sơ cấp v.v.). Thời gian chủ
yếu trong những năm đổi mới đất nước từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của CNM-LN, TTHCM, Đảng Cộng sản Việt
Nam về năng lực, về công tác tư tưởng, lý luận, về năng lực ĐTTT-LL của người cách mạng.
Luận án cũng dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc
phòng về công tác nhà trường, về xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các NTQĐ, nhất là giảng viên
KHXH, về vai trò của giảng viên KHXH trong ĐTTT-LL; tham khảo và kế thừa có chọn lọc các công
trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận án là hoạt động của giảng viên KHXH, trực tiếp nhất là giáo dục- đào
tạo, nghiên cứu khoa học và ĐTTT-LL; những báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng về các vấn
đề liên quan đến luận án; các kết quả điều tra, khảo sát của tác giả luận án về hoạt động và những
kinh nghiệm ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ những năm qua; những đòi hỏi của thực tiễn
về nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH đáp ứng với tình hình mới.
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: kết hợp logíc- lịch sử, phân tích,
tổng hợp, thu thập tư liệu, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh và vận dụng các phương pháp nghiên

cứu khoa học liên nghành, các khoa học kề cận khác.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận giải khái niệm, thực chất và những yếu tố cơ bản cấu thành năng lực ĐTTT-LL của giảng
viên KHXH ở các NTQĐ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở
các NTQĐ hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần cung cấp cơ sở cho nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng và quân đội ta về
tính cấp thiết, yêu cầu, nhiệm vụ cuộc ĐTTT-LL hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc bồi dưỡng, nâng
cao năng lực ĐTTT-LL cho giảng viên KHXH.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về những vấn đề có liên
quan ở các NTQĐ.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 3
chương (7 tiết).

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG - LÝ LUẬN CỦA GIẢNG VIÊN
KHOA HỌC XÃ HỘI Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


1.1. Thực chất năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng viên khoa học xã hội ở các
nhà trường quân đội
1.1.1. Năng lực và năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng viên khoa học xã hội
ở các nhà trường quân đội
Khái niệm năng lực
Năng lực theo nghĩa thông thường là biểu hiện của lao động, nói lên

khả năng của con người


hoàn thành một công việc nào đó. Theo từ điển tiếng Việt: Năng lực là: “1. khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con
người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.”[74,tr.565]. Tâm lý học, đạo
đức học đặt thuật ngữ năng lực trong quan hệ với thuật ngữ phẩm chất để phản ánh những thuộc tính
của nhân cách, trong đó, năng lực đồng nghĩa với “tài” (thuật ngữ sử dụng đi đôi với đức), là khả năng
nhận thức những hoạt động nhất định và thực hiện có hiệu quả những hoạt động đó. Như vây, năng lực
bao giờ cũng là của một chủ thể cụ thể: một cộng đồng, một tổ chức hay một con người. Về mỗi con
người mà xét, hiếm có hoặc khó có con người có năng lực toàn diện với ý nghĩa hiểu biết sâu sắc “bách
khoa” và tác động có hiệu quả cải biến mọi đối tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Hơn nữa, năng lực còn
được phân thành các cấp độ (thấp, cao) khác nhau như: năng lực thông thường, tài năng và thiên tài.
Năng lực thông thường có tính phổ biến ở mỗi người lao động trong từng lĩnh vực, ngành, nghề. Tài
năng được xếp vào năng lực vượt trội, có ở một số người, đặc biệt, mà cao nhất là thiên tài, có ở rất ít
người. Ngoài ra khi nói người có năng lực hạn chế, hoặc không có năng lực là nói người đó kém hoặc
không có khả năng hoàn thành được công việc phụ trách. Theo quan điểm triết học mác xít, luận án này
bàn về năng lực chung của con người từ mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể con người với khách thể
đối tượng của hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người; trên cơ sở đó, vạch ra bản chất, vai trò
và đặc trưng của năng lực con người. Với cách tiếp cận này, năng lực được hiểu như là khả năng,
điều kiện chủ quan bên trong để con người thực hiện có hiệu quả hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới nhằm phục vụ cuộc sống của mình. Mỗi bước tiến của con người trong quá trình vươn lên làm chủ
tự nhiên, cải tạo xã hội và hoàn thiện nhân cách là mỗi nấc thang đánh dấu sự phát triển của năng lực
“Người”.
Đương nhiên, để hành động cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, con người phải nhận thức. Muốn
nhận thức được con người cũng phải có năng lực. Khi Mác viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế
giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”[46, tr. 12] là nhằm vạch ra vai trò
của thực tiễn để chống chủ nghĩa duy tâm các loại, chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của
con người, không thừa nhận hoặc coi nhẹ vai trò của thực tiễn, chứ không phải không coi trọng nhận
thức (nhất là nhận thức lý luận), bởi hành động có hiệu quả đến mức nào trước hết phụ thuộc vào mức
độ đúng đắn của nhận thức. Nhận thức không phải do lực lượng siêu nhiên phú cho, cũng không phải



bẩm sinh đã có sẵn, mà từ cơ sở là thực tiễn. Nhưng không phải cứ có thực tiễn thì có nhận thức đúng,
bởi nhận thức có quy luật riêng buộc con người phải tuân thủ nếu muốn tránh sai lầm. Đó là phép biện
chứng của quá trình nhận thức, là lôgíc biện chứng. Năng lực nhận thức khoa học của con người cao
hay thấp phụ thuộc vào khả năng tư duy hợp quy luật đó. Hơn nữa, nhận thức là nhằm mục đích thực
tiễn. Hiệu quả thực tiễn như thế nào là phụ thuộc phần lớn vào trình độ nhận thức, nhất là trình độ lý
luận. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lên trang đầu cuốn “Đường cách mệnh” câu nói của
V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động” [55, tr. 259] .
Mục đích của con người không chỉ nhằm nhận thức, giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải
tạo thế giới. Do đó, họ còn phải có khả năng hành động biến nhận thức thành hiện thực, đúng như Mác
viết: “nói chung, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần
có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [45, tr. 181]. Trong thực tiễn, con người theo mục đích
xác định mà vạch ra kế hoạch cho mỗi hoạt động của mình, huy động mọi khả năng hiện có và sẽ tạo ra,
sử dụng các công cụ, phương tiện, tiến hành cải tạo thế giới theo đúng quy luật khách quan. Như vậy,
năng lực của con người phải bao hàm cả khả năng nhận thức và khả năng hành động để cải biến hiện
thực. Nhưng để quá trình này thu được kết quả cao, con người phải sáng tạo, không nhận thức và hành
động một cách thụ động, máy móc. Đặc trưng sáng tạo là dấu hiệu tiêu biểu để nhận biết năng lực. Nói
tới năng lực là nói tới năng lực người, Mác nhấn mạnh “Những lực lượng bản chất người” của con
người. Năng lực gắn với lao động, hoạt động, nỗ lực của chủ thể và chi phối của môi trường, hoàn cảnh.
Ngoài ra còn gắn với vai trò của yếu tố di truyền.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, thuyết sinh lý thường đồng nhất năng lực người với bản năng, với cái
vô thức bất biến của nó, đồng nhất tính chỉnh thể của năng lực với một yếu tố cấu thành nó. Chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo đồng nhất năng lực với tinh thần, thượng đế hoá năng lực người. Triết học mác xít coi
năng lực của con người là khả năng thể hiện mình trong bối cảnh nhất địnH. là thuộc tính bản chất của
con người. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu

sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng

lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem
ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”[49,tr.251]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:

“Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do luyện tập
mà có...”[57, tr. 280]. Như vậy, năng lực người và sự phát triển của nó luôn gắn liền với hoạt động sống
của con người và được biểu hiện cụ thể trong các hoạt động đó. Không có năng lực tách rời hoạt động
thực tiễn.
Triết học Mác- Lênin khái quát, năng lực là sức mạnh của con người trong hoạt động cải tạo hiện
thực, mang tính cụ thể và phong phú. Có thể phân năng lực thành hai dạng chính là năng lực cải biến tự
nhiên và năng lực cải biến xã hội. Năng lực cải biến tự nhiên là những khả năng của con người để sử


dụng và chinh phục tự nhiên phục vụ cho mình. Năng lực cải biến xã hội là năng lực thúc đẩy xã hội phát
triển theo tiến bộ lịch sử, từ thấp lên cao. Giữa năng lực cải biến tự nhiên và năng lực cải biến xã hội có
mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Đã có thời kỳ con người mắc sai lầm trong giải quyết mối
quan hệ đó và đã phải trả giá. Ngày nay, con người đang phải xem lại thái độ của chính mình trong ứng
xử với tự nhiên, không còn là chinh phục tự nhiên theo kiểu chỉ khai thác, chiếm đoạt nữa mà là hài hoà,
đồng thuận với tự nhiên, bảo vệ môi trường, cái “thân thể vô cơ” của mình như Mác nói.
Nhưng tính phức tạp của xã hội là ở chỗ lực cản đối với xây dựng xã hội mới, cải tạo xã hội cũ
cũng chính là con người. Đó là các lực lượng lỗi thời, bảo thủ. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp bóc lột,
áp bức thống trị lạc hậu là lực cản tiến bộ xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế,
văn hoá xã hội...). Do đó, lực lượng tiến bộ để thúc đẩy lịch sử phát triển chẳng những phải có năng lực
xây dựng xã hội mới mà còn phải có năng lực chống lại sự chống phá của các thế lực bảo thủ, lạc hậu,
phản cách mạng.
Do hoạt động thực tiễn, năng lực con người rất phong phú, sống động nên có thể xem năng lực
trong mối quan hệ với tư cách và đạo đức, gắn với các mối quan hệ cụ thể như với công việc, với con
người và với chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tư cách người công an cách mệnh:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tuỵ.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo [58, tr. 406].

