Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 195 trang )

LICAMOAN

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các
số liệu, trích dẫn trong luận án là trung
thực, có xuất xứ rõ ràng và không trùng
lặp với những công trình đà công bố.

TCGILUNN

TrnVitHng


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ 
ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN 
ĐỀ TÀI
Chương  MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 
1
TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­ LÊNIN TRONG CÁC 
NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1.
Quan niệm, đặc điểm, vai trị của đội ngũ trí thức khoa 
học  Mác ­ Lênin trong  các  nhà trường Qn đội nhân 
dân Việt Nam


1.2.
Quan niệm  và những vấn đề  có tính quy luật xây dựng 
đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường 
Qn đội nhân dân Việt Nam
Chương  THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC 
2
KHOA   HỌC   MÁC   ­   LÊNIN   TRONG   CÁC   NHÀ 
TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ 
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
2.1.
Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin 
trong các nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đội ngũ 
trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Qn 
đội nhân dân Việt Nam
Chương  U CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ  BẢN XÂY DỰNG ĐỘI 
3
NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­ LÊNIN TRONG 
CÁC   NHÀ   TRƯỜNG   QN   ĐỘI   NHÂN   DÂN   VIỆT 
NAM HIỆN NAY
3.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu xây dựng đội ngũ trí  
thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân 

5
11

29
29

50

70
70
99

109
109


đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2.
Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức khoa học 
Mác ­ Lênin trong các nhà trường Qn đội nhân dân Việt 
Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCƠNG BỐ 
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9

Chữ viêt đây đu
́ ̀
̉
Chinh tri Qc gia
́
̣
́
Chu nghia xa hơi
̉
̃ ̃ ̣
Cơng nghiêp hoa, hiên đai hoa
̣
́
̣
̣
́
Đang uy Qn s
̉
̉
ự Trung ương
Đơi ngu tri th
̣
̃ ́ ưć
Giao duc va đao tao
́ ̣
̀ ̀ ̣
Khoa hoc va cơng nghê

̣
̀
̣
Qn đơi nhân dân Viêt Nam
̣
̣
Qn uỷ Trung ương

Chư viêt tăt
̃ ́ ́
CTQG
CNXH
CNH, HĐH
ĐUQSTƯ
ĐNTT
GD&ĐT
KH&CN
QĐNDVN
QUTƯ

123
163
166
167
177


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái qt về luận án

Đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  
trường Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ trong suốt 
q trình học tập, cơng tác và tham gia giảng dạy. Đây là một cơng trình khoa 
học độc lập, khơng có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được cơng bố. Tác 
giả nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các 
nhà trường qn đội hiện nay là một nội dung quan trọng, bổ ích, có thể bổ 
sung cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tác giả.  Vì vậy, 
tác giả đã xin ý kiến chun gia, trao đổi với các thầy hướng dẫn và quyết định 
chọn làm vấn đề  nghiên cứu trong luận án của mình. Đề  tài mà tác giả trình  
bày có kết cấu gồm phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương, 6 
tiết; kết luận; các bài báo và cơng trình khoa học của tác giả  đã cơng bố; 
danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục . Với dung lượng 3 chương (6 tiết),  
cơng trình nghiên cứu bảo đảm triển khai được những vấn đề lý luận và thực 
tiễn   về  xây   dựng   ĐNTT   khoa   học   Mác   ­   Lênin   trong   các   nhà   trường 
QĐNDVN; từ  đó nêu lên những yếu tố  tác động, xác định u cầu và đề 
xuất những giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong 
các nhà trường QĐNDVN hiện nay. Những vấn đề được luận giải trong đề 
tài, một mặt, là sự kế thừa có chọn lọc một số quan điểm của các học giả 
trong các cơng trình nghiên cứu trước  đó; mặt khác, chính là sự  nỗ  lực  
nghiên cứu của tác giả dưới sự định hướng của các thầy hướng dẫn.  
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong mọi thời đại, tri thức ln là khởi nguồn của sự tiến bộ xã hội,  
ĐNTT là lực lượng nịng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng 
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và cơng nghệ hiện đại, ĐNTT trở 


6
thành một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong q trình phát triển của mỗi  
quốc gia.
Suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ 

Chí Minh ln nhận thức sâu sắc, đánh giá cao vị trí, vai trị, đặc biệt là phát 
huy vai trị ĐNTT trong sự  nghiệp cách mạng. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cho  
rằng: Trong cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân trí thức cũng cần, trong 
cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức càng cần. Đảng và Nhà nước ta đã có 
nhiều chủ  trương, chính sách nhằm tơn vinh, xây dựng và phát huy vai trị  
của ĐNTT, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, gắn với 
phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu  
tồn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh vị trí, vai 
trị quan trọng của ĐNTT trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay, 
đồng thời đề ra u cầu cần phải: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có 
chất lượng cao, đáp ứng u cầu phát triển đất nước” [49, tr. 241].
Đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường qn đội là 
một bộ  phận của ĐNTT qn đội và ĐNTT Việt Nam; là lực lượng nịng  
cốt giảng dạy các mơn lý luận chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, trang bị  thế  giới  
quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản cho học viên trong các nhà trường 
qn đội, góp phần quan trọng đào tạo ra các thế hệ cán bộ, sĩ quan có bản  
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành 
mạnh, có năng lực lãnh đạo, chỉ  huy và chun mơn nghiệp vụ  theo chức 
trách, nhiệm vụ, đáp ứng u cầu xây dựng qn đội, củng cố quốc phịng, 
bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với giảng dạy, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường 
qn đội cịn là một lực lượng nịng cốt nghiên cứu, phát triển và tun truyền 
lý luận chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm 
của Đảng; tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các  
luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, 


7
quan điểm của Đảng; góp phần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư 
tưởng của Đảng trong qn đội.

Trong những năm qua, được sự  quan tâm, lãnh đạo của Đảng, QUTƯ,  
trực tiếp là cấp uỷ các nhà trường qn đội, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong 
các nhà trường qn đội đã có sự phát triển mạnh mẽ, tồn diện, về cơ bản đáp 
ứng u cầu nhiệm vụ.  Tuy nhiên,  ĐNTT  khoa học  Mác ­ Lênin trong các 
nhà trường qn đội cịn thiếu về  số  lượng; trình độ  chun mơn chưa 
đồng đều, một bộ phận chưa cao; cịn thiếu những chun gia đầu ngành ở 
các lĩnh vực quan trọng; độ tuổi trung bình vẫn cịn cao; trình độ ngoại ngữ 
và tin học cịn hạn chế, việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện dạy học  
hiện đại cịn khó khăn... Điều này dẫn đến chất lượng giảng dạy hạn chế; 
cơng tác nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường chưa 
theo kịp sự  phát triển của qn đội và đất nước, nhất là sự  hạn chế  về 
năng lực tư duy lý luận, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, khả năng 
vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn quốc phịng, qn 
sự đặt ra.
Hiện nay cũng như những năm tới, cùng với cả nước, các nhà trường 
qn đội đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, tồn diện GD&ĐT, trong đó có 
giảng dạy các mơn lý luận Mác ­ Lênin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo 
đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp  ứng u cầu xây dựng qn đội cách mạng,  
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ 
sở, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của qn đội.
Đất nước sau gần 30 năm đổi mới tuy đã giành được nhiều thành tựu 
to lớn và có ý nghĩa lịch sử, nhưng cịn khơng ít khó khăn, thách thức. Nhiều 
vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra địi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ. 
Trong khi các thế  lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến  
hồ bình”, coi tư  tưởng, lý luận là mặt trận hàng đầu để  chống phá cách 
mạng nước ta. Chúng ra sức xun tạc, phủ định chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư 
tưởng Hồ  Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và luật 


8

pháp của Nhà nước. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực 
thù địch là xun tạc bản chất và truyền thống cách mạng hịng “Phi chính 
trị hố”, vơ hiệu hố qn đội ta. Vì vậy, để đáp ứng u cầu giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học trong các nhà trường qn đội hiện nay cần phải đặc 
biệt coi trọng xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin vững mạnh, thực sự là 
một trong những lực lượng nịng cốt xây dựng qn đội vững mạnh về 
chính trị, hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân 
dân giao phó. Đó cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề  tài:  Xây dựng  
đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Qn đội nhân  
dân Việt Nam hiện nay  làm luận án tiến sĩ triết học, chun ngành chủ 
nghĩa xã hội khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu 
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng  
ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN, xác định u 
cầu và đề  xuất những giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ 
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả  về  số  lượng, chất  
lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Làm rõ một số vấn đề lý luận về ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin, xây 
dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN.
­ Khảo cứu thực tiễn  xây dựng ĐNTT  khoa học  Mác ­ Lênin trong 
các nhà trường quân đội, làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và 
rút ra những kinh nghiệm. 
­ Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­  
Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
* Đối tượng nghiên cứu



9
Hoạt   động  xây  dựng   ĐNTT  khoa  học  Mác   ­  Lênin  trong  các   nhà 
trường QĐNDVN. 
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin cả về số lượng, cơ 
cấu và chất lượng trong các nhà trường QĐNDVN bao gồm: Các giảng viên, 
nghiên cứu viên, cán bộ quản lý thuộc các chun ngành triết học Mác ­ Lênin, 
kinh tế chính trị học Mác ­ Lênin, CNXH khoa học đang cơng tác trong các học  
viện, nhà trường qn đội đào tạo bậc đại học và sau đại học  ở  khu vực  
miền Bắc.
Khảo cứu thực tiễn từ  khi triển khai thực hiện Nghị  quyết số  94­
NQ/ĐUQSTW ngày 29/4/1998 của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ) về “Xây dựng 
đội ngũ cán bộ  quân đội trong tình hình mới” đến nay; đề  xuất yêu cầu,  
giải pháp từ nay đến 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án được  xây dựng dựa trên cơ  sở  lý luận  chủ  nghĩa Mác ­ 
Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  trí thức và xây dựng   ĐNTT; quan điểm 
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về  xây dựng ĐNTT trong thời kỳ  đẩy 
mạnh CNH, HĐH đất nước.
* Cơ sở thực tiễn
Cơ  sở  thực tiễn của luận án là thực trạng xây dựng ĐNTT khoa học 
Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; kết quả  nghiên cứu, khảo sát  
thực tiễn của tác giả và của các cơng trình khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với  
khảo cứu thực tiễn, vận dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử  ­ lơgíc, hệ 



10
thống ­ cấu trúc, phân tích ­ tổng hợp, điều tra khảo sát và phương pháp  
chun gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
­ Phân tích làm sáng tỏ quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác ­ 
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; quan niệm và những vấn đề có tính quy 
luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN.
­ Khái qt những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ 
Lênin trong các nhà trường QĐNDVN những năm qua; đề xuất những u cầu, 
giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  
qn đội vững mạnh, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần  làm sáng tỏ  thêm quan 
niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  
qn đội; đặc biệt là làm sáng tỏ  quan niệm và những vấn đề  có tính quy  
luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường qn đội 
hiện nay. 
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học 
phục vụ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng ĐNTT khoa học 
Mác ­ Lênin trong các nhà trường qn đội hiện nay.
Luận án có thể  được sử  dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ  cơng 
tác GD&ĐT, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường qn đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên  
cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình của tác giả đã cơng  
bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.



11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI  
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC – LÊNIN TRONG 
CÁC NHÀ TRƯỜNG QN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi có liên quan đến đề 
tài
Tại  các nước  tư  bản, q trình phát triển khu vực kinh tế  tri thức 
(knowledge Economy)  ở  vào những năm 50, đặc biệt từ  thập niên 90 với sự 
phát triển của cuộc cách mạng tin học và các xu hướng tồn cầu hố, đã làm 
biến đổi tính chất lao động trí óc của tầng lớp trí thức theo hướng gắn trực tiếp 
với việc sản xuất và biến đổi thơng tin. Năm 1973, nhà xã hội học học người  
Mỹ  Daniel Bell trong tác phẩm: “The Coming of Post ­ Industrial Society: A  
Venture in Social Forecasting” [24] (Sự xuất hiện của xã hội hậu cơng nghiệp: 
Hướng dẫn một dự đốn xã hội) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xã hội hậu  
cơng nghiệp” và lao động “áo cổ  trắng”. Ơng nhấn mạnh trong xã hội cơng 
nghiệp, vai trị cơ bản thuộc về tư bản và lao động “áo cổ xanh”, cịn trong “xã  
hội hậu cơng nghiệp” vai trị cơ  bản thuộc về  trí thức và lao động “áo cổ 
trắng”.
Khái niệm lao động “áo cổ  trắng” đến nay được biết nhiều thơng qua 
thuật ngữ  “lao động tri thức” (knowledge Worker) và “kỹ  thuật viên tri thức”  
(knowledge Technogist). Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ  gốc Áo, Peter  
F.Drucker trong cuốn “The Landmarks of Tomorrow” [101] (Cột mốc của ngày 
mai) xuất bản năm 1959 quan niệm “lao động tri thức” là những người có lượng  
kiến thức và sự hiểu biết đáng kể về mặt lý thuyết như các bác sĩ, các luật gia,  
các giáo viên, kế tốn viên, các kỹ sư và nhất là các kỹ thuật viên tri thức như: kỹ 
thuật viên máy tính, người thiết kế phần mềm, nhân viên phân tích phịng thí  
nghiệm, kỹ  thuật viên cơng nghiệp chế  tạo... Nói khác đi, khái niệm trí thức  


12

được diễn đạt thành những “lao động tri thức” và “kỹ thuật viên tri thức”. Đây 
cũng là lần đầu tiên ơng nêu khái niệm “lao động tri thức”, “người cơng nhân tri  
thức” vì ơng cho rằng thế giới đang dần dịch chuyển từ nền kinh tế hàng hố 
sang nền kinh tế tri thức. Bây giờ những khái niệm này đã trở thành chuyện bình 
thường nhưng vào thời đó nền cơng nghiệp Mỹ đang chịu ảnh hưởng của tư 
tưởng sản xuất dây chuyền của Frederick Taylor, cơng nhân được xem như 
“những con rơbốt chỉ biết siết ốc”.
Những quan niệm trên đây phản ánh xu hướng xích lại gần nhau giữa  
giai cấp cơng nhân và tầng lớp trí thức trong q trình phát triển mạnh mẽ của  
khu vực kinh tế tri thức, nhất là tại các nước tư bản phát triển. Xu hướng xích 
lại gần nhau này tuy thế, khơng thể  dẫn đến chỗ  sáp nhập tồn bộ  trí thức 
vào giai cấp cơng nhân, và cũng khơng thể chuyển giai cấp cơng nhân thành trí 
thức. Bởi lẽ, bản chất lao động, vị trí, vai trị của tầng lớp trí thức và giai cấp 
cơng nhân trước sau vẫn có những đặc điểm riêng. Do đó, cần thiết phải 
nghiên cứu tầng lớp trí thức nói chung và ĐNTT các mơn lý luận Mác ­ Lênin 
nói riêng theo lập trường Mácxít, thì mới có những kiến giải xác thực về khoa 
học và thực tiễn.
Tác phẩm  “Về  trí thức Nga” của nhiều tác giả  (Nga) (2009) [110] là 
cơng trình tập hợp 12 bài viết của nhiều trí thức trước Cách mạng tháng 
Mười (1917) của nước Nga thuộc Liên Xơ cũ và thời kỳ “hậu Xơ  viết”. Thời 
gian cơng bố các bài viết ấy trải dài gần một trăm năm, từ những bài trong 
tập Những cột mốc (Vekhi) cơng bố năm 1909 cho tới những bài viết thời  
nay. Các tác giả đã tiếp cận dưới các góc độ khác nhau: Tầng lớp trí thức là  
gì? Trí thức và nhận thức pháp quyền, trí thức và chủ nghĩa xã hội, bàn về 
phương hướng và nhiệm vụ  của giới trí thức Nga, những người trí thức 
Nga sau năm 1917 là những người như  thế nào?   Ở  nước Nga hiện nay có 
tồn tại một giới trí thức hay khơng? v.v... Nội dung các bài viết là những 


13

đánh giá phê phán giới trí thức Nga của chính những người thuộc giới này 
với tâm thế đau xót tự kiểm điểm (ngoại trừ hai bài viết thời hiện đại của  
Gary Neill và Tumanov). Cơng trình này thể hiện được chính kiến của các 
trí thức rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều ghi nhận tinh thần học 
thuật nghiêm túc và với ý thức xã hội đáng trân trọng. Trong khung cảnh 
lịch sử  và hồn cảnh xã hội của nước Nga lúc bấy giờ, người trí thức đã 
viết nên  những trăn trở, dồn nén và phản  ứng (cả  tích cực và tiêu cực). 
Trong các bài viết, các tác giả  Nga có nhiều cách hiểu khác nhau về  danh 
xưng trí thức. Mặc dù vậy,  ở  họ  vẫn có sự  thống nhất khi cho rằng:  Trí  
thức Nga  được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một nhóm người 
tương đối đơng về  số  lượng và có sự  liên kết nội tại tương đối mật thiết 
và thống nhất. Đặc điểm phân biệt họ  với các tầng lớp xã hội khác là họ 
có học thức nhất định, ln tự  ý thức về  sứ  mệnh của mình đối với tồn 
thể cộng đồng (có thể rộng hẹp khác nhau như: giai cấp vơ sản, nhân dân  
Nga hay tồn nhân loại) và có thái độ dấn thân để thực hiện sứ mệnh đem 
lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng. 
Tác   giả   Jennifer   Lewingion   (2011)   với   bài   viết  “Biết   trọng   dụng  
người tài, Canađa vượt lên trước “bầy sói”” [75]. Qua bài viết này tác giả 
nhấn mạnh: vào giữa những năm 1990, giới chức giáo dục đại học ở Canađa 
đã cảnh báo hậu quả của việc chính phủ cắt giảm quỹ giành cho nghiên cứu  
khoa học và “nguy cơ” chảy máu nhân tài. Tuy nhiên, Canađa đã trải qua một  
thời kỳ  phục hưng mạnh mẽ  trong nghiên cứu và giáo dục đại học. Các  
trường đại học nghiên cứu ở Canađa đã khẳng định được vị trí đứng đầu và 
trở thành những chiếc nam châm thu hút nhân tài quốc tế. Các chính phủ cấp 
thành phố  và liên bang đã đổ  một khoản tiền lớn chưa từng thấy cho con  
người và trang thiết bị nhằm thúc đẩy đổi mới, phát minh và tạo ra một giới 
chun gia đơng đảo. Cuộc cách mạng về  chiến lược mới đã ra đời năm 
1997, khi chính phủ liên bang thành lập “Quỹ Đổi mới Canađa”, hoạt động 



14
như  một cơ quan độc lập nhằm tài trợ  cơ  sở  hạ  tầng cho nghiên cứu khoa 
học. Các biện pháp khác được áp dụng sau đó, như lập ra các khoản trợ cấp  
đặc biệt cho các học giả mới nổi hoặc xuất chúng ở Canađa và nước ngồi; 
tạo dựng các hiệp hội nghiên cứu có sinh lời giữa các nghiên cứu sinh hậu  
tiến sĩ  ở  Canađa và nước ngồi. Với chiến lược phát triển đúng đắn, hiện  
nay Canađa đã thu hút được các chun gia hàng đầu thế giới đến làm việc  
tại quốc gia này, trở thành quốc gia “đi từ chỗ khơng được xếp hạng để trở 
thành một nước được tham gia vào cuộc đua”.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc trong khn khổ lý 
luận về CNXH phát triển, đã có quan niệm coi tầng lớp trí thức là một bộ 
phận của giai cấp cơng nhân. Cơ  sở  xuất phát của quan niệm này là thành 
phần xuất thân của trí thức chủ yếu từ hai giai cấp cơ bản trong xã hội, là 
cơng nhân và nơng dân.  Trong bài diễn văn của Tổng Bí thư  Đảng Cộng 
sản Trung Quốc đọc tại Lễ  kỷ  niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng  
sản Trung Quốc (01­7­2001) đã khẳng định: “Tầng lớp trí thức với tư cách 
là một bộ  phận của giai cấp cơng nhân, đã tăng cường mạnh mẽ  tố  chất  
văn hố, khoa học, kỹ  thuật cho giai cấp cơng nhân” [118, tr. 69].  Trung 
Quốc  cũng  là một quốc gia rất xem trọng việc   xây dựng,  đào tạo, bồi 
dưỡng ĐNTT. Trên thực tế có nhiều cơng trình khoa học  của nhiều tác giả 
nghiên cứu về ĐNTT ở quốc gia này. Tiêu biểu phải kể đến: 
Hai   tác  giả  Thẩm   Vinh  Hoa  và  Ngô  Quốc  Diệu  (đồng  chủ  biên) 
(2008)  với  cuốn sách “Tơn trọng trí thức, tơn trọng nhân tài kế  lớn trăm  
năm chấn hưng đất nước” [65]. Các tác giả đã trình bày nhiều nội dung nổi 
bật trong tư  tưởng của Đặng Tiểu Bình, người được coi là “Tổng cơng 
trình sư của cơng cuộc cải cách, mở  cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội 
chủ  nghĩa của Trung Quốc”, về những vấn đề  rất cơ  bản như: đường lối 
tổ  chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; nhân tài là then chốt của phát 
triển; tư  tưởng chiến lược về  bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về  tuyển  



15
chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về cải cách chế độ nhân  
sự   trong   việc   sử   dụng   nhân   tài;  về   tạo   môi   trường   cho   nhân   tài   phát 
triển...Qua cuốn sách này, các tác giả đã khái quát một cách tổng thể về tư 
tưởng của Đặng Tiểu Bình cũng như  sự  vận dụng các tư  tưởng đó trong 
chiến lược xây dựng nhân tài  ở  Trung Quốc. Có thể  nói rằng, cuốn sách 
này có giá trị  tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách cán bộ 
nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói riêng ở Việt Nam trong  
giai đoạn hiện nay.
Tác giả Lưu Bảo Quốc (2006) với bài viết “Từ phần tử trí thức của  
giai cấp đến giai cấp của phần tử trí thức” [105]. Nội dung của cơng trình 
này cho rằng: “phần tử  trí thức” là nhưng ng
̃
ươi co ly t
̀ ́ ́ ưởng, co hoc th
́ ̣
ưc,
́  
đong gop cho xa hơi, giao duc ng
́
́
̃ ̣
́ ̣
ươi khac
̀
́ ; là sản phẩm của sự phân hố giai 
cấp trong xã hội lồi người. Trong các chế độ xã hội, trí thức chỉ có thể tồn 
tại dựa vào giai cấp nhất định với tư cách là phần tử trí thức của giai cấp  
đó. Tuy nhiên, khi kinh tế  tri thức xuất hiện, phần tử trí thức đã thể  hiện 

được vị trí, vai trị của mình và trở thành giai cấp độc lập. Đồng thời, trong 
xã hội kinh tế  tri thức thì tất  cả  các giai cấp đều đang tiến từ  phần tử trí 
thức hố, trở  thành giai cấp của phần tử  trí thức. Đây cũng sẽ  là giai cấp 
sau cùng của xã hội lồi người để đi đến xã hội khơng cịn giai cấp.
Tác giả Lăng Tường (2002) với bài viết “Tổng quan về 5 trường đại  
học tổng hợp trong tồn qn” [134] đã đề cập trực tiếp đến các nhà trường 
của qn đội Trung Quốc, phân tích việc kiện tồn hệ  thống nhà trường 
qn sự, đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ 
khoa học qn sự. Theo tác giả, hệ  thống các trường qn sự  của Trung 
Quốc được kiện toàn, đổi mới từ  những năm 1980 với mục tiêu đào tạo 
ĐNTT chất lượng cao đáp  ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại. Các trường 
quân sự của Trung Quốc rất chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ 


16
quản lý giáo dục. Đội ngũ giảng viên các trường qn sự, nhất là giảng viên  
có học hàm, học vị  cao được quan tâm phát triển tồn diện và chiếm tỉ  lệ 
ngày càng cao trong tổng số  trí  thức  qn đội Trung Quốc. Chẳng hạn, 
trường Đại học Khoa học kĩ thuật quốc phịng có 1049 Giáo sư và Phó Giáo  
sư; Đại học Cơng trình Vật lý có 543 Giáo sư và Phó Giáo sư, 276 người có 
học vị Sau đại học; Đại học Cơng trình Thơng tin có trên 500 Giáo sư và Phó 
Giáo sư…
Liên quan trực tiếp đến ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các trường  
qn đội về cơ bản chỉ được đề cập đến ở Liên Xơ trước đây. Chẳng hạn, 
cuốn sách, “Phương pháp giảng dạy các mơn khoa học xã hội” của X.G. Lu­
cơ­nhin và V.V. Xê­rê­bri­an­ni­cốp (chủ  biên) (1981) [89]. Cuốn sách tổng 
kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ­ trong đó có khoa học  
Mác ­ Lênin ở các trường qn sự Liên Xơ, vận dụng những phương pháp và  
hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội, nhằm phổ  biến kinh 
nghiệm giảng dạy cho tất cả  giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng 

viên mới bước vào mơi trường sư  phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ  thể   ở 
nhà trường qn sự  phải vạch ra phương hướng phấn đấu cho họ  kết hợp  
với kiểm tra thường xun q trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý 
luận và nghiệp vụ  sư phạm làm cơ  sở  để  củng cố  niềm tin, thế  giới quan  
cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội ngũ giảng viên mới ở các 
trường qn sự.
Ngồi quan niệm và các cơng trình nghiên cứu đã nêu, cịn một số 
quan niệm khác đánh giá về vai trị và tầm quan trọng của trí thức như:
­ Lý thuyết Nhân tài 3C (3C Talent Formula) của Giáo sư Dave Ulrich 
Đại học Michigan (Hoa Kỳ) [25], một chun gia hàng đầu về  nhân lực và 
nhân tài ­ đề cập đến quan niệm về nhân tài với phương trình 3C (Talent =  


17
Competence,  Commitment, Contribution / Nhân  tài = Năng lực,  Cam kết, 
Cống hiến); nhân tài phải có cái đầu (năng lực sáng tạo), bàn tay và đơi chân  
(làm việc hết mình) và trái tim (sự viên mãn, thăng hoa, cống hiến), có khả 
năng làm tốt những cơng việc của ngày hơm nay và đặc biệt là của tương lai. 
Ơng cũng đưa ra những giải pháp phát hiện những trí thức là “người giỏi” và  
bồi dưỡng, vun đắp họ thành “nhân tài”, mang lại giá trị cao cho tổ chức, xã  
hội. 
­ Chính sách “tam tài” của Trung Quốc (“Bồi dưỡng nhân tài, thu hút 
nhân tài và trọng dụng nhân tài”; “Lấy sự  nghiệp để  thu hút nhân tài, lấy  
tình đồng bào để  quy tụ  nhân tài, lấy chính sách để  phát triển nhân tài”) 
[126], trong đó tập trung thực hiện các chủ  trương, giải pháp: Ra sức  ủng  
hộ  sự  sáng tạo của đội ngũ trí thức, thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển, 
đưa thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất; Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, 
động viên trí thức đóng góp vào sản xuất; Điều động nhân tài hợp lý, cạnh 
tranh bình đẳng, tạo cơ  chế  cho những người  ưu tú có dịp thể  hiện tài 
năng; Mở  rộng kênh thơng tin để  tiếp thu ý kiến đóng góp của đội ngũ trí  

thức, thúc đẩy dân chủ hố, khoa học hố; Tăng cường cơng tác chính trị tư 
tưởng cho đội ngũ trí thức, làm cho họ  kết hợp hài hồ giữa nhu cầu cá 
nhân và việc phục vụ Nhà nước; Hồn thiện mơi trường xã hội để trí thức 
phát huy được hết tài năng.
2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài
Chủ đề về trí thức cũng được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc 
độ  và phạm vi khác nhau. Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đất nước  
bước  vào  cơng cuộc  đổi  mới   đến nay, vấn  đề  trí  thức  được  quan tâm 
nghiên cứu tương đối hệ thống, qua một số chương trình khoa học cấp nhà 


18
nước, cơng trình nghiên cứu độc lập, luận văn, luận án và một số  bài viết 
đáng lưu ý như:
* Những cơng trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan về trí  
thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
Tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất  
nước”  của ngun Tổng bí thư  Đỗ  Mười  (1995)  [98]. Đây là cơng trình 
được xuất bản trên cơ  sở  tập hợp các bài viết của tác giả  về  trí thức.  
Trong cơng trình này, tác giả khẳng định quan điểm nhất qn của Đảng và 
Nhà nước trong đánh giá về  vai trị của trí thức Việt Nam đối với cơng 
cuộc phát triển đất nước trên tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội; đề 
cập trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy 
vai trị của trí thức nhằm đáp  ứng u cầu của sự  nghiệp đổi mới. Bên 
cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục  
nhằm phát huy một cách tốt nhất tiềm năng, trí tuệ của ĐNTT.
Tác giả  Phạm Tất Dong (chủ  biên)  (2001) với cơng trình khoa học 
“Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong cơng nghiệp hố,  
hiện đại hố” [28]. Cơng trình đã nghiên cứu một cách tồn diện về trí thức  
Việt Nam. Trong đó, tác giả  khẳng định vị  trí, vai trị của trí thức; đi sâu  

phân tích đường lối CNH, HĐH của Đảng và coi đó là một trong những  
nhiệm vụ  quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời xác định những 
u cầu đặt ra trước trí thức ­ với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của xã 
hội.
Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn (1998) với cơng trình “Một số vấn đề về  
trí thức Việt Nam” [132]. Trong cơng trình này, một mặt tác giả  trình bày 
những vấn đề lý luận về bản chất xã hội, vai trị của trí thức đối với tiến  
bộ  xã hội; mặt khác, tác giả  đã cung cấp cho người đọc thấy được bức  


19
tranh chung nhất của trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra  
đặc điểm cũng như  xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam. Theo tác 
giả, xu hướng phát triển của ĐNTT có thể  diễn ra theo hai giai đoạn: giai 
đoạn một, đa dạng hố, định hình hố các nhóm xã hội trí thức như  một  
tầng lớp xã hội đặc thù và độc lập tương đối; giai đoạn hai, trên cơ  sở đa  
dạng hố và thống nhất các tính chất chung của lao động trí óc sáng tạo, 
các nhóm xã hội trí thức tiếp tục phát triển như  một tầng lớp xã hội đặc  
thù và độc lập tương đối, thúc đẩy mạnh hơn q trình trí thức hố xã hội.  
Trên cơ sở  phân tích những yếu tố  khách quan, chủ  quan việc lựa chọn con  
đường xã hội chủ nghĩa của ĐNTT trong xu thế phát triển của thời đại và đất 
nước, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới cơng 
tác quản lý và thực hiện chính sách xã hội đối với ĐNTT trong giai đoạn hiện  
nay.
Tác giả Nguyễn Đắc Hưng (2005) với cơng trình “Trí thức Việt Nam  
trước u cầu phát triển đất nước” [70]. Cơng trình đề cập đến nhiều vấn đề 
quan trọng, chẳng hạn, trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về 
trí thức, tác giả đã phân tích những u cầu đặt ra đối với trí thức Việt Nam  
trong thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Qua đó, tác giả  đã khái qt 
thực trạng bức tranh chung của trí thức Việt Nam: từ  cơ  cấu, trình độ  đến 

việc phân bố trí thức theo các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế…; đề xuất 
một số giải pháp phát triển trí thức trong điều kiện mới.
Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn  
2011 ­ 2020” do tác giả Đàm Đức Vượng làm chủ nhiệm (2010) [142]. Đây 
là cơng trình nghiên cứu mang tính tổng thể  về  đội ngũ trí thức Việt Nam 
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở trình bày những vấn đề lý luận chung  
về  trí thức, đề  tài đi sâu phân tích thực trạng của trí thức và sử  dụng trí 


20
thức trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Đặc biệt, để  phân tích thực trạng 
của trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cơng trình đưa ra nhiều số 
liệu khách quan góp phần minh chứng cho các lập luận được trình bày 
trong đề  tài và đưa ra các phương hướng, giải pháp xây dựng ĐNTT Việt  
Nam giai đoạn 2011 ­ 2020. Trong đó, ngồi các giải pháp mang tính tổng 
thể, đề tài phân tích nhiều giải pháp có ý nghĩa để xây dựng và phát huy vai  
trị của trí thức trên từng lĩnh vực hoạt động. Qua đó, góp phần cung cấp  
các luận cứ  khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính 
sách đối với ĐNTT Việt Nam trong những năm tới.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích u cầu của sự  nghiệp 
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, của hội nhập quốc tế  đối với việc xây  
dựng, phát triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các lĩnh vực 
khác nhau; dự báo tình hình trong nước và thế giới trong những năm tới tác 
động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số giải pháp,  
biện pháp cụ  thể  nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng như  các nhóm trí 
thức đáp ứng địi hỏi của tình hình mới.
*  Những cơng trình khoa học nghiên cứu về  xây dựng, phát huy  
vai trị của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và các lực lượng  
trí thức khác nhau trong q trình cách mạng
Tác giả  Ngơ Thị  Phượng  (2007) với cơng trình  “Đội ngũ trí thức  

khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự  nghiệp đổi mới”   [103]. 
Cơng trình nghiên cứu sâu về trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả 
cung cấp cho người đọc bức tranh chung về  trí thức khoa học xã hội và 
nhân văn Việt Nam; phân tích, đặc điểm, xu hướng phát triển của trí thức 
khoa học xã hội và nhân văn; xác định những vấn đề  đặt ra đối với lực  
lượng này ở nước ta trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, tác giả 
đi sâu phân tích những thành tựu, hạn chế cũng như ngun nhân trong thực 


21
hiện vai trị của ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; đồng thời, 
trình bày nhiều quan điểm và phân tích các giải pháp phát huy vai trị của  
ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự  nghiệp đổi mới  
hiện nay. Trong các giải pháp, việc nâng cao nhận thức và tạo mơi trường  
để phát huy khả năng sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy 
vai trị của lực lượng này.
Nghiên cứu cơ bản, chun sâu về trí thức nữ Việt Nam, tác giả Đỗ 
Thị Thạch (1999) có cơng trình “Trí thức nữ Việt Nam trong cơng cuộc đổi  
mới hiện nay ­ tiềm năng và phương hướng xây dựng” [111]. Trong cơng 
trình, tác giả  khẳng định: với tư  cách là một bộ  phận quan trọng của trí 
thức, trí thức nữ Việt Nam có tiềm năng và đóng góp hết sức to lớn trên tất  
cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội; trên cơ  sở  đó, tác giả  đề  xuất nhiều  
phương hướng có giá trị  nhằm phát huy vai trị tiềm năng của trí thức nữ 
Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Bàn về  xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại 
học, nhưng khơng thuộc lực lượng vũ trang Qn đội nhân dân Việt Nam  
và Cơng an nhân dân Việt Nam, có cơng trình “Xây dựng đội ngũ trí thức  
khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay ” của tác 
giả  Phạm Văn Thanh (2001) [114]. Cơng trình này của tác giả  chủ  yếu là 
nghiên cứu về ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin đang trực tiếp giảng dạy trong  

các trường đại học (trừ  các trường đại học thuộc lực lượng vũ trang)  ở 
nước ta hiện nay. Song cũng có đề cập ở một mức độ hợp lý đến những trí 
thức khoa học Mác ­ Lênin làm việc  ở  các lĩnh vực khác trong các trường 
đại học. Qua cơng trình này, tác giả cung cấp cho người đọc một bức tranh  
chung nhất về  trí thức khoa học Mác ­ Lênin  trong các trường đại học  ở 
nước ta hiện nay. Theo đó, với tư  cách là một bộ  phận quan trọng của  


22
ĐNTT, trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại học có đặc điểm 
và vai trị riêng, có chức năng nghiên cứu, truyền bá, phát triển chủ  nghĩa  
Mác ­ Lênin trong thời kỳ  mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, lực 
lượng này vẫn cịn nhiều hạn chế  cần được khắc phục cả  về  số  lượng,  
chất lượng và cơ  cấu. Cơng trình cũng khẳng định rằng, để  giữ  vững và 
phát triển nền tảng tư  tưởng của Đảng, Đảng và Nhà nước cần có chính 
sách chăm lo đến ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại học ở 
nước ta hiện nay như là bộ phận đặc thù trong ĐNTT Việt Nam.
Tác giả  Lê Quang Q  (2005) với cơng trình  “Xây dựng đội ngũ trí  
thức ngành kiến trúc trong cơng cuộc đổi mới  ở  nước ta hiện nay”  [106]. 
Nội dung của cơng trình nghiên cứu một cách cơ bản về ĐNTT ngành kiến 
trúc trong cơng cuộc đổi mới. Trong đó, trên cơ sở phân tích đặc điểm và vai 
trị của ĐNTT ngành kiến trúc, cơng trình đi sâu nghiên cứu thực trạng của 
việc xây dựng ĐNTT ngành kiến trúc và xu hướng phát triển của lực lượng  
này; đồng thời, chỉ ra u cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ này trong cơng 
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 
Bàn về  vai trị của trí thức ngành y tế có cơng trình “Phát huy vai trị  
của trí thức ngành y tế  Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới”  của tác giả 
Nguyễn Thị Hồ Bình (2006) [11]. Nội dung đi sâu nghiên cứu những vấn đề 
cơ bản nhất về trí thức ngành y tế ở Việt Nam, từ đặc điểm, vai trị đến thực  
trạng và xu hướng biến đổi của lực lượng này trong cơng cuộc đổi mới  ở 

nước ta. Từ đó, tác giả chỉ ra một số u cầu và giải pháp nhằm phát huy vai  
trị của trí thức ngành y tế Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Các cơng trình khoa học trên đã phần nào làm rõ một số  khía cạnh  
của ĐNTT theo từng lĩnh vực cụ  thể, đã đánh giá được thực trạng của 
ĐNTT trong những năm qua và đưa ra những dự báo khoa học cho sự phát 


23
triển, phương  hướng  và biện pháp  để   đổi mới quy hoạch  ĐNTT  trong  
những  năm  tiếp theo...Tuy nhiên, các  cơng trình này  chưa  có  điều kiện 
nghiên cứu và đề cập cụ thể về ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà 
trường QĐNDVN và  u cầu, giải pháp xây dựng đội ngũ này trong giai  
đoạn hiện nay.
* Những cơng trình nghiên cứu khoa học có đề  cập đến đội ngũ trí  
thức, đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong qn đội   và các nhà  
trường Qn đội nhân dân Việt Nam
Tác giả  Nguyễn Đình Minh  (2003) với cơng trình  “Phát huy vai trị  
nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong Qn đội nhân dân  
Việt Nam hiện nay” [97]. Đây được xem là một trong những cơng trình khoa 
học đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về nguồn lực trí thức  
khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội. Tác giả đã làm rõ một số vấn 
đề lý luận về phát huy vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn  
qn sự như: đặc điểm, đặc trưng, vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội 
và nhân văn qn sự; phân tích thực trạng, chỉ  ra ngun nhân thành cơng,  
hạn chế của việc phát huy vai trị và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ  
trí thức này. Trên cơ  sở đó, đề  xuất định hướng và giải pháp cơ bản nhằm 
phát huy vai trị nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong qn  
đội hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phịng “Xây dựng đội ngũ trí thức qn  
đội trong thời kỳ  mới”  do tác giả  Nguyễn Mạnh Hưởng làm chủ  nhiệm 

(2012) [74]. Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách cơ  bản, có hệ 
thống về đội ngũ trí thức qn đội thời kỳ mới. Nội dung tập trung làm sáng  
tỏ: quan niệm, vai trị, tiêu chí đánh giá xây dựng đội ngũ trí thức qn đội;  
phân tích làm rõ thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức qn đội, chỉ ra ưu điểm,  


24
hạn chế và ngun nhân của nó, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm 
xây dựng đội ngũ trí thức qn đội; phân tích sâu sắc những nhân tố  khách  
quan, chủ quan tác động, từ đó đề xuất các u cầu và giải pháp cơ bản xây  
dựng đội ngũ trí thức qn đội trong thời kỳ mới. Một trong những thành cơng 
của cơng trình là đã đưa ra được quan niệm khá đầy đủ  về  đội ngũ trí thức 
qn đội. Đây là một cơng trình khoa học rất có giá trị cả về lý luận và thực  
tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước, qn đội xây  
dựng đội ngũ trí thức qn đội đáp ứng u cầu sự nghiệp xây dựng và bảo 
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Đề tài khoa học cấp Tổng cục Chính trị “Xây dựng đội ngũ cán bộ đầu  
ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội thời kỳ mới”  của tác giả 
Nguyễn Văn Quang  (2012)  [104]. Tác giả  quan niệm: “Cán bộ  đầu ngành 
khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội là trí thức khoa học xã hội và nhân  
văn có phẩm chất, năng lực và uy tín cao nhất về một ngành, có khả năng chủ 
trì, tổ chức, dẫn dắt và định hướng hoạt động một chun ngành khoa học xã 
hội và nhân văn trong qn đội”[104, tr.16]. Từ phân tích vai trị của đội ngũ 
cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn đội và thực trạng 
xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong qn 
đội, tác giả dự báo những nhân tố tác động, đề xuất u cầu và giải pháp cơ 
bản xây dựng đội ngũ cán bộ  đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong  
qn đội thời kỳ mới.
Tác giả  Nguyễn Văn Tháp (2009) với cơng trình “Xây dựng đội ngũ  
giảng viên khoa học xã hội nhân văn trong các trường đào tạo sỹ  quan  

qn đội” [116]. Cuốn sách đề cập khá tồn diện về số lượng, chất lượng,  
cơ  cấu đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các trường 
đào tạo sỹ  quan qn đội hiện nay với các số  liệu rất phong phú. Tác giả 
tập trung phân tích vai trị của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân 
văn trong các trường sĩ quan qn đội. Theo tