LICAMOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các
số liệu, trích dẫn trong luận án là trung
thực, có xuất xứ rõ ràng và không trùng
lặp với những công trình đà công bố.
TCGILUNN
TrnVitHng
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ
ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Chương MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
1
TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG CÁC
NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1.
Quan niệm, đặc điểm, vai trị của đội ngũ trí thức khoa
học Mác Lênin trong các nhà trường Qn đội nhân
dân Việt Nam
1.2.
Quan niệm và những vấn đề có tính quy luật xây dựng
đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường
Qn đội nhân dân Việt Nam
Chương THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
2
KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG CÁC NHÀ
TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
2.1.
Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin
trong các nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đội ngũ
trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Qn
đội nhân dân Việt Nam
Chương U CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG ĐỘI
3
NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC LÊNIN TRONG
CÁC NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu xây dựng đội ngũ trí
thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Quân
5
11
29
29
50
70
70
99
109
109
đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2.
Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức khoa học
Mác Lênin trong các nhà trường Qn đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Chữ viêt đây đu
́ ̀
̉
Chinh tri Qc gia
́
̣
́
Chu nghia xa hơi
̉
̃ ̃ ̣
Cơng nghiêp hoa, hiên đai hoa
̣
́
̣
̣
́
Đang uy Qn s
̉
̉
ự Trung ương
Đơi ngu tri th
̣
̃ ́ ưć
Giao duc va đao tao
́ ̣
̀ ̀ ̣
Khoa hoc va cơng nghê
̣
̀
̣
Qn đơi nhân dân Viêt Nam
̣
̣
Qn uỷ Trung ương
Chư viêt tăt
̃ ́ ́
CTQG
CNXH
CNH, HĐH
ĐUQSTƯ
ĐNTT
GD&ĐT
KH&CN
QĐNDVN
QUTƯ
123
163
166
167
177
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái qt về luận án
Đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà
trường Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ trong suốt
q trình học tập, cơng tác và tham gia giảng dạy. Đây là một cơng trình khoa
học độc lập, khơng có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được cơng bố. Tác
giả nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các
nhà trường qn đội hiện nay là một nội dung quan trọng, bổ ích, có thể bổ
sung cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tác giả. Vì vậy,
tác giả đã xin ý kiến chun gia, trao đổi với các thầy hướng dẫn và quyết định
chọn làm vấn đề nghiên cứu trong luận án của mình. Đề tài mà tác giả trình
bày có kết cấu gồm phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương, 6
tiết; kết luận; các bài báo và cơng trình khoa học của tác giả đã cơng bố;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục . Với dung lượng 3 chương (6 tiết),
cơng trình nghiên cứu bảo đảm triển khai được những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường
QĐNDVN; từ đó nêu lên những yếu tố tác động, xác định u cầu và đề
xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong
các nhà trường QĐNDVN hiện nay. Những vấn đề được luận giải trong đề
tài, một mặt, là sự kế thừa có chọn lọc một số quan điểm của các học giả
trong các cơng trình nghiên cứu trước đó; mặt khác, chính là sự nỗ lực
nghiên cứu của tác giả dưới sự định hướng của các thầy hướng dẫn.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong mọi thời đại, tri thức ln là khởi nguồn của sự tiến bộ xã hội,
ĐNTT là lực lượng nịng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và cơng nghệ hiện đại, ĐNTT trở
6
thành một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong q trình phát triển của mỗi
quốc gia.
Suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln nhận thức sâu sắc, đánh giá cao vị trí, vai trị, đặc biệt là phát
huy vai trị ĐNTT trong sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trí thức cũng cần, trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức càng cần. Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách nhằm tơn vinh, xây dựng và phát huy vai trị
của ĐNTT, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, gắn với
phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh vị trí, vai
trị quan trọng của ĐNTT trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay,
đồng thời đề ra u cầu cần phải: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có
chất lượng cao, đáp ứng u cầu phát triển đất nước” [49, tr. 241].
Đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường qn đội là
một bộ phận của ĐNTT qn đội và ĐNTT Việt Nam; là lực lượng nịng
cốt giảng dạy các mơn lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, trang bị thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản cho học viên trong các nhà trường
qn đội, góp phần quan trọng đào tạo ra các thế hệ cán bộ, sĩ quan có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành
mạnh, có năng lực lãnh đạo, chỉ huy và chun mơn nghiệp vụ theo chức
trách, nhiệm vụ, đáp ứng u cầu xây dựng qn đội, củng cố quốc phịng,
bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với giảng dạy, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường
qn đội cịn là một lực lượng nịng cốt nghiên cứu, phát triển và tun truyền
lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng; tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các
luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối,
7
quan điểm của Đảng; góp phần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư
tưởng của Đảng trong qn đội.
Trong những năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, QUTƯ,
trực tiếp là cấp uỷ các nhà trường qn đội, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong
các nhà trường qn đội đã có sự phát triển mạnh mẽ, tồn diện, về cơ bản đáp
ứng u cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các
nhà trường qn đội cịn thiếu về số lượng; trình độ chun mơn chưa
đồng đều, một bộ phận chưa cao; cịn thiếu những chun gia đầu ngành ở
các lĩnh vực quan trọng; độ tuổi trung bình vẫn cịn cao; trình độ ngoại ngữ
và tin học cịn hạn chế, việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện dạy học
hiện đại cịn khó khăn... Điều này dẫn đến chất lượng giảng dạy hạn chế;
cơng tác nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường chưa
theo kịp sự phát triển của qn đội và đất nước, nhất là sự hạn chế về
năng lực tư duy lý luận, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, khả năng
vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn quốc phịng, qn
sự đặt ra.
Hiện nay cũng như những năm tới, cùng với cả nước, các nhà trường
qn đội đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, tồn diện GD&ĐT, trong đó có
giảng dạy các mơn lý luận Mác Lênin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp ứng u cầu xây dựng qn đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ
sở, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của qn đội.
Đất nước sau gần 30 năm đổi mới tuy đã giành được nhiều thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử, nhưng cịn khơng ít khó khăn, thách thức. Nhiều
vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra địi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ.
Trong khi các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến
hồ bình”, coi tư tưởng, lý luận là mặt trận hàng đầu để chống phá cách
mạng nước ta. Chúng ra sức xun tạc, phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và luật
8
pháp của Nhà nước. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực
thù địch là xun tạc bản chất và truyền thống cách mạng hịng “Phi chính
trị hố”, vơ hiệu hố qn đội ta. Vì vậy, để đáp ứng u cầu giảng dạy và
nghiên cứu khoa học trong các nhà trường qn đội hiện nay cần phải đặc
biệt coi trọng xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin vững mạnh, thực sự là
một trong những lực lượng nịng cốt xây dựng qn đội vững mạnh về
chính trị, hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân
dân giao phó. Đó cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: Xây dựng
đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các nhà trường Qn đội nhân
dân Việt Nam hiện nay làm luận án tiến sĩ triết học, chun ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng
ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN, xác định u
cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số lượng, chất
lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về ĐNTT khoa học Mác Lênin, xây
dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN.
Khảo cứu thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong
các nhà trường quân đội, làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và
rút ra những kinh nghiệm.
Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác
Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
9
Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà
trường QĐNDVN.
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin cả về số lượng, cơ
cấu và chất lượng trong các nhà trường QĐNDVN bao gồm: Các giảng viên,
nghiên cứu viên, cán bộ quản lý thuộc các chun ngành triết học Mác Lênin,
kinh tế chính trị học Mác Lênin, CNXH khoa học đang cơng tác trong các học
viện, nhà trường qn đội đào tạo bậc đại học và sau đại học ở khu vực
miền Bắc.
Khảo cứu thực tiễn từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 94
NQ/ĐUQSTW ngày 29/4/1998 của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ) về “Xây dựng
đội ngũ cán bộ quân đội trong tình hình mới” đến nay; đề xuất yêu cầu,
giải pháp từ nay đến 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và xây dựng ĐNTT; quan điểm
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng xây dựng ĐNTT khoa học
Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; kết quả nghiên cứu, khảo sát
thực tiễn của tác giả và của các cơng trình khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với
khảo cứu thực tiễn, vận dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử lơgíc, hệ
10
thống cấu trúc, phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát và phương pháp
chun gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
Phân tích làm sáng tỏ quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; quan niệm và những vấn đề có tính quy
luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường QĐNDVN.
Khái qt những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN những năm qua; đề xuất những u cầu,
giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường
qn đội vững mạnh, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm quan
niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường
qn đội; đặc biệt là làm sáng tỏ quan niệm và những vấn đề có tính quy
luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà trường qn đội
hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học
phục vụ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng ĐNTT khoa học
Mác Lênin trong các nhà trường qn đội hiện nay.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cơng
tác GD&ĐT, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường qn đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên
cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình của tác giả đã cơng
bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC – LÊNIN TRONG
CÁC NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi có liên quan đến đề
tài
Tại các nước tư bản, q trình phát triển khu vực kinh tế tri thức
(knowledge Economy) ở vào những năm 50, đặc biệt từ thập niên 90 với sự
phát triển của cuộc cách mạng tin học và các xu hướng tồn cầu hố, đã làm
biến đổi tính chất lao động trí óc của tầng lớp trí thức theo hướng gắn trực tiếp
với việc sản xuất và biến đổi thơng tin. Năm 1973, nhà xã hội học học người
Mỹ Daniel Bell trong tác phẩm: “The Coming of Post Industrial Society: A
Venture in Social Forecasting” [24] (Sự xuất hiện của xã hội hậu cơng nghiệp:
Hướng dẫn một dự đốn xã hội) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xã hội hậu
cơng nghiệp” và lao động “áo cổ trắng”. Ơng nhấn mạnh trong xã hội cơng
nghiệp, vai trị cơ bản thuộc về tư bản và lao động “áo cổ xanh”, cịn trong “xã
hội hậu cơng nghiệp” vai trị cơ bản thuộc về trí thức và lao động “áo cổ
trắng”.
Khái niệm lao động “áo cổ trắng” đến nay được biết nhiều thơng qua
thuật ngữ “lao động tri thức” (knowledge Worker) và “kỹ thuật viên tri thức”
(knowledge Technogist). Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ gốc Áo, Peter
F.Drucker trong cuốn “The Landmarks of Tomorrow” [101] (Cột mốc của ngày
mai) xuất bản năm 1959 quan niệm “lao động tri thức” là những người có lượng
kiến thức và sự hiểu biết đáng kể về mặt lý thuyết như các bác sĩ, các luật gia,
các giáo viên, kế tốn viên, các kỹ sư và nhất là các kỹ thuật viên tri thức như: kỹ
thuật viên máy tính, người thiết kế phần mềm, nhân viên phân tích phịng thí
nghiệm, kỹ thuật viên cơng nghiệp chế tạo... Nói khác đi, khái niệm trí thức
12
được diễn đạt thành những “lao động tri thức” và “kỹ thuật viên tri thức”. Đây
cũng là lần đầu tiên ơng nêu khái niệm “lao động tri thức”, “người cơng nhân tri
thức” vì ơng cho rằng thế giới đang dần dịch chuyển từ nền kinh tế hàng hố
sang nền kinh tế tri thức. Bây giờ những khái niệm này đã trở thành chuyện bình
thường nhưng vào thời đó nền cơng nghiệp Mỹ đang chịu ảnh hưởng của tư
tưởng sản xuất dây chuyền của Frederick Taylor, cơng nhân được xem như
“những con rơbốt chỉ biết siết ốc”.
Những quan niệm trên đây phản ánh xu hướng xích lại gần nhau giữa
giai cấp cơng nhân và tầng lớp trí thức trong q trình phát triển mạnh mẽ của
khu vực kinh tế tri thức, nhất là tại các nước tư bản phát triển. Xu hướng xích
lại gần nhau này tuy thế, khơng thể dẫn đến chỗ sáp nhập tồn bộ trí thức
vào giai cấp cơng nhân, và cũng khơng thể chuyển giai cấp cơng nhân thành trí
thức. Bởi lẽ, bản chất lao động, vị trí, vai trị của tầng lớp trí thức và giai cấp
cơng nhân trước sau vẫn có những đặc điểm riêng. Do đó, cần thiết phải
nghiên cứu tầng lớp trí thức nói chung và ĐNTT các mơn lý luận Mác Lênin
nói riêng theo lập trường Mácxít, thì mới có những kiến giải xác thực về khoa
học và thực tiễn.
Tác phẩm “Về trí thức Nga” của nhiều tác giả (Nga) (2009) [110] là
cơng trình tập hợp 12 bài viết của nhiều trí thức trước Cách mạng tháng
Mười (1917) của nước Nga thuộc Liên Xơ cũ và thời kỳ “hậu Xơ viết”. Thời
gian cơng bố các bài viết ấy trải dài gần một trăm năm, từ những bài trong
tập Những cột mốc (Vekhi) cơng bố năm 1909 cho tới những bài viết thời
nay. Các tác giả đã tiếp cận dưới các góc độ khác nhau: Tầng lớp trí thức là
gì? Trí thức và nhận thức pháp quyền, trí thức và chủ nghĩa xã hội, bàn về
phương hướng và nhiệm vụ của giới trí thức Nga, những người trí thức
Nga sau năm 1917 là những người như thế nào? Ở nước Nga hiện nay có
tồn tại một giới trí thức hay khơng? v.v... Nội dung các bài viết là những
13
đánh giá phê phán giới trí thức Nga của chính những người thuộc giới này
với tâm thế đau xót tự kiểm điểm (ngoại trừ hai bài viết thời hiện đại của
Gary Neill và Tumanov). Cơng trình này thể hiện được chính kiến của các
trí thức rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều ghi nhận tinh thần học
thuật nghiêm túc và với ý thức xã hội đáng trân trọng. Trong khung cảnh
lịch sử và hồn cảnh xã hội của nước Nga lúc bấy giờ, người trí thức đã
viết nên những trăn trở, dồn nén và phản ứng (cả tích cực và tiêu cực).
Trong các bài viết, các tác giả Nga có nhiều cách hiểu khác nhau về danh
xưng trí thức. Mặc dù vậy, ở họ vẫn có sự thống nhất khi cho rằng: Trí
thức Nga được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một nhóm người
tương đối đơng về số lượng và có sự liên kết nội tại tương đối mật thiết
và thống nhất. Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ
có học thức nhất định, ln tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với tồn
thể cộng đồng (có thể rộng hẹp khác nhau như: giai cấp vơ sản, nhân dân
Nga hay tồn nhân loại) và có thái độ dấn thân để thực hiện sứ mệnh đem
lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng.
Tác giả Jennifer Lewingion (2011) với bài viết “Biết trọng dụng
người tài, Canađa vượt lên trước “bầy sói”” [75]. Qua bài viết này tác giả
nhấn mạnh: vào giữa những năm 1990, giới chức giáo dục đại học ở Canađa
đã cảnh báo hậu quả của việc chính phủ cắt giảm quỹ giành cho nghiên cứu
khoa học và “nguy cơ” chảy máu nhân tài. Tuy nhiên, Canađa đã trải qua một
thời kỳ phục hưng mạnh mẽ trong nghiên cứu và giáo dục đại học. Các
trường đại học nghiên cứu ở Canađa đã khẳng định được vị trí đứng đầu và
trở thành những chiếc nam châm thu hút nhân tài quốc tế. Các chính phủ cấp
thành phố và liên bang đã đổ một khoản tiền lớn chưa từng thấy cho con
người và trang thiết bị nhằm thúc đẩy đổi mới, phát minh và tạo ra một giới
chun gia đơng đảo. Cuộc cách mạng về chiến lược mới đã ra đời năm
1997, khi chính phủ liên bang thành lập “Quỹ Đổi mới Canađa”, hoạt động
14
như một cơ quan độc lập nhằm tài trợ cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa
học. Các biện pháp khác được áp dụng sau đó, như lập ra các khoản trợ cấp
đặc biệt cho các học giả mới nổi hoặc xuất chúng ở Canađa và nước ngồi;
tạo dựng các hiệp hội nghiên cứu có sinh lời giữa các nghiên cứu sinh hậu
tiến sĩ ở Canađa và nước ngồi. Với chiến lược phát triển đúng đắn, hiện
nay Canađa đã thu hút được các chun gia hàng đầu thế giới đến làm việc
tại quốc gia này, trở thành quốc gia “đi từ chỗ khơng được xếp hạng để trở
thành một nước được tham gia vào cuộc đua”.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc trong khn khổ lý
luận về CNXH phát triển, đã có quan niệm coi tầng lớp trí thức là một bộ
phận của giai cấp cơng nhân. Cơ sở xuất phát của quan niệm này là thành
phần xuất thân của trí thức chủ yếu từ hai giai cấp cơ bản trong xã hội, là
cơng nhân và nơng dân. Trong bài diễn văn của Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Trung Quốc đọc tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng
sản Trung Quốc (0172001) đã khẳng định: “Tầng lớp trí thức với tư cách
là một bộ phận của giai cấp cơng nhân, đã tăng cường mạnh mẽ tố chất
văn hố, khoa học, kỹ thuật cho giai cấp cơng nhân” [118, tr. 69]. Trung
Quốc cũng là một quốc gia rất xem trọng việc xây dựng, đào tạo, bồi
dưỡng ĐNTT. Trên thực tế có nhiều cơng trình khoa học của nhiều tác giả
nghiên cứu về ĐNTT ở quốc gia này. Tiêu biểu phải kể đến:
Hai tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc Diệu (đồng chủ biên)
(2008) với cuốn sách “Tơn trọng trí thức, tơn trọng nhân tài kế lớn trăm
năm chấn hưng đất nước” [65]. Các tác giả đã trình bày nhiều nội dung nổi
bật trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình, người được coi là “Tổng cơng
trình sư của cơng cuộc cải cách, mở cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội
chủ nghĩa của Trung Quốc”, về những vấn đề rất cơ bản như: đường lối
tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; nhân tài là then chốt của phát
triển; tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về tuyển
15
chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về cải cách chế độ nhân
sự trong việc sử dụng nhân tài; về tạo môi trường cho nhân tài phát
triển...Qua cuốn sách này, các tác giả đã khái quát một cách tổng thể về tư
tưởng của Đặng Tiểu Bình cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó trong
chiến lược xây dựng nhân tài ở Trung Quốc. Có thể nói rằng, cuốn sách
này có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách cán bộ
nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói riêng ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Tác giả Lưu Bảo Quốc (2006) với bài viết “Từ phần tử trí thức của
giai cấp đến giai cấp của phần tử trí thức” [105]. Nội dung của cơng trình
này cho rằng: “phần tử trí thức” là nhưng ng
̃
ươi co ly t
̀ ́ ́ ưởng, co hoc th
́ ̣
ưc,
́
đong gop cho xa hơi, giao duc ng
́
́
̃ ̣
́ ̣
ươi khac
̀
́ ; là sản phẩm của sự phân hố giai
cấp trong xã hội lồi người. Trong các chế độ xã hội, trí thức chỉ có thể tồn
tại dựa vào giai cấp nhất định với tư cách là phần tử trí thức của giai cấp
đó. Tuy nhiên, khi kinh tế tri thức xuất hiện, phần tử trí thức đã thể hiện
được vị trí, vai trị của mình và trở thành giai cấp độc lập. Đồng thời, trong
xã hội kinh tế tri thức thì tất cả các giai cấp đều đang tiến từ phần tử trí
thức hố, trở thành giai cấp của phần tử trí thức. Đây cũng sẽ là giai cấp
sau cùng của xã hội lồi người để đi đến xã hội khơng cịn giai cấp.
Tác giả Lăng Tường (2002) với bài viết “Tổng quan về 5 trường đại
học tổng hợp trong tồn qn” [134] đã đề cập trực tiếp đến các nhà trường
của qn đội Trung Quốc, phân tích việc kiện tồn hệ thống nhà trường
qn sự, đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ
khoa học qn sự. Theo tác giả, hệ thống các trường qn sự của Trung
Quốc được kiện toàn, đổi mới từ những năm 1980 với mục tiêu đào tạo
ĐNTT chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại. Các trường
quân sự của Trung Quốc rất chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ
16
quản lý giáo dục. Đội ngũ giảng viên các trường qn sự, nhất là giảng viên
có học hàm, học vị cao được quan tâm phát triển tồn diện và chiếm tỉ lệ
ngày càng cao trong tổng số trí thức qn đội Trung Quốc. Chẳng hạn,
trường Đại học Khoa học kĩ thuật quốc phịng có 1049 Giáo sư và Phó Giáo
sư; Đại học Cơng trình Vật lý có 543 Giáo sư và Phó Giáo sư, 276 người có
học vị Sau đại học; Đại học Cơng trình Thơng tin có trên 500 Giáo sư và Phó
Giáo sư…
Liên quan trực tiếp đến ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các trường
qn đội về cơ bản chỉ được đề cập đến ở Liên Xơ trước đây. Chẳng hạn,
cuốn sách, “Phương pháp giảng dạy các mơn khoa học xã hội” của X.G. Lu
cơnhin và V.V. Xêrêbriannicốp (chủ biên) (1981) [89]. Cuốn sách tổng
kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội trong đó có khoa học
Mác Lênin ở các trường qn sự Liên Xơ, vận dụng những phương pháp và
hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội, nhằm phổ biến kinh
nghiệm giảng dạy cho tất cả giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng
viên mới bước vào mơi trường sư phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ thể ở
nhà trường qn sự phải vạch ra phương hướng phấn đấu cho họ kết hợp
với kiểm tra thường xun q trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý
luận và nghiệp vụ sư phạm làm cơ sở để củng cố niềm tin, thế giới quan
cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội ngũ giảng viên mới ở các
trường qn sự.
Ngồi quan niệm và các cơng trình nghiên cứu đã nêu, cịn một số
quan niệm khác đánh giá về vai trị và tầm quan trọng của trí thức như:
Lý thuyết Nhân tài 3C (3C Talent Formula) của Giáo sư Dave Ulrich
Đại học Michigan (Hoa Kỳ) [25], một chun gia hàng đầu về nhân lực và
nhân tài đề cập đến quan niệm về nhân tài với phương trình 3C (Talent =
17
Competence, Commitment, Contribution / Nhân tài = Năng lực, Cam kết,
Cống hiến); nhân tài phải có cái đầu (năng lực sáng tạo), bàn tay và đơi chân
(làm việc hết mình) và trái tim (sự viên mãn, thăng hoa, cống hiến), có khả
năng làm tốt những cơng việc của ngày hơm nay và đặc biệt là của tương lai.
Ơng cũng đưa ra những giải pháp phát hiện những trí thức là “người giỏi” và
bồi dưỡng, vun đắp họ thành “nhân tài”, mang lại giá trị cao cho tổ chức, xã
hội.
Chính sách “tam tài” của Trung Quốc (“Bồi dưỡng nhân tài, thu hút
nhân tài và trọng dụng nhân tài”; “Lấy sự nghiệp để thu hút nhân tài, lấy
tình đồng bào để quy tụ nhân tài, lấy chính sách để phát triển nhân tài”)
[126], trong đó tập trung thực hiện các chủ trương, giải pháp: Ra sức ủng
hộ sự sáng tạo của đội ngũ trí thức, thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển,
đưa thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất; Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
động viên trí thức đóng góp vào sản xuất; Điều động nhân tài hợp lý, cạnh
tranh bình đẳng, tạo cơ chế cho những người ưu tú có dịp thể hiện tài
năng; Mở rộng kênh thơng tin để tiếp thu ý kiến đóng góp của đội ngũ trí
thức, thúc đẩy dân chủ hố, khoa học hố; Tăng cường cơng tác chính trị tư
tưởng cho đội ngũ trí thức, làm cho họ kết hợp hài hồ giữa nhu cầu cá
nhân và việc phục vụ Nhà nước; Hồn thiện mơi trường xã hội để trí thức
phát huy được hết tài năng.
2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài
Chủ đề về trí thức cũng được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc
độ và phạm vi khác nhau. Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đất nước
bước vào cơng cuộc đổi mới đến nay, vấn đề trí thức được quan tâm
nghiên cứu tương đối hệ thống, qua một số chương trình khoa học cấp nhà
18
nước, cơng trình nghiên cứu độc lập, luận văn, luận án và một số bài viết
đáng lưu ý như:
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan về trí
thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
Tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước” của ngun Tổng bí thư Đỗ Mười (1995) [98]. Đây là cơng trình
được xuất bản trên cơ sở tập hợp các bài viết của tác giả về trí thức.
Trong cơng trình này, tác giả khẳng định quan điểm nhất qn của Đảng và
Nhà nước trong đánh giá về vai trị của trí thức Việt Nam đối với cơng
cuộc phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; đề
cập trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy
vai trị của trí thức nhằm đáp ứng u cầu của sự nghiệp đổi mới. Bên
cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục
nhằm phát huy một cách tốt nhất tiềm năng, trí tuệ của ĐNTT.
Tác giả Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001) với cơng trình khoa học
“Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong cơng nghiệp hố,
hiện đại hố” [28]. Cơng trình đã nghiên cứu một cách tồn diện về trí thức
Việt Nam. Trong đó, tác giả khẳng định vị trí, vai trị của trí thức; đi sâu
phân tích đường lối CNH, HĐH của Đảng và coi đó là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời xác định những
u cầu đặt ra trước trí thức với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của xã
hội.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn (1998) với cơng trình “Một số vấn đề về
trí thức Việt Nam” [132]. Trong cơng trình này, một mặt tác giả trình bày
những vấn đề lý luận về bản chất xã hội, vai trị của trí thức đối với tiến
bộ xã hội; mặt khác, tác giả đã cung cấp cho người đọc thấy được bức
19
tranh chung nhất của trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra
đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam. Theo tác
giả, xu hướng phát triển của ĐNTT có thể diễn ra theo hai giai đoạn: giai
đoạn một, đa dạng hố, định hình hố các nhóm xã hội trí thức như một
tầng lớp xã hội đặc thù và độc lập tương đối; giai đoạn hai, trên cơ sở đa
dạng hố và thống nhất các tính chất chung của lao động trí óc sáng tạo,
các nhóm xã hội trí thức tiếp tục phát triển như một tầng lớp xã hội đặc
thù và độc lập tương đối, thúc đẩy mạnh hơn q trình trí thức hố xã hội.
Trên cơ sở phân tích những yếu tố khách quan, chủ quan việc lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa của ĐNTT trong xu thế phát triển của thời đại và đất
nước, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới cơng
tác quản lý và thực hiện chính sách xã hội đối với ĐNTT trong giai đoạn hiện
nay.
Tác giả Nguyễn Đắc Hưng (2005) với cơng trình “Trí thức Việt Nam
trước u cầu phát triển đất nước” [70]. Cơng trình đề cập đến nhiều vấn đề
quan trọng, chẳng hạn, trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về
trí thức, tác giả đã phân tích những u cầu đặt ra đối với trí thức Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Qua đó, tác giả đã khái qt
thực trạng bức tranh chung của trí thức Việt Nam: từ cơ cấu, trình độ đến
việc phân bố trí thức theo các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế…; đề xuất
một số giải pháp phát triển trí thức trong điều kiện mới.
Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn
2011 2020” do tác giả Đàm Đức Vượng làm chủ nhiệm (2010) [142]. Đây
là cơng trình nghiên cứu mang tính tổng thể về đội ngũ trí thức Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở trình bày những vấn đề lý luận chung
về trí thức, đề tài đi sâu phân tích thực trạng của trí thức và sử dụng trí
20
thức trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Đặc biệt, để phân tích thực trạng
của trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cơng trình đưa ra nhiều số
liệu khách quan góp phần minh chứng cho các lập luận được trình bày
trong đề tài và đưa ra các phương hướng, giải pháp xây dựng ĐNTT Việt
Nam giai đoạn 2011 2020. Trong đó, ngồi các giải pháp mang tính tổng
thể, đề tài phân tích nhiều giải pháp có ý nghĩa để xây dựng và phát huy vai
trị của trí thức trên từng lĩnh vực hoạt động. Qua đó, góp phần cung cấp
các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính
sách đối với ĐNTT Việt Nam trong những năm tới.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích u cầu của sự nghiệp
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, của hội nhập quốc tế đối với việc xây
dựng, phát triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các lĩnh vực
khác nhau; dự báo tình hình trong nước và thế giới trong những năm tới tác
động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số giải pháp,
biện pháp cụ thể nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng như các nhóm trí
thức đáp ứng địi hỏi của tình hình mới.
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu về xây dựng, phát huy
vai trị của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và các lực lượng
trí thức khác nhau trong q trình cách mạng
Tác giả Ngơ Thị Phượng (2007) với cơng trình “Đội ngũ trí thức
khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” [103].
Cơng trình nghiên cứu sâu về trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả
cung cấp cho người đọc bức tranh chung về trí thức khoa học xã hội và
nhân văn Việt Nam; phân tích, đặc điểm, xu hướng phát triển của trí thức
khoa học xã hội và nhân văn; xác định những vấn đề đặt ra đối với lực
lượng này ở nước ta trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, tác giả
đi sâu phân tích những thành tựu, hạn chế cũng như ngun nhân trong thực
21
hiện vai trị của ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; đồng thời,
trình bày nhiều quan điểm và phân tích các giải pháp phát huy vai trị của
ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay. Trong các giải pháp, việc nâng cao nhận thức và tạo mơi trường
để phát huy khả năng sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy
vai trị của lực lượng này.
Nghiên cứu cơ bản, chun sâu về trí thức nữ Việt Nam, tác giả Đỗ
Thị Thạch (1999) có cơng trình “Trí thức nữ Việt Nam trong cơng cuộc đổi
mới hiện nay tiềm năng và phương hướng xây dựng” [111]. Trong cơng
trình, tác giả khẳng định: với tư cách là một bộ phận quan trọng của trí
thức, trí thức nữ Việt Nam có tiềm năng và đóng góp hết sức to lớn trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất nhiều
phương hướng có giá trị nhằm phát huy vai trị tiềm năng của trí thức nữ
Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Bàn về xây dựng ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các trường đại
học, nhưng khơng thuộc lực lượng vũ trang Qn đội nhân dân Việt Nam
và Cơng an nhân dân Việt Nam, có cơng trình “Xây dựng đội ngũ trí thức
khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay ” của tác
giả Phạm Văn Thanh (2001) [114]. Cơng trình này của tác giả chủ yếu là
nghiên cứu về ĐNTT khoa học Mác Lênin đang trực tiếp giảng dạy trong
các trường đại học (trừ các trường đại học thuộc lực lượng vũ trang) ở
nước ta hiện nay. Song cũng có đề cập ở một mức độ hợp lý đến những trí
thức khoa học Mác Lênin làm việc ở các lĩnh vực khác trong các trường
đại học. Qua cơng trình này, tác giả cung cấp cho người đọc một bức tranh
chung nhất về trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay. Theo đó, với tư cách là một bộ phận quan trọng của
22
ĐNTT, trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học có đặc điểm
và vai trị riêng, có chức năng nghiên cứu, truyền bá, phát triển chủ nghĩa
Mác Lênin trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, lực
lượng này vẫn cịn nhiều hạn chế cần được khắc phục cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu. Cơng trình cũng khẳng định rằng, để giữ vững và
phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, Đảng và Nhà nước cần có chính
sách chăm lo đến ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay như là bộ phận đặc thù trong ĐNTT Việt Nam.
Tác giả Lê Quang Q (2005) với cơng trình “Xây dựng đội ngũ trí
thức ngành kiến trúc trong cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” [106].
Nội dung của cơng trình nghiên cứu một cách cơ bản về ĐNTT ngành kiến
trúc trong cơng cuộc đổi mới. Trong đó, trên cơ sở phân tích đặc điểm và vai
trị của ĐNTT ngành kiến trúc, cơng trình đi sâu nghiên cứu thực trạng của
việc xây dựng ĐNTT ngành kiến trúc và xu hướng phát triển của lực lượng
này; đồng thời, chỉ ra u cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ này trong cơng
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Bàn về vai trị của trí thức ngành y tế có cơng trình “Phát huy vai trị
của trí thức ngành y tế Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới” của tác giả
Nguyễn Thị Hồ Bình (2006) [11]. Nội dung đi sâu nghiên cứu những vấn đề
cơ bản nhất về trí thức ngành y tế ở Việt Nam, từ đặc điểm, vai trị đến thực
trạng và xu hướng biến đổi của lực lượng này trong cơng cuộc đổi mới ở
nước ta. Từ đó, tác giả chỉ ra một số u cầu và giải pháp nhằm phát huy vai
trị của trí thức ngành y tế Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Các cơng trình khoa học trên đã phần nào làm rõ một số khía cạnh
của ĐNTT theo từng lĩnh vực cụ thể, đã đánh giá được thực trạng của
ĐNTT trong những năm qua và đưa ra những dự báo khoa học cho sự phát
23
triển, phương hướng và biện pháp để đổi mới quy hoạch ĐNTT trong
những năm tiếp theo...Tuy nhiên, các cơng trình này chưa có điều kiện
nghiên cứu và đề cập cụ thể về ĐNTT khoa học Mác Lênin trong các nhà
trường QĐNDVN và u cầu, giải pháp xây dựng đội ngũ này trong giai
đoạn hiện nay.
* Những cơng trình nghiên cứu khoa học có đề cập đến đội ngũ trí
thức, đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong qn đội và các nhà
trường Qn đội nhân dân Việt Nam
Tác giả Nguyễn Đình Minh (2003) với cơng trình “Phát huy vai trị
nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong Qn đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [97]. Đây được xem là một trong những cơng trình khoa
học đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về nguồn lực trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội. Tác giả đã làm rõ một số vấn
đề lý luận về phát huy vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn
qn sự như: đặc điểm, đặc trưng, vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội
và nhân văn qn sự; phân tích thực trạng, chỉ ra ngun nhân thành cơng,
hạn chế của việc phát huy vai trị và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ
trí thức này. Trên cơ sở đó, đề xuất định hướng và giải pháp cơ bản nhằm
phát huy vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong qn
đội hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phịng “Xây dựng đội ngũ trí thức qn
đội trong thời kỳ mới” do tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng làm chủ nhiệm
(2012) [74]. Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống về đội ngũ trí thức qn đội thời kỳ mới. Nội dung tập trung làm sáng
tỏ: quan niệm, vai trị, tiêu chí đánh giá xây dựng đội ngũ trí thức qn đội;
phân tích làm rõ thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức qn đội, chỉ ra ưu điểm,
24
hạn chế và ngun nhân của nó, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm
xây dựng đội ngũ trí thức qn đội; phân tích sâu sắc những nhân tố khách
quan, chủ quan tác động, từ đó đề xuất các u cầu và giải pháp cơ bản xây
dựng đội ngũ trí thức qn đội trong thời kỳ mới. Một trong những thành cơng
của cơng trình là đã đưa ra được quan niệm khá đầy đủ về đội ngũ trí thức
qn đội. Đây là một cơng trình khoa học rất có giá trị cả về lý luận và thực
tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước, qn đội xây
dựng đội ngũ trí thức qn đội đáp ứng u cầu sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Đề tài khoa học cấp Tổng cục Chính trị “Xây dựng đội ngũ cán bộ đầu
ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội thời kỳ mới” của tác giả
Nguyễn Văn Quang (2012) [104]. Tác giả quan niệm: “Cán bộ đầu ngành
khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội là trí thức khoa học xã hội và nhân
văn có phẩm chất, năng lực và uy tín cao nhất về một ngành, có khả năng chủ
trì, tổ chức, dẫn dắt và định hướng hoạt động một chun ngành khoa học xã
hội và nhân văn trong qn đội”[104, tr.16]. Từ phân tích vai trị của đội ngũ
cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội và thực trạng
xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn
đội, tác giả dự báo những nhân tố tác động, đề xuất u cầu và giải pháp cơ
bản xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong
qn đội thời kỳ mới.
Tác giả Nguyễn Văn Tháp (2009) với cơng trình “Xây dựng đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội nhân văn trong các trường đào tạo sỹ quan
qn đội” [116]. Cuốn sách đề cập khá tồn diện về số lượng, chất lượng,
cơ cấu đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các trường
đào tạo sỹ quan qn đội hiện nay với các số liệu rất phong phú. Tác giả
tập trung phân tích vai trị của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong các trường sĩ quan qn đội. Theo tác giả, các trường đào tạo sỹ
25
quan, cần xây dựng đội ngũ giảng viên thành các lớp khác nhau: lớp hiện
tại, lớp kế cận và lớp kế tiếp. Cần quan tâm thoả đáng và mạnh dạn trẻ
hố đội ngũ giảng viên và các nhà khoa học trẻ trong qn đội với một u
cầu tồn diện về phẩm chất và năng lực. Muốn vậy, cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cần hướng vào đội ngũ giảng viên trẻ, phải có chính sách khuyến
khích sử dụng, đãi ngộ đối với giảng viên trẻ.
Tác giả Phạm Văn Thuần (2003) với cơng trình “Nâng cao năng lực
đấu tranh tư tưởng lý luận của của giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [119]. Nội dung đi sâu
nghiên cứu, làm rõ năng lực đấu tranh tư tưởng lý luận của giáo viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các nhà trường qn đội. Tác giả quan niệm: “Năng lực
đấu tranh tư tưởng lý luận của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
nhà trường qn đội là tổng hịa những khả năng phát hiện, phê phán, ngăn
chặn và khắc phục ảnh hưởng của những quan điểm, tư tưởng thù địch, phản
động, sai trái nhằm bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước,
bản chất truyền thống qn đội và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
trong q trình giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã
hội khác”[119, tr. 33]. Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận, thực tiễn,
tác giả đề xuất u cầu và giải pháp cơ bản nâng cao năng lực đấu tranh tư
tưởng lý luận của đội ngũ này.
Bàn về xây dựng ĐNTT trẻ khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà
trường qn đội có cơng trình “Phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa
học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan Qn
đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Thanh Hân (2011) [63].
Nội dung nghiên cứu một cách cơ bản, chun sâu về đội ngũ giảng viên trẻ
khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan qn đội. Trên cơ sở phân tích
khá nổi bật vai trị của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường
26
sĩ quan qn đội và sự cần thiết phải phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức
khoa học của đội ngũ này, tác giả quan niệm: “Phát triển bản lĩnh chính trị và
tri thức khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn là q trình
chuyển hố khơng ngừng cả hai mặt bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học từ
trình độ chưa có sự gắn bó hồ quyện, hỗ trợ cho nhau đến sự hội tụ, thống
nhất hài hồ, tác động lẫn nhau, thúc đẩy sự phát triển các yếu tố bên trong của
mỗi mặt, làm cho bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học phát triển đồng bộ, bổ
sung hỗ trợ cho nhau trong nhân cách sư phạm thoả mãn u cầu giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường
sỹ quan”[63, tr. 50].
Tác giả Đức Lê (2001) với bài viết “Suy nghĩ về xây dựng nguồn lực
con người cho qn đội trong tình hình hiện nay” [83]. Qua bài viết tác giả
khẳng định vai trị của việc xây dựng nguồn lực con người cho qn đội
hiện nay là để đáp ứng với u cầu, nhiệm vụ mới của qn đội; xây dựng
nguồn lực con người cho qn đội hiện nay phải được thực hiện đồng bộ
trên cả ba mặt: số lượng, chất lượng và cơ cấu; đề xuất một số giải pháp
để xây dựng nguồn lực con người cho qn đội trong tình hình hiện nay.
Tác giả Lê Văn Dũng (2011) với bài viết “Phát huy vai trị lực
lượ ng trí thức qn đội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [30] cho
rằng, những năm qua trí thức qn đội thuộc nhiều chun ngành trong
lĩnh vực qn sự thực sự là lực lượng nịng cốt, đóng góp quan trọng vào
sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng qn đội nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, t ừng b ước hiện đại, hồn thành tốt
mọi nhiệm vụ. Ngày nay khi thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trí
thức qn đội đã và đang phát huy truyền thống tốt đẹp trên mặt trận
mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, ĐNTT qn đội và cơng tác
xây dựng ĐNTT qn đội cịn nhiều hạn chế, bất cập. Để khắc phục
những hạn chế, bất cập đó, cần tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của