Người còn nhắc lại lời dạy của V.I.Lênin:
Đối với nhân dân, phải yêu kính quần chúng, gần gũi quần chúng, tin tưởng lực lượng vĩ
đại và đầu óc thông minh của quần chúng, học hỏi quần chúng...để đoàn kết và lãnh đạo quần
chúng.
Đối với kẻ địch, ...thì phải kiên quyết, dũng cảm chống lại, nhất định không nhượng bộ,
không tha thứ.
Đối với công việc, phải thấy trước, lo trước, tính trước. Phải cân nhắc kỹ những điều thuận
lợi và khó khăn, để kiên quyết vượt qua khó khăn... Bất kỳ việc to, việc nhỏ đều phải rất cẩn thận,
không hấp tấp, không rụt rè. Bại không nản, thắng không kiêu. Tuyệt đối tránh chủ quan, nông
nổi... [62, tr. 3].
Trong hoạt động thực tiễn, con người đã thể hiện cả sức mạnh vật chất (thể chất, sức lực) và tinh
thần (cảm xúc, ý chí, trí tuệ...). Các yếu tố vật chất, tinh thần đó không tách biệt, cô lập với nhau mà quan
hệ biện chứng quy định sức mạnh của con người. Châm ngôn Phương Tây có câu "một tinh thần lành


mạnh trong một thân thể cường tráng” là phản ánh sức mạnh nội tại đó của con người. Con người vận
dụng tổng hợp các sức mạnh cả vật chất và tinh thần, tạo thành năng lực hoàn chỉnh để hoạt động thực
tiễn có hiệu quả; đồng thời qua đó, năng lực luôn được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện. Đó là
đặc trưng bản chất của năng lực con người (chủ thể). Con người với tư cách là cộng đồng người trong
quan hệ với giới tự nhiên và tồn tại xã hội. Trong hiện thực, chủ thể con người đó có thể là một cá nhân,
một nhóm, một tổ chức, một giai cấp, một dân tộc hoặc cả loài người.
Ở các chủ thể này, năng lực nói trên không phải thuần tuý được tạo nên một cách biệt lập ở mỗi
con người, cũng như mỗi tập thể người, tách rời với người khác, tập thể khác. Trái lại, mỗi người, mỗi
tập thể người tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm của người khác, của tập thể khác để tăng cường sức
mạnh của mình về nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Năng lực là sản phẩm của quá trình phát
triển xã hội - lịch sử người, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục- đào
tạo và tập nhiễm xã hội. Hơn nữa, con người trong nhận thức và hành động đã rất sáng tạo, biết chế tạo
và sử dụng các công cụ, phương tiện ngày càng phát triển: từ những mảnh tước đến những chiếc rìu
ghè đẽo bằng đá; từ chiếc cối xay gió, những động cơ hơi nước, điện lực đến điều khiển tự động; từ
cung nỏ, mũi lao, lưỡi kiếm đến tên lửa, vũ khí tinh khôn. C.Mác đã nói một cách hình tượng là các

phương tiện, công cụ đó tựa như kéo dài các giác quan của con người trong nhận thức và cải biến hoàn
cảnh sống. Vì thế, năng lực của cá nhân bao giờ cũng có tính cá thể và tính xã hội. Năng lực cá nhân
mang tính hữu hạn còn năng lực xã hôi mang tính vô hạn.
Năng lực tồn tại dưới hai dạng chính: dạng tiềm năng (tích luỹ) và dạng hiện thực (động năng).
Dạng tiềm năng bao gồm hệ thống những yếu tố chủ quan của chủ thể như: Tố chất, tâm sinh lý, tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, quan điểm, lập trường, tình cảm, ý chí... mà chủ thể tích luỹ được. Dạng
hiện thực là tổng hợp những yếu tố tiềm năng được huy động cho hoạt động của chủ thể. Dạng này phụ
thuộc trực tiếp vào dạng tiềm năng. Dạng tiềm năng càng phong phú, đầy đủ, chất lượng cao thì càng có
điều kiện huy động cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào có tiềm năng
tốt thì đương nhiên hoạt động thực tiễn tốt. Năng lực ở dạng hiện thực tốt hay không còn phụ thuộc vào
những điều kiện chủ quan và khách quan khác. Nếu chủ thể có nhiều “tiềm năng” nhưng không hành
động hoặc hành động trái quy luật thì không cải biến được hiện thực, như thế cũng ngang với không có
năng lực. Do đó, dạng hoạt động thực tế quyết định chất lượng hoạt động của chủ thể, đồng thời có tác
dụng bổ sung, hoàn thiện dạng tiềm năng. Sự tác động qua lại đó là quá trình nâng dần cấp độ phát triển
của năng lực người. Cụ thể hoá năng lực tương ứng với các dạng hoạt động phong phú của con người
trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà có năng lực kinh tế, năng lực chính trị, năng lực văn
hoá, năng lực ĐTTT-LL v.v.
Con người khác con vật ở chỗ có ý thức, có nhân tính. Do đó, năng lực gắn với bản chất “Người”
của con người. Trình độ “Người” càng cao thì khả năng nhận thức và hành động của họ càng lớn. Suy rộng


ra, năng lực không đứng độc lập mà đi liền với phẩm chất trong cấu trúc nhân cách như cách nói của Hồ
Chí Minh: Đức- Tài, Hồng- Chuyên, Chính trị (là linh hồn)- Chuyên môn (là thể xác)... Năng lực phải thể
hiện qua hành động, đo bằng hiệu quả, phát triển thành phương pháp - trình độ - nhu cầu sáng tạo, dẫn tới
năng lực văn hoá.
Tóm lại, năng lực là tổng hoà các yếu tố vật chất và tinh thần tạo cho con người (cộng đồng, cá
nhân) khả năng nhận thức và hành động trong cải biến hoàn cảnh sống (tự nhiên và xã hội) của mình.
Năng lực ĐTTT-LL
Trước khi làm rõ Năng lực ĐTTT-LL, cần bàn về khái niệm ĐTTT-LL.
Trong Từ điển Chính trị vắn tắt, đấu tranh tư tưởng là một trong những hình thức đấu tranh

giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân vũ trang bằng CNM-LN
chống mọi biểu hiện của hệ tư tưởng tư sản. Trong nội bộ phong trào công nhân: biểu hiện giữa
CNM-LN với sự xuyên tạc hữu khuynh, tả khuynh CNM-LN, tức là chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét
lại...[100, tr. 121]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đấu tranh tư tưởng là: Đấu tranh trên lĩnh vực hình thái ý thức;
một trong những hình thức đấu tranh giai cấp quan trọng... Bất cứ lúc nào, nhất là trong điều kiện diễn ra
cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB trên phạm vi toàn thế giới, các chính đảng vô sản cầm quyền tại
các nước XHCN, cũng như các đảng cộng sản và công nhân trên toàn cầu đều không thể coi nhẹ đấu
tranh tư tưởng, công tác lý luận [101, tr. 763].
Lý luận mác xít chỉ rõ, trong xã hội có giai cấp tất yếu có đấu tranh giai cấp, trong đó có đấu tranh
kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh văn hoá... Đấu tranh tư tưởng diễn ra suốt quá trình đấu tranh giai
cấp, đi cùng đấu tranh kinh tế, chính trị, văn hoá... Dưới chủ nghiã tư bản, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
quyết liệt, phức tạp. Đấu tranh ý thức hệ là đấu tranh tư tưởng, luôn luôn gắn liền với đấu tranh lý luận.
Đảng ta nêu thuật ngữ “tư tưởng, lý luận” là cụ thể hoá thuật ngữ hệ tư tưởng, nhằm chỉ ra cuộc đấu
tranh tư tưởng ở nước ta bao gồm đấu tranh trên các quan điểm, học thuyết lý luận.
Để chống lại các thế lực phản động, bảo thủ, trước hết phải chống lại chúng trên mặt trận tư tưởng
- lý luận. Giai cấp tư sản đã từng làm cuộc cách mạng văn hoá (Thời kỳ phục hưng ở Châu âu), thực
chất là đấu tranh tư tưởng để chuẩn bị tiền đề cho cuộc cách mạng chính trị, giành chính quyền, lật đổ
chế độ phong kiến.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tự giải phóng mình khỏi hệ tư tưởng tư sản, xây dựng hệ tư tưởng độc
lập cho giai cấp công nhân và đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản ảnh hưởng trong phong trào công
nhân. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: “Không có gì quan trọng bằng... bảo vệ những cơ sở lý luận và những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đang bị những phe đối lập nhất xuyên tạc bằng cách gieo rắc ảnh
hưởng tư sản vào “những bạn đường” khác nhau của chủ nghĩa Mác”[36, tr. 104].


Cuộc ĐTTT-LL mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành là một hình thức của đấu tranh giai cấp trên
lĩnh vực hình thái ý thức xã hội chống lại những quan điểm, tư tưởng tư sản và các quan điểm lạc hậu,
phản khoa học, phản động, nhằm bảo vệ CNM-LN, TTHCM và đường lối, quan điểm của Đảng. Quá trình
đấu tranh đó vừa chống kẻ thù giai cấp và dân tộc, trong nước và ngoài nước với các lý luận nguỵ biện, mị

dân, chia rẽ nhân dân với Đảng ; đồng thời cũng khắc phục tư tưởng tiêu cực nảy sinh trong Đảng như chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Kết quả cuộc đấu tranh này đúng như đánh giá của Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh: “Cuộc đấu tranh trên mặt trận lý luận chống lại các quan điểm sai trái, thù địch đã góp
phần bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, chế độ và đường lối đổi mới, giữ vững định hướng XHCN, làm thất bại
một bước âm mưu DBHB của các thế lực thù địch” [52, tr.1]
Trong xã hội ta, năng lực ĐTTT-LL tồn tại và phát triển ở các thành viên với tính cách là chủ thể
trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động ĐTTT-LL. Chủ thể ĐTTT-LL đó là toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta. Tuy nhiên, họ có sự khác nhau về trình độ do các yếu tố khách quan và chủ quan chi phối.
Năng lực ĐTTT-LL của cán bộ, đảng viên, nòng cốt là đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng- lý luận trực tiếp
quyết định hiệu quả cuộc ĐTTT-LL đó.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Năng lực ĐTTT-LL của chủ thể là tổng hoà những
khả năng phát hiện, phê phán, ngăn chặn và khắc phục ảnh hưởng của các quan điểm, tư tưởng
phản động và sai trái; thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo CNMLN, TTHCM, quan điểm, đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
Hoạt động ĐTTT-LL đòi hỏi chủ thể phải có năng lực tương ứng, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời qua cuộc ĐTTT-LL, năng lực của chủ thể không ngừng phát
triển.
Năng lực ĐTTT-LL của chủ thể phụ thuộc vào các yếu tố: tính đảng, tính khoa học và tính nghệ
thuật được kết tinh trong nó và thể hiện ra trong cuộc đấu tranh đó.
Tính đảng là một trong những đặc trưng cơ bản của năng lực ĐTTT-LL. Nó thể hiện ở sự kiên
định, ở tinh thần kiên quyết tiến công đánh bại các quan điểm sai trái.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Những tư tưởng thống
trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị” [47, tr. 625], bất cứ quan điểm lý
luận nào, một học thuyết nào cũng đều mang dấu ấn của giai cấp, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định
(trong xã hội có giai cấp). Khi xã hội loài người phát triển đến giai đoạn TBCN, cuộc đấu tranh giai cấp trở lên
quyết liệt nhất. Giai cấp tư sản dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để bảo vệ cho lợi ích của mình, duy trì và bảo vệ
chế độ tư hữu - nguồn gốc nảy sinh áp bức, bóc lột. Hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đóng vai trò chủ đạo, chi
phối toàn bộ tư tưởng xã hội, luôn bênh vực, bảo vệ chế độ tư bản, công kích quyết liệt vào các tư tưởng đối
địch. Giai cấp công nhân phát triển thành một lực lượng tiên tiến, có hệ tư tưởng độc lập, đứng lên tập hợp tất



cả các giai tầng bị áp bức, bóc lột, đấu tranh nhằm lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và chế độ TBCN,
xoá bỏ mọi nguồn gốc nảy sinh chế độ người bóc lột người. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đánh dấu
bằng sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã trở thành học thuyết soi đường cho cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản. Vì thế, nó vấp phải sự chống phá quyết liệt của hệ tư
tưởng và giai cấp tư sản, nhất là giới lý luận gia tư sản. Đúng như V.I.Lênin nhận xét, học thuyết của Mác đã
gây ra sự cừu địch mạnh nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản, giới khoa học này xem
chủ nghĩa Mác như một môn phái có hại. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong một xã hội có giai cấp và đấu tranh
giai cấp thì không thể có một KHXH “vô tư”. Toàn bộ khoa học chính trị, xã hội của giai cấp tư sản, của các
thế lực phản động đều bênh vực, bằng cách này hay cách khác cho chế độ nô lệ làm thuê, chế độ áp bức bóc
lột; còn Chủ nghĩa Mác thì quyết liệt tuyên chiến với chế độ nô lệ, chế độ áp bức bóc lột ấy. Trong xã hội có
giai cấp, không thể có hệ tư tưởng phi giai cấp; đòi hỏi KHXH “phi tính đảng” là sự “khờ dại, ngây thơ”.
V.I.Lênin còn nói rõ hơn, chỉ có hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng XHCN, không có hệ tư tưởng trung
gian, “thứ ba” nào cả. Mọi sự coi nhẹ tư tưởng XHCN đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản [35,
tr. 45, 50].
Tính đảng của CNM-LN, của KHXH mác xít thể hiện ý chí, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng đó hoàn toàn đối lập với tính đảng trong các KHXH
tư sản. Tính đảng khác nhau đó phản ánh lợi ích của hai giai cấp cơ bản có lợi ích, địa vị khác nhau,
hoàn toàn đối lập nhau; giữa một bên là giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bóc lột, với bên kia là giai cấp thống
trị, bóc lột. Tuy vậy, khác với tính đảng tư sản, tính đảng của KHXH của giai cấp công nhân, đặc biệt là
CNM-LN thống nhất với tính khách quan khoa học, biết vận dụng, kế thừa và phát triển những thành tựu
khoa học tiến bộ của nhân loại, những tinh hoa văn hoá mà loài người đã tạo ra, ngày nay, tiếp tục tiếp
thu những thành tựu khoa học của các học giả tư sản. Chủ nghĩa Mác ra đời trên cơ sở thừa kế trực tiếp
học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị và trong CNXH không
tưởng. TTHCM là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CNM-LN vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại… Chính điều đó làm cho KHXH của giai cấp công nhân, nhất là CNM-LN, TTHCM vượt lên, trở
thành những khoa học đúng đắn, đầy đủ và cách mạng nhất. Do vậy, trong khi giai cấp tư sản che giấu
tính đảng của hệ tư tưởng tư sản thì các Đảng Cộng sản công khai tính đảng của hệ tư tưởng của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam công khai tính đảng đó, đòi hỏi đảng viên kiên định CNM-LN và TTHCM, đấu

tranh không khoan nhượng với hệ tư tưởng tư sản, các khuynh hướng cơ hội hữu khuynh và tả khuynh.
Tính chiến đấu trên mặt trận tư tưởng - lý luận là biểu hiện tính đảng trong năng lực ĐTTT-LL của
người cộng sản. Tính chiến đấu trong năng lực ĐTTT-LL đòi hỏi chủ thể phải đấu tranh bền bỉ, kiên
quyết, không khoan nhượng chống những tư tưởng thù địch, để bảo vệ sự trong sáng của CNM-LN,
TTHCM, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản. Tính chiến đấu là một yêu cầu cơ bản, cốt lõi


của hoạt động ĐTTT-LL, đồng thời là một trong những chuẩn mực đánh giá chất lượng và hiệu quả
ĐTTT-LL của chủ thể, là thước đo trình độ năng lực ĐTTT-LL.
Như vậy, tính đảng là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong năng lực ĐTTT-LL của chủ thể, và
được thể hiện tập trung ở ý thức, quan điểm, lập trường chính trị tiến bộ, giải phóng mọi tiềm năng sáng
tạo, hướng tới sự phát triển tốt đẹp hơn, cao hơn, hoàn thiện hơn, vì con người và vì xã hội. Bồi dưỡng
tính đảng phải là một nội dung vô cùng quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên KHXH và
hoạt động ĐTTT-LL. Cho nên, điểm quyết định để có năng lực ĐTTT-LL là phải có tính đảng.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL được thể hiện ở chiều sâu tri thức khoa học và phương
pháp lôgíc chặt chẽ. Năng lực ĐTTT-LL đó dựa trên cơ sở CNM-LN, là học thuyết mang bản chất khoa
học và cách mạng. Thế giới quan, phương pháp luận mác xít đòi hỏi mọi vấn đề phải được giải quyết
trên cơ sở tôn trọng khách quan, bảo đảm tính lịch sử, cụ thể với quan điểm biện chứng; phù hợp với
quy luật vận động, phát triển của hiện thực xã hội và thời đại; vận dụng đúng đắn và sáng tạo các quy
luật; bảo đảm tính khoa học và nghệ thuật trong tuyên truyền, luận chứng khoa học và thuyết phục để
quần chúng hiểu và hành động theo lý luận Mác- Lênin; biết huy động những kiến thức các khoa học
khác (tâm lý, sư phạm...) vào hoạt động ĐTTT-LL v. v.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL thể hiện trong sử dụng hệ thống kiến thức đã được kiểm
chứng (chân lý), bằng cả lý luận và thực tiễn; tạo sự tin cậy về khoa học và làm tăng tính thuyết phục
trong việc bảo vệ CNM-LN, TTHCM, quan điểm, đường lối của Đảng; vạch trần và đánh bại các quan
điểm sai trái, phản động. Điều đó có nghĩa là trong quá trình ĐTTT-LL phải sử dụng những kiến thức
khoa học, quan điểm chính thống của Đảng để lý giải hoặc phân tích các sự kiện và hiện tượng của đời
sống xã hội.
Đồng thời, tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL đòi hỏi phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể,
quan điểm biện chứng để xem xét, đánh giá các vấn đề ĐTTT-LL. Nghĩa là chủ thể khi phân tích, đánh

giá bất cứ một vấn đề cụ thể nào phải đặt nó trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định; chỉ
rõ quá trình vận động, biến đổi và phát triển của nó; tìm ra bản chất và phải vạch rõ con đường, cách
thức giải quyết phù hợp, đạt kết quả cao. Để bảo vệ và phát triển CNM-LN trong bối cảnh mới, chúng ta
cần khẳng định tính cách mạng, khoa học của lý luận mác xít, những giá trị đích thực, căn bản, mang
tính định hướng dẫn đường của CNM-LN; chỉ rõ những nhận thức và vận dụng lệch lạc, sai lầm CNM-LN
góp phần làm nảy sinh khủng hoảng CNXH hiện thực; sự vận dụng sáng tạo CNM-LN trong thời đại hiện
nay; những tri thức mới của thời đại cần tiếp tục bổ sung, phát triển CNM-LN. Làm được điều đó là “sự
hồi sinh và phát triển ngọn đuốc cách mạng và sáng tạo của Mác, Ănghen, Lênin trong thời đại mới, vừa
kiên trì những tư tưởng bất diệt của CNM-LN, vừa không rơi vào bảo thủ, giáo điều hoặc phản bội nó”[6,
tr. 6].


Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL có nội dung phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Cho
nên, chủ thể của nó phải hết sức coi trọng việc phát hiện, nhận thức sâu sắc những quy luật vận động,
phát triển của thế giới khách quan, đặc biệt trong việc vận dụng các quy luật ấy. Bảo đảm cung cấp căn
cứ khoa học, làm cho mọi người hiểu được các quy luật vận động và phát triển của xã hội; thấy được
tính đúng đắn của CNM-LN, TTHCM và đường lối của Đảng, con đường đi lên CNXH của đất nước; chỉ
rõ tính chất sai lầm, phản khoa học, phản động của các quan điểm phi vô sản. Tính khoa học của năng
lực ĐTTT-LL càng cao thì càng giác ngộ, phát huy cao độ tính tự giác của quần chúng, vì thế càng có
khả năng đánh bại các quan điểm sai trái, bảo vệ và phát triển CNM-LN, TTHCM, đường lối của Đảng;
phục vụ tốt sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL cũng thể hiện ở sự xác thực. Sự xác thực là một tiêu
chuẩn quan trọng của hoạt động ĐTTT-LL, tuyên truyền, thuyết phục quần chúng. Trong đấu tranh với
các quan điểm sai trái phản động, những người Cộng sản phải nói lên sự thật, phải phân tích sâu sắc,
chỉ rõ đúng sai trong các quan điểm đó một cách khách quan. Đồng thời cũng phải dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, chỉ cho nhân dân những giá trị và những khiếm khuyết cần bổ
sung của lý luận; những thuận lợi và khó khăn, những thành công và thất bại, những ưu điểm và thiếu
sót của sự nghiệp cách mạng; khắc phục thói “tô hồng” làm cho quần chúng say sưa với thành tích,
thắng lợi mà không thấy hết khó khăn, khuyết điểm; mặt khác, kiên quyết chống lại hiện tượng “bôi
đen”, khuyếch trương quá mức sai lầm, khuyết điểm, khó khăn tạm thời mà không thấy hoặc phủ nhận

thành tích thắng lợi, gây hoang mang, dao động cho quần chúng. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “…giai cấp
vô sản cần biết sự thật, và chẳng có gì tai hại hơn cho sự nghiệp của họ bằng những lời dối trá có vẻ
đẹp đẽ và êm tai của bọn tiểu tư sản”[37, tr. 112].
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL còn đòi hỏi chủ thể phải nghiên cứu đặc điểm của đối tượng
tiếp nhận tuyên truyền, nắm vững quy luật của quá trình nhận thức, sử dụng các hình thức, phương
pháp thích hợp, nhằm giữ vững trận địa chính trị - tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta; ngăn
chặn, hạn chế và đi đến loại bỏ tác hại của các quan điểm sai trái. Tiến hành hoạt động ĐTTT-LL một
cách khoa học cần phải vận dụng những thành tựu mới của khoa học tâm lý, khoa học sư phạm, tổng kết
kinh nghiệm ĐTTT-LL của Đảng, tiếp thu nghiêm túc những bài học về ĐTTT-LL của các Đảng Cộng sản
anh em, học hỏi các tấm gương ĐTTT-LL của các lãnh tụ cách mạng, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho
phát triển năng lực ĐTTT-LL. Toàn bộ việc luận giải, phê phán các quan điểm sai trái, phản động phải
bảo đảm sự lôgíc chặt chẽ, không mâu thuẫn và dựa trên chứng cứ khoa học, không bao giờ được áp
đặt.
Năng lực ĐTTT-LL mang tính nghệ thuật sâu sắc. Điều đó thể hiện trong các hoạt động của chủ
thể, khi họ sử dụng ngôn ngữ, hình thức, phương pháp đấu tranh; thực hiện các giao tiếp, ứng xử, tổ


chức lực lượng... Những công việc đó ngoài yêu cầu về tính đảng, tính khoa học còn phải có tính nghệ
thuật, gây thiện cảm, đồng tình, ủng hộ với chủ thể, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTTT-LL.
Tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL đặt ra yêu cầu rất cao cho chủ thể. Bởi vì đối tượng đấu
tranh là những quan điểm tư tưởng sai trái và những lực lượng đại biểu của các quan điểm đó, là công
tác tuyên truyền, giác ngộ đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đối tượng đó thể hiện sự
phát triển cao về mọi mặt, đặc biệt là trình độ nhận thức và tư duy lý luận; là sự phức tạp về nội dung
phản ánh và hoạt động… Chủ thể vừa phải đứng vững trên lập trường giai cấp, bảo đảm tính khoa học
cao, vừa phải đạt đến trình độ nhuần nhuyễn, hấp dẫn trong lựa chọn và thể hiện nội dung, phương
pháp đấu tranh. Đó là nghệ thuật vận dụng tổng hợp các đơn vị kiến thức và sắp xếp chúng trong ĐTTTLL, làm toát lên bản chất vấn đề, thu hút sự đồng tình với chủ thể. Để ĐTTT-LL, chủ thể cần sử dụng các
kiến thức khoa học, các bài học thực tiễn phong phú; nhưng sử dụng cái gì và sử dụng như thế nào là cả
một nghệ thuật.
Tính nghệ thuật trong năng lực ĐTTT-LL tập trung nhất là vấn đề phương pháp. Chủ thể phải nắm
vững và làm chủ các phương pháp khoa học, vận dụng thành thục và sáng tạo trong quá trình ĐTTT-LL.

Phương pháp gắn liền với lý luận và thực tiễn, là trình độ khoa học đúng đắn, trung thực, chứ không phải
là mỹ thuật, thủ thuật, tiểu xảo, tránh những khiên cưỡng, giả tạo dẫn đến những phản cảm trong quan
hệ với đối tượng.
Tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL thể hiện rõ trong việc sử dụng ngôn ngữ phân tích, luận
chiến. Sử dụng ngôn ngữ trong ĐTTT-LL vô cùng quan trọng, là phương tiện chuyển tải những hiểu biết,
nội dung, ý định của chủ thể đến đối tượng tiếp nhận. Dùng ngôn ngữ trong sáng, có tính khái quát và
giàu hình tượng; câu văn ngắn gọn, chặt chẽ, súc tích; diễn đạt mạch lạc, sâu sắc và gợi cảm không
những chuyển tải đầy đủ nội dung, ý định mà còn nâng cao hiệu quả thuyết phục của chủ thể đến đối
tượng tiếp nhận. Sử dụng ngôn ngữ mang tính nghệ thuật cao có tác dụng cảm hoá to lớn trong hoạt
động ĐTTT-LL. Vì vậy, chủ thể ĐTTT-LL cần hết sức chú ý học tập, rèn luyện nâng cao khả năng sử
dụng ngôn ngữ, phục vụ đắc lực cho cuộc ĐTTT-LL; khắc phục lối sử dụng ngôn ngữ tuỳ tiện, diễn đạt
dài dòng, không chặt chẽ, thiếu sự khái quát.
Tính đảng, tính khoa học và tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL luôn có sự thống nhất, quan hệ
biện chứng tác động thúc đẩy lẫn nhau. Cả ba đặc tính này xét đến cùng chính là trình độ trí tuệ khoa
học, đạo đức, động cơ, lập trường, quan điểm chính trị. Tổng hợp những cái đó là năng lực văn hoá
chính trị như cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc thù hoạt động ĐTTT-LL đã đòi hỏi rất cao tính đảng
mác xít, tính khoa học và tính nghệ thuật. Hơn nữa, trong các KHXH và hoạt động ĐTTT-LL có sự thống
nhất biện chứng giữa tính đảng với tính khoa học và tính nghệ thuật. Cơ sở của sự thống nhất biện
chứng đó là sự phù hợp giữa mục đích của các KHXH và hoạt động ĐTTT-LL với các quy luật phát tiển
xã hội, với ý nguyện của quần chúng nhân dân lao động và khát vọng lâu đời của nhân loại. Quan niệm


đối lập, tuyệt đối hoá hoặc tách rời tính đảng với tính khoa học và tính nghệ thuật là của chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, siêu hình. Thiếu tính đảng trong năng lực ĐTTT-LL thì hoạt động ĐTTT-LL không chỉ mắc
sai lầm về chính trị, mà còn sai lầm về phương diện khoa học, và thiếu đi tính hấp dẫn, thuyết phục.
Nhưng chỉ có tính đảng mà thiếu tính khoa học và nghệ thuật thì năng lực ĐTTT-LL không thể bền vững,
khi đó hoạt động ĐTTT-LL chỉ như kiểu “hô khẩu hiệu”, ít khả năng thuyết phục và kém hiệu quả. Ngược
lại, năng lực ĐTTT-LL có tính đảng và tính khoa học nhưng thiếu tính nghệ thuật thì hoạt động ĐTTT-LL
của chủ thể dễ rơi vào khô khan, cứng nhắc, khó gây thiện cảm, đồng tình, ủng hộ của người tiếp nhận.
Do đó, năng lực ĐTTT-LL của chủ thể chỉ thực sự vững mạnh khi mang đầy đủ tính đảng, tính khoa học

và tính nghệ thuật, có sự thống nhất biện chứng của chúng.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt Nam với ĐTTT-LL.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ là người được đào tạo chuyên sâu về KHXH (trình độ đại học trở
lên) và nghiệp vụ sư phạm, có đủ phẩm chất và năng lực đảm trách công việc giảng viên KHXH; được
giao nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục và nghiên cứu khoa học về một hoặc một số bộ môn thuộc KHXH ở
các NTQĐ.
Ngoài ra, xét về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc điểm hoạt động, giảng viên KHXH ở các NTQĐ được
coi là “trí thức”, được xã hội và quân đội tôn vinh là “nhà giáo” và thuộc loại hình “cán bộ chính trị” (theo
Luật Sĩ quan). Bình thường, giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn được gọi với một số tên khác: nhà giáo,
giáo viên, giáo sư, phó giáo sư, thỉnh giảng… Về mặt thuật ngữ, khái niệm, các cách gọi trên có nhiều
điểm khác nhau. Theo Luật giáo dục, có sự khác nhau giữa giáo viên và giảng viên. Giáo viên là người
dạy học ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp. Còn giảng viên là người
dạy ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học [43, tr. 43, 44].
Điều lệ Nhà trường xác định: “nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục trong
trường quân đội. Nhà giáo phải đạt những tiêu chuẩn của cán bộ về trình độ chỉ huy quản lý theo quy định
của Bộ Quốc phòng; trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ nhà giáo theo quy định của luật giáo
dục”[8, tr. 26]. Trong các văn bản hướng dẫn, quy định hoạt động của các NTQĐ do Bộ Tổng Tham mưu
(Bộ Quốc phòng) biên soạn, giáo viên là những người làm công tác giảng dạy ở các nhà trường chuyên
môn kỹ thuật trung cấp (dưới đại học); giảng viên là những người làm công tác giảng dạy ở các học viện,
trường sĩ quan (cao đẳng, đại học). Hệ thống tổ chức NTQĐ gồm:
1. Các học viện, trường sĩ quan, trường đại học, cơ sở đào tạo sau đại học.
2. Các nhà trường quân khu, quân đoàn;
3. Các trường quân sự tỉnh, thành phố;
4. Các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề;
5. Các trường lớp thiếu sinh quân. [9, tr. 12,13]


Luận án chủ yếu nghiên cứu hai loại trường là: học viện và trường sĩ quan, trường đại học. Hai loại
trường này có đặc thù: học viện có học viên nhiều tuổi hơn, đào tạo đại học và sau đại học, cả sĩ quan
sơ cấp và chủ yếu là trung, cao cấp...; trường sĩ quan, trường đại học có học viên trẻ hơn, chỉ đào tạo

đại học và sĩ quan cấp phân đội - sơ cấp...Về cơ bản, giảng viên ở các học viện có tuổi đời, tuổi quân,
quân hàm, học vấn cao hơn ở các trường sĩ quan... Khái niệm giảng viên KHXH ở trong luận án này chỉ
đối tượng giảng dạy ở các học viện, trường sĩ quan, trường đại học. Nằm trong hệ thống giáo dục- đào
tạo chung của cả nước, giảng viên KHXH ở các NTQĐ cũng có nhiều trình độ: giảng viên, giảng viên
chính, giảng viên cao cấp, phó giáo sư, giáo sư.
Mặt khác, KHXH được phân thành nhiều môn (các nhà trường quân đội đang giảng dạy từ 24- 27
chuyên ngành KHXH [41, tr. 55]) nên năng lực và nhiệm vụ ĐTTT-LL của giảng viên KHXH không giống
hệt nhau. Do đặc thù chuyên ngành, các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
TTHCM... đòi hỏi ĐTTT-LL rất cao. Tác giả luận án chủ yếu đề cập đến giảng viên các môn khoa học
này. Song không vì thế mà xem nhẹ ĐTTT-LL ở các môn Dân tộc học, Tâm lý học, Giáo dục học...
Tuy có những điểm khác biệt nhất định, giảng viên KHXH ở các NTQĐ đều là một bộ phận của đội
ngũ làm công tác tư tưởng- lý luận và giáo dục- đào tạo cán bộ về KHXH, có nhiệm vụ ĐTTT-LL. Việc
tham gia ĐTTT-LL của giảng viên KHXH gắn liền với hoạt động của họ tại các NTQĐ.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ tham gia vào nhiều hoạt động như: giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, ĐTTT-LL, các hoạt động lãnh đạo chỉ huy; các giao tiếp ứng xử trong và ngoài quân đội. Tuy nhiên,
chức năng cơ bản nhất của họ là giáo dục- đào tạo. Việc ĐTTT-LL cũng chủ yếu thực hiện trong quá
trình giáo dục - đào tạo. Ở đây, tác giả tập trung đề cập hoạt động của giảng viên này theo chức trách
nhiệm vụ chủ yếu của họ.
Hoạt động chủ yếu, cơ bản nhất của giảng viên KHXH là giáo dục- đào tạo cán bộ, sĩ quan đáp
ứng yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị. Họ truyền thụ cho học viên những tri thức KHXH, trang bị
thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận của CNM-LN, TTHCM, quan điểm đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giáo dục nguyên tắc và nghiệp vụ CTĐ, CTCT đáp ứng yêu
cầu đào tạo, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, nhân cách đạo đức và kỹ năng công tác theo chức trách từng
loại cán bộ. Do đó, hoạt động của giảng viên KHXH ở các NTQĐ mang đậm tính chính trị sâu sắc trong
đặc thù lĩnh vực quân sự, biểu hiện tập trung là quán triệt sâu sắc cho cán bộ, học viên quân đội nguyên
tắc: quân sự phục tùng chính trị, đường lối quân sự phục tùng đường lối cách mạng của Đảng, Đảng
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt các lực lượng vũ trang nhân dân; “kiên quyết đập tan mọi luận
điệu của các thế lực thù địch đang ra sức kích động “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, làm biến chất
Đảng và quân đội ta hòng gây ra “tự diễn biến” từ trong nội bộ...”[69, tr 5]; đồng thời cũng chống các luận
điệu xuyên tạc của kẻ thù đối với bạo lực cách mạng, coi hoạt động vũ trang cách mạng là không có tính



nhân văn, làm sáng tỏ tính nhân văn của CNM-LN và TTHCM về đấu tranh cách mạng và chiến tranh
cách mạng.
Tính nhân văn trong hoạt động của giảng viên KHXH ở các NTQĐ được thể hiện ở việc truyền bá
cho quân nhân tư tưởng yêu thương, quý trọng, bảo vệ tự do và nhân phẩm của con người; đấu tranh,
ngăn chặn, đi đến xoá bỏ những hành vi áp bức, bóc lột con người, xâm lược, nô dịch dân tộc và mọi bất
công khác nhằm xây dựng xã hội công bằng, ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời, chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn định hướng, thuyết phục, cảm hoá học viên hoạt động thực
tiễn theo những chuẩn mực giá trị xã hội cao cả, góp phần làm lành mạnh môi trường xã hội, các quan
hệ xã hội trong và ngoài quân đội. Trong mối quan hệ với học viên, người giảng viên KHXH luận giải bản
chất khoa học và mục đích tốt đẹp của các KHXH vì sự giải phóng toàn diện con người. Sự hiểu biết sâu
sắc về kiến thức, nghệ thuật sư phạm, nhất là bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng của giảng viên
KHXH là cơ sở vững chắc để thuyết phục, tích cực hoá về ý thức và hành động của người học viên.
Như vậy, hoạt động của giảng viên KHXH ở các NTQĐ rất phong phú, nhưng cơ bản vẫn là “xây”
và “chống”. “Xây” là nhằm trang bị CNM-LN, TTHCM, quan điểm đường lối của Đảng, những tri thức
KHXH, bồi dưỡng phẩm chất và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh về mọi mặt,
trước hết là có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy đáp
ứng yêu cầu của cách mạng và của quân đội. Hoạt động “chống” là phê phán, vạch trần những quan
điểm tư tưởng sai lầm, phản động của các thế lực thù địch, những tư tưởng tiêu cực (chủ nghĩa cá nhân,
quan liêu...) từ trong nội bộ chúng ta, loại bỏ những nhận thức và hành vi lệch lạc, những tác động tiêu
cực từ nhiều phía đến người học viên; chủ động ngăn ngừa những khuynh hướng và điều kiện phát sinh
nhận thức và hành vi không đúng đắn, có hại. Hoạt động “xây” và “chống” diễn ra đồng thời, đan xen và
có quan hệ biện chứng.
Để “chống” có hiệu quả, giảng viên KHXH ở các nhà trường quân đội phải xác định chính xác và
đầy đủ đối tượng ĐTTT-LL. Đối tượng đó (cũng cho cả giới lý luận nước nhà) là kẻ địch ở bên ngoài, kẻ
địch ở bên trong và ở chính trong nội bộ Đảng, nội bộ quân đội và nhân dân ta.
Kẻ địch ở bên ngoài là các thế lực thù địch, là các trào lưu tư tưởng- lý luận của bọn tư sản đế
quốc, là những âm mưu DBHB...

Kẻ địch ở bên trong là chủ nghĩa cá nhân, là nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Theo Bác Hồ, chủ
nghĩa cá nhân, nạn tham nhũng là những căn bệnh nguy hiểm, từ đó sinh ra các bệnh khác như: tham
lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, mất dân chủ, hẹp hòi... mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ
địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại
từ trong phá ra [57, tr. 238 và 239]. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cuộc vận động nâng cao ý thức trách


nhiệm, tăng cường giáo dục, quản lý chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí, quan liêu là một cuộc
cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa đạo
đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là nạn tham ô, lãng phí, quan liêu [66,
tr. 578].
V.I.Lênin cũng đã chỉ rõ kẻ địch ở bên trong (mà chúng ta thấy rất đúng với tình hình hiện nay):
“Theo tôi, hiện giờ có ba kẻ thù chính đang dứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương
vị nào... Trước mặt họ ba kẻ thù chính ấy là: kẻ thù thứ nhất- tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù
thứ hai- nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba- nạn hối lộ”[39, tr. 217].
Về kẻ địch ở bên trong, Đảng ta đã chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương năm (khoá IX) về nhiệm vụ
của công tác tư tưởng, lý luận. Đó là: “tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong
nhân dân”; “chống chủ nghĩ cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức lối sống”;
“Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị- xã hội nắm chắc diễn biến tư tưởng ở từng địa bàn,
đối tượng, có phương án kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; đề phòng nguy cơ “tự
diễn biến” từ trong nội bộ”[18, tr. 135, 136, 137].
Đối tượng ĐTTT-LL còn ở chính trong nội bộ Đảng, nội bộ quân đội và nhân dân ta để khẳng định
đường lối đúng, xem xét lại những quyết sách sai, sửa chữa khuyết điểm, khám phá chân lý, phát triển lý
luận, tìm ranhững con đường, những cách thức, những biện pháp tốt nhất để giành thắng lợi.
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng thể hiện sự mẫu mực về cuộc ĐTTT-LL trong nội bộ.
V.I.Lênin đã vạch rõ những sai lầm để khẳng định chính sách kinh tế mới (NEP), để thanh đảng, để xây
dựng pháp luật Xô Viết. Người viết: “Chế độ trưng thu lương thực thừa ở nông thôn, cách giải quyết
những nhiệm vụ xây dựng ở thành thị...đứng về mặt đường lối và chính sách của chúng ta mà xét...là
một sự thất bại rất nặng nề và một sự rút lui rất nghiêm trọng”[39, tr. 119]. V.I.Lênin đã từng chỉ ra nhiệm
vụ cho các nhà giáo dục chính trị: “Khi chúng ta hát: “Đấu tranh này là trận cuối cùng”, thì đáng tiếc rằng

câu hát đó có điểm chưa được đúng, - đáng tiếc rằng đây chưa phải là trận chiến đấu cuối cùng của
chúng ta”[39, tr. 205]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Đảng phải luôn xét lại nghị quyết và
những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra
lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[57, tr. 250].
Cố tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện mẫu mực về cuộc đấu tranh nội bộ, ĐTTT-LL qua tác
phẩm “Tự chỉ trích”. Đồng chí nêu rõ: “chỉ trích của người cách mạng tìm tòi những lầm lỗi của mình,
nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để tiến lên; có thứ chỉ trích của người cách mạng vạch mặt nạ bọn
phản động; có thứ chỉ trích thân mật những chỗ nhu nhược của bạn đồng minh; có thứ chỉ trích nghiêm
khắc kẻ long lay, dụ dự để mong kéo họ về mình”[11, tr. 640].
Nhiều Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu cao tinh thần đấu tranh trong nội bộ Đảng
ta để Đảng tiếp tục vững bước tiến lên giành thắng lơị mới như: Nghị quyết Đại hội Đảng VI...Nghị quyết


Đại hội Đảng IX...Ví dụ: Đảng ta có hẳn Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng hiện nay (Nghị quyết
Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII). Trong đó chỉ ra trong Đảng đang bộc lộ những yếu kém, quyết tâm và
những giải pháp sửa chữa khuyết điểm, xây dựng Đảng vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Đấu tranh nội bộ để đổi mới tư duy, dũng cảm nhìn thấy những tư tưởng, quan điểm, cách nghĩ,
cách làm cũ kỹ, sai lầm của các chủ thể chính trị là cực kỳ khó khăn mà các giảng viên KHXH ở các nhà
trường quân đội không thể lảng tránh, thậm chí còn cần phải là lực lượng xung kích, là “Bộ đội chủ lực”
trong đoàn quân ĐTTT-LL của toàn Đảng. Giảng viên KHXH ở các nhà trường quân đội phải nhận rõ và
tiến hành ĐTTT-LL với tất cả các đối tượng trên, không được tách rời hoặc coi nhẹ bất cứ “kẻ địch” nào.
Tất nhiên tuỳ từng đối tượng mà có phương thức đấu tranh phù hợp. Luận án này, tác giả chủ yếu làm rõ
năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH trong đấu tranh với kẻ địch bên ngoài; còn với kẻ địch ở bên
trong để nghiên cứu sâu hơn trong các đề tài khoa học khác.
Hoạt động “xây” và “chống” bị chi phối mạnh mẽ bởi nhiều nhân tố, cả môi trường xã hội, của quân
đội, nhất là của nhà trường và bản lĩnh người giảng viên KHXH v.v... Các nhân tố đó có thể vừa tạo
thuận lợi vừa gây khó khăn đối với hoạt động của người giảng viên KHXH. Do đó, phát hiện và sử dụng
những nhân tố tích cực, hạn chế và khắc phục những tiêu cực của môi trường đối với hoạt động của
giảng viên KHXH, trong đó có ĐTTT-LL là rất quan trọng.

Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm: năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các
NTQĐ là tổng hoà những khả năng phát hiện, phê phán, ngăn chặn và khắc phục ảnh hưởng của
những quan điểm, tư tưởng thù địch, phản động, sai trái nhằm bảo vệ, vận dụng và phát triển
sáng tạo CNM-LN, TTHCM, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, bản chất truyền thống
quân đội và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong quá trình giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học và các hoạt động xã hội khác.
Năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ biểu hiện chủ yếu trong thực hiện các chức
năng chính là giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học. Giảng viên này là một bộ phận quan trọng
trong đội ngũ các chiến sỹ tiên phong của Đảng trên mặt trận tư tưởng - lý luận. Năng lực ĐTTT-LL của
họ có cái chung như các giảng viên KHXH khác, nhưng có cái riêng là thực hiện trong lĩnh vực đặc thù
quân sự.
1.1.2. Những nhân tố cơ bản cấu thành năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng
viên khoa học xã hội ở các nhà trường Quân đội
1.1.2.1. Năng lực nhận thức lý luận
Lý luận mác xít chỉ rõ: nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào óc người một cách
tích cực, sáng tạo. Nhận thức lý luận là trình độ cao của nhận thức. Hoạt động ĐTTT-LL chỉ được thực
hiện có hiệu quả khi chủ thể có năng lực nhận thức lý luận.


Năng lực nhận thức lý luận nâng cao khả năng lĩnh hội và hiểu biết toàn diện của giảng viên KHXH
ở các NTQĐ, nhất là về khoa học cơ bản và chuyên ngành. Nó được lượng hoá bằng những tri thức toàn
diện, ở trình độ cao, đặc biệt là nắm vững bản chất, nội dung các quan điểm CNM-LN, TTHCM, đường
lối của Đảng, các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật; am hiểu sâu sắc môn học
mình giảng dạy và nghiên cứu; nhạy bén phát hiện những sai lầm, phản động và tác hại của các quan
điểm ngoài mác xít. Người giảng viên KHXH còn phải hiểu tường tận các đối tượng giao tiếp, nhất là
người học, về mục tiêu, yêu cầu đào tạo, về các quy luật nhận thức của học viên, về các quy tắc ứng xử,
kỹ năng giao tiếp, các phương pháp dạy học hiện đại… Đó là biểu hiện cụ thể về sự phát triển của trí tuệ,
về thế giới quan, phương pháp luận khoa học để phân tích, đánh giá tình hình, chỉ đạo hoạt động thực
tiễn. Những tri thức đó liên tục được củng cố, bổ sung và phát triển không ngừng.
Trình độ nhận thức lý luận thể hiện ở khả năng phân biệt bản chất các quan điểm lý luận KHXH,

các khuynh hướng chính trị; có cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, vốn kiến thức rộng là
nền tảng trên đó xây dựng tri thức chuyên ngành; nhận thức cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc và đấu
tranh hệ tư tưởng trên thế giới và trong nước; khả năng vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý
mác xít, TTHCM, đường lối của Đảng vào lĩnh vực quân sự, nhất là trong giáo dục- đào tạo ở các NTQĐ.
Năng lực nhận thức lý luận của giảng viên KHXH là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện và
hoạt động thực tiễn của họ. Mặt khác, năng lực đó dựa trên cơ sở sự phát triển hoàn thiện bộ não, hệ
thần kinh, các cơ quan cảm giác; sự nỗ lực, lòng say mê và được kết hợp với phương pháp tư duy
khoa học tốt.
Năng lực nhận thức lý luận của giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn biểu hiện ở sự “hoài nghi khoa
học”, biết phát hiện những vấn đề mới từ thực tiễn bổ sung cho lý luận, phát triển lý luận. Người giảng
viên KHXH không bao giờ được phép bằng lòng với tri thức lý luận đã thâu lượm trong suốt quá trình học
tập và công tác, cho dù rất uyên bác. Bởi vì thực tiễn luôn biến đổi, phát triển nên cần có sự khái quát lý
luận mới. Bản thân những người sáng lập ra CNM-LN không bao giờ coi học thuyết của mình đã đầy đủ,
cho dù thực tế nó là học thuyết rất khoa học và cách mạng. Hoài nghi khoa học là cơ sở cho phấn đấu
tìm tòi, sáng tạo. Nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa hoài nghi, bảo thủ, kinh nghiệm. Hoài nghi khoa học là
điều rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học, nhận thức lý luận, tiếp cận chân lý, đặc biệt là trong bối
cảnh nhiều thông tin trái ngược nhau, thậm chí đối lập. Hoài nghi khoa học không đối lập với niềm tin.
Hoài nghi để mà tin, tin một cách có trí tuệ, duy lý chứ không tin dễ dãi, mù quáng. Nhận thức lý luận
mác xít cần phải có niềm tin. Nếu mất hết niềm tin vào hệ thống lý luận nền tảng của mình (lý luận mác
xít) thì chắc chắn sẽ không thể đem lại cho chúng ta động lực tìm tòi, sáng tạo, vươn tới chân lý, thậm
chí sẽ dẫn đến suy thoái, phản động về chính trị.


Người giảng viên KHXH cần đạt tới trình độ biến những tri thức khoa học thành niềm tin cộng sản,
phát triển đạo đức cách mạng, củng cố vững chắc bản lĩnh chính trị, không ngừng phấn đấu theo lý tưởng
XHCN. Đồng thời, họ còn phải biết cách truyền thụ, xây dựng phẩm chất tốt đẹp đó cho học viên.
Như vậy, năng lực nhận thức lý luận là một bộ phận quan trọng của năng lực ĐTTT-LL của giảng
viên KHXH, tạo cơ sở, tiền đề cho củng cố, phát triển khả năng ĐTTT-LL. Nó được thể hiện bằng sự lĩnh
hội, nắm vững bản chất các tri thức, đặc biệt là về KHXH, về ĐTTT-LL, về nghiệp vụ sư phạm, đảm bảo
cho việc củng cố, phát triển niềm tin, lý tưởng cộng sản.

1.1.2.2. Năng lực thu thập, xử lý thông tin, phát hiện vấn đề trong đấu tranh tư tưởng - lý luận.
Thu thập, xử lý thông tin là hoạt động tìm kiếm, tích luỹ, phân loại để rút ra những tri thức mới
phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người.
Thu thập và xử lý thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong nâng cao trình độ nhận thức và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn. Bởi vì, xã hội càng phát triển, lượng thông tin, tri thức càng nhiều, tăng theo cấp
số nhân. Nếu không có quá trình thường xuyên cập nhật, lựa chọn, phân loại, lưu trữ và xử lý thông tin
để bổ sung tri thức thì chúng ta sẽ nhanh chóng bị lạc hậu. Để nhận thức phát triển và hoạt động thực tiễn
có hiệu quả, không cho phép bất cứ ai (kể cả những người tài giỏi nhất) có thể thoả mãn dừng lại, không
tích cực trau dồi, mở mang hiểu biết. Giảng viên KHXH nếu không thường xuyên thu thập, xử lý thông tin
sẽ không đủ kiến thức, năng lực để giảng dạy, giáo dục, càng không thể ĐTTT-LL có hiệu quả. Ngoài ra, sự
thiếu hụt thông tin, trình độ hạn chế, kiến thức lạc hậu, nghèo nàn, đơn điệu, nông cạn sẽ làm giảm sút uy
tín của người thầy, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng và hiệu quả công tác. Vì vậy, thu thập và xử lý
thông tin là công việc thường xuyên và cấp thiết đối với mọi người, đặc biệt là với người giảng viên KHXH
ở các NTQĐ ta hiện nay.
Năng lực thu thập và xử lý thông tin của người giảng viên KHXH ở các NTQĐ được thể hiện trong
việc sưu tầm tư liệu, tài liệu, số liệu liên quan tới KHXH, các quan điểm, trường phái tư tưởng- lý luận,
những thành tựu khoa học mới, những vấn đề đang tiếp tục nghiên cứu, tranh luận v.v. Thu thập và xử lý
thông tin là quá trình thường xuyên, đòi hỏi tính kiên trì, say mê và có phương pháp khoa học. Thông tin
phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu khoa học, ĐTTT-LL của giảng viên KHXH rất phong phú, được thu
thập từ các phương tiện nghe nhìn (sách, báo, tạp chí), từ trong cuộc sống; theo nguồn chính thống và
không chính thống; có thông tin chính diện, thông tin phản diện; thông tin chuyên ngành, thông tin đa
ngành… Vì vậy, vấn đề quan trọng là phải có năng lực và phương pháp nhận biết, xử lý thông tin đa
chiều. Giảng viên KHXH cần có sự lựa chọn, xử lý và lưu trữ thông tin khoa học; cần nắm thông tin cả
diện rộng và chiều sâu, nắm cái bản chất trong vô vàn cái hiện tượng, những giả tưởng. Thước đo năng
lực thu thập và xử lý thông tin được thể hiện ở tính hệ thống, chính xác, chân thực, cập nhật, phong phú
và hữu ích của thông tin.


Cùng với thu thập và xử lý thông tin, người giảng viên KHXH phải có năng lực phát hiện vấn đề
ĐTTT-LL. Năng lực đó được thể hiện ở khả năng nhận thức đúng đắn, kịp thời, chính xác đối tượng cần

đấu tranh, từ đó làm cơ sở để xác định nội dung, hình thức đấu tranh.
Thông thường, khi giai cấp công nhân đang nắm chính quyền, các quan điểm sai trái, phản động
trong nước ít biểu hiện chống đối công khai mà được nguỵ trang, ẩn giấu bằng các thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt nên không dễ dàng phát hiện hoặc khó thấy mức độ nguy hại. Điều đó phù hợp với nhận định của
V.I.Lênin, thắng lợi của chủ nghĩa Mác buộc những kẻ thù của chủ nghĩa Mác phải khoác áo chủ nghĩa
Mác.
Các quan điểm sai trái có thể xuất hiện ngay trong nội bộ Đảng, trong giai cấp công nhân. Chúng
ta không thể chấp nhận quan điểm đó và kiên quyết đấu tranh loại bỏ. Tuy nhiên, cần thấy rằng những
quan điểm sai trái đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do quan điểm, lập trường chính trị, có thể
do phương pháp nhận thức, có thể do trình độ nhận thức, cũng có thể do thiếu thông tin, thiếu bản lĩnh
v.v. Vì vậy, cần có biện pháp đấu tranh phù hợp, kiên quyết nhưng thấu lý, đạt tình.
Người giảng viên KHXH phải có khả năng phát hiện vấn đề ĐTTT-LL nhanh chóng, chính xác và
đầy đủ, không cho phép nhầm lẫn, chậm trễ. Điều đó rất khó khăn. Vì các quan điểm sai trái , phản diện
thường được khái quát dưới các chiêu bài “phát triển sáng tạo”, “đổi mới”... để phủ nhận CNM-LN,
TTHCM, đường lối của Đảng và đường lối quân sự của quân đội ta. Chúng thường lấy hiện tượng riêng
lẻ, nhất thời để quy về bản chất; lấy cái không cơ bản để phủ nhận cái cơ bản; dùng con người, đơn vị,
tổ chức cá biệt để quy thành cái chung, cái phổ biến. Chẳng hạn, lợi dụng sự đổ vỡ của một số nước
XHCN, những khuyết điểm trong Đảng Cộng sản để phủ nhận CNM-LN, xuyên tạc bản chất của chế độ
XHCN, phủ nhận vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản v.v. Nếu không có hiểu biết sâu, rộng về
các lĩnh vực KHXH. không có sự nhạy cảm chính trị, vốn sống và kinh nghiệm ĐTTT-LL thì người giảng
viên KHXH khó có thể phát hiện kịp thời, chính xác đối tượng ĐTTT-LL và đấu tranh sẽ không có hiệu
quả.
1.1.2.3. Năng lực tư duy khoa học
Tư duy khoa học là tư duy duy vật biện chứng mác xít, là quá trình phản ánh hiện thực một cách
gián tiếp và khái quát, ở đó con người sử dụng ngôn ngữ và các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp,
xử lý các tài liệu cảm tính nhằm phản ánh các thuộc tính, các mối quan hệ có tính bản chất, quy luật của
các sự vật hiện tượng. Tư duy khoa học được chia thành hai cấp độ chính là tư duy kinh nghiệm và tư
duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm là cấp độ thấp của tư duy, thường dừng ở mô tả sự vật, hiện tượng. Tư
duy lý luận là một cấp độ cao, thể hiện sự phát triển về chất của tư duy, là sự hoàn thiện, phát triển tư
duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận hướng tới nhận thức bản chất các quy luật vận động, phát triển của sự

vật, hiện tượng và tìm tòi tri thức lý luận mới bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy luận. Nếu
quá trình tư duy thể hiện ở tính khái quát hoá, trừu tượng hoá và gián tiếp gắn liền với ngôn ngữ thì quá


trình tư duy lý luận thể hiện ở sự hoàn thiện các đặc điểm đó. Quá trình tư duy khoa học là quá trình
phân tích, đánh giá, khái quát hoá các tài liệu kinh nghiệm lên trình độ lý luận, phản ánh đúng bản chất,
quy luật. Tư duy chỉ thực sự khoa học khi đạt đến trình độ tư duy lý luận, nhưng không vì thế mà bỏ qua
hoặc coi nhẹ tư duy kinh nghiệm.
Tư duy khoa học được đặt trên cơ sở phương pháp tư duy biện chứng. Nó nhìn sự vật hiện tượng
(cả tự nhiên, xã hội và tư duy) một cách khách quan, toàn diện, hệ thống, trong sự vận động phát triển,
mang tính lịch sử, cụ thể và sáng tạo. Nó đối lập với kiểu tư duy siêu hình, duy tâm, giáo điều. Tư duy
khoa học mang tính sáng tạo cao, không thoả mãn dừng lại những tri thức, kinh nghiệm đã có mà quan
trọng hơn là liên tục tìm tòi, khái quát mới.
Ngày nay, yêu cầu về năng lực tư duy lý luận rất cao. Người giảng viên KHXH phải am hiểu và sử
dụng thành thạo nội dung, phương pháp tư duy khoa học để biến những tri thức đã có thành những tri
thức mới, khắc phục những nhận thức lệch lạc; không ngừng phát triển tư duy sáng tạo, có khả năng tự
học, tự hoàn thiện và phát triển, khả năng làm việc với con người và trong tập thể khoa học. Việc phát
hiện và vạch trần bản chất các quan điểm sai trái, phản động rất khó khăn, phức tạp. Bởi vì, các quan
điểm đó (có thể sai về khoa học hoặc phản động về chính trị) là kết quả của quá trình “nhào nặn”, khái
quát bởi những lý luận gia tư sản hoặc một số nhà lý luận vốn một thời có uy tín lớn trong giới lãnh đạo
và trí thức nay đã từ bỏ cách mạng. Những quan điểm đó thường được luận chứng khá chặt chẽ theo
lôgíc hình thức, nhìn thoáng qua có vẻ hợp lý, có thể đáp ứng một số nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích nào
đó của một bộ phận nhỏ quần chúng nhân dân; được cổ vũ, ủng hộ bằng nhiều phương tiện thông tin đại
chúng hiện đại và đã ít nhiều “mê hoặc” được một số ít nhân dân, có cả cán bộ, đảng viên.
Nhờ năng lực tư duy lý luận, người giảng viên KHXH nhận thức bản chất vấn đề ĐTTT-LL, gạt bỏ
những hiện tượng bên ngoài đánh lừa để xác định bản chất, lựa chọn và sử dụng biện pháp đấu tranh phù
hợp. Năng lực tư duy lý luận không chỉ dừng lại phân tích, khái quát, tổng hợp các vấn đề lý luận của cuộc
ĐTTT-LL đang diễn ra và vạch hướng cho cuộc đấu tranh đó, mà còn dự báo đúng đắn và chỉ ra cách thức
đối phó với cuộc ĐTTT-LL tương lai. Giảng viên KHXH ở các NTQĐ vừa phải biết khái quát hoá, suy luận
tình hình ĐTTT-LL, vừa biết cụ thể hoá trong từng vấn đề đấu tranh một cách đúng đắn, sáng tạo.

Chất lượng và hiệu quả tư duy lý luận của giảng viên KHXH ở các NTQĐ được đo bằng : độ nhanh
nhạy, độ chuẩn xác và trình độ tư duy.
Độ nhanh nhạy của tư duy khoa học là khoảng thời gian ngắn nhất diễn ra một quá trình tư duy khoa
học trọn vẹn, có hiệu quả. Thông thường, quá trình tư duy lý luận diễn ra nhiều bước, từ nhận thức, lưu
giữ, tái hiện đến xử lý thông tin và cuối cùng đề xuất giải pháp. Mỗi bước đó cần những kỹ năng tương ứng
và một thời gian nhất định. Trong quan hệ cụ thể, nếu cùng một kỹ năng, chủ thể nào có thời gian hoàn
thành các thao tác tư duy lý luận ngắn nhất nhưng vẫn thu được kết quả chuẩn xác thì người đó có độ
nhanh nhạy tốt nhất về tư duy lý luận. Độ nhanh nhạy của tư duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong tư


duy lý luận và trong ĐTTT-LL, bảo đảm tính kịp thời, chủ động. Hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người luôn
phải lựa chọn, cân nhắc và ra các quyết sách giải quyết các vấn đề của hiện thực cuộc sống, thường là rất
khẩn trương. Các quyết sách đó trực tiếp tác động tới chất lượng, hiệu quả và sự thành công hay thất bại
của công việc, nhất là khi công việc đó liên quan tới sinh mệnh, cuộc sống của nhiều người. Trước các vấn
đề quan trọng, khẩn trương, đòi hỏi chủ thể phải nhanh chóng có quyết định cụ thể, đúng đắn. Bất cứ một
sự do dự, chậm trễ nào cũng có thể tác hại, thậm chí gây tai hoạ khôn lường.
Độ chuẩn xác của tư duy khoa học là sự đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc của các thao tác theo quy luật
tư duy và những kết quả rút ra từ quá trình đó. Độ chuẩn xác của tư duy khoa học đóng vai trò rất quan
trọng. Vì tư duy lý luận dù có nhanh nhạy bao nhiêu nhưng không đúng quy luật, các kết luận rút ra sai lầm
thì quá trình tư duy đó cũng trở nên vô nghĩa, thậm chí rất nguy hiểm. Độ chuẩn xác của tư duy lý luận
được thể hiện thông qua việc sử dụng những đơn vị kiến thức đúng, các kết luận, tổng hợp phù hợp với
hiện thực khách quan.
Trình độ tư duy là sự phản ánh cấp độ của tư duy, biểu đạt hàm lượng trí tuệ, khả năng khái quát
hóa, trừu tượng hoá, khả năng sáng tạo... Tư duy lý luận là một cấp độ cao của tư duy, song nó cũng
được phân thành các cấp độ khái quát khác nhau như: khái niệm, phạm trù, quy luật. Quy luật là sự phản
ánh tư duy lý luận ở trình độ cao nhất. Trình độ tư duy chỉ thực sự cao khi hội tụ trong nó cả sự nhanh
nhạy, chuẩn xác và khái quát lý luận. Ở cấp độ cao của tư duy lý luận, con người có thể khái quát hoá và
trừu tượng hoá thế giới hiện thực khách quan, từ đó mà nhận thức các sự vật, hiện tượng đúng đắn, đầy
đủ và sâu sắc nhất. Trình độ tư duy lý luận cao còn thể hiện tổng hợp độ nhanh nhạy và độ chuẩn xác
của tư duy lý luận. Con người chỉ có thể vươn lên nhận thức và “làm chủ” thế giới khi họ đạt tới trình độ

cao của tư duy lý luận. Tất nhiên để đạt tới cấp độ đó, con người phải có cả một quá trình học tập, rèn
luyện, tích luỹ và trải nghiệm hoạt động thực tiễn; phải thông qua tất cả các cấp độ từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy, thông qua các chỉ số về độ nhanh nhạy, độ chuẩn xác và trình độ tư duy, chúng ta có thể
đánh giá được chất lượng và hiệu quả của tư duy lý luận. Người giảng viên KHXH ở các NTQĐ trong
ĐTTT-LL phải bộc lộ khả năng tư duy lý luận của mình qua các tiêu chí trên. Họ phải đánh giá đúng đối
tượng người học, mục tiêu, yêu cầu đào tạo, đối tượng môn học, nội dung cơ bản, phương pháp nghiên
cứu… từ đó xác định dung lượng, cụ thể hoá nội dung lý luận, gắn lý luận với giải quyết những vấn đề
thực tiễn cách mạng, phê phán những quan điểm lệch lạc; tìm ra phương pháp trình bày tối ưu, vừa khái
quát, vừa cụ thể và gợi mở hướng nghiên cứu tiếp. Nghĩa là, giảng viên KHXH phải có kiến thức và
phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp. Phương pháp đó đã được lý luận hoá, trở
thành phương pháp luận. Bởi vì, cùng một mặt bằng kiến thức, nhưng do phương pháp khác nhau mà
chất lượng và hiệu quả hoạt động thực tiễn của mỗi người rất khác nhau. Sự trưởng thành của năng lực
tư duy khoa học là ở phương pháp sáng tạo.


Năng lực tư duy lý luận của giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn thể hiện qua việc tổng kết thực tiễn
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác. Quá trình hoạt động, người giảng viên phải sử
dụng tổng hợp các khả năng, đặc biệt là tư duy lý luận. Thực tiễn ĐTTT-LL có nhiều vấn đề mới nảy sinh
cần sự khái quát, hướng dẫn của lý luận. Tổng kết thực tiễn để giải quyết yêu cầu đó, đồng thời phát
triển lý luận. Vấn đề quan trọng là phải đúc kết thực tiễn và nâng lên trình độ bản thân những vấn đề lý
luận mới đúc rút không những là các vấn đề của đời sống hiện thực mà còn là lời giải đáp đúng đắn cho
thực tiễn ĐTTT-LL. Tư duy lý luận của mỗi giảng viên bao giờ cũng có cả ưu điểm và hạn chế. Vì vậy,
không ngừng bổ sung và hoàn thiện năng lực tư duy lý luận của giảng viên KHXH luôn là một vấn đề cơ
bản và mang tính thời sự cấp thiết. Thường xuyên tổng kết thực tiễn là một giải pháp quan trọng để thực
hiện sự hoàn thiện đó, rút ra những bài học cả về thành công cũng như thất bại giúp cho nâng cao năng
lực tư duy lý luận.
1.1.2.4. Năng lực tổ chức thực tiễn đấu tranh tư tưởng - lý luận
Năng lực tổ chức thực tiễn ĐTTT-LL là tổng hợp những khả năng của chủ thể có thể huy động cho
hoạt động ĐTTT-LL. Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng và hiệu quả ĐTTT-LL, chứng tỏ

“sức mạnh”, trình độ khoa học và nghệ thuật đấu trí của chủ thể trước các đối tượng ĐTTT-LL. ĐTTT-LL
không chỉ là phát hiện, nhận thức sâu sắc các quan điểm sai trái, phản động mà cao hơn và quan trọng
hơn là sự quyết tâm và biết cách tiến hành đấu tranh vạch trần bản chất phi khoa học, phản động của
các quan điểm đó, ngăn chặn, khắc phục ảnh hưởng xấu của nó đối với quần chúng lao động. Tất nhiên,
hai hoạt động đó có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng luôn thống nhất và có mối quan hệ biện chứng với
nhau, không thể tách rời, tuyệt đối hoá hoặc coi nhẹ mặt nào. Thông qua hoạt động tiến hành ĐTTT-LL,
chủ thể đạt được mục đích của mình, kiểm nghiệm sự đúng đắn và bổ sung cho quá trình nhận thức, thu
thập, xử lý thông tin, phát hiện vấn đề và tư duy khoa học lúc đầu.
Năng lực tổ chức thực tiễn ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ thể hiện đầy đủ các yếu tố
tính đảng, tính khoa học và nghệ thuật, có nội dung toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trên tất
cả các vấn đề đấu tranh, phù hợp với từng đối tượng, có ngôn ngữ trong sáng và lập luận chặt chẽ.
Về nội dung
Giảng viên KHXH phải dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để vạch trần bản chất các quan điểm
thù địch, chỉ ra tính chất nguỵ biện, mỵ dân của nó, chứ không phải phê phán vũ đoán, “đao to búa lớn”
hoặc kiểu hô khẩu hiệu.
Cũng bằng cơ sở lý luận và thực tiễn, giảng viên KHXH phải làm rõ tính khoa học, cách mạng
của luận điểm Mác- Lênin, TTHCM, đường lối của Đảng, đập lại những điều mà kẻ thù xuyên tạc.
Đồng thời, người giảng viên KHXH phải biết phân biệt rõ những tư tưởng "mới lạ” trong nội bộ chúng
ta, những tư tưởng đó có thể chứa đựng yếu tố hợp lý, nhưng chưa hoàn thiện và với mục đích trong
sáng để mà khuyến khích tìm tòi, bổ sung, phát triển, tránh phê phán kiểu áp đặt, “chụp mũ”; nhận rõ


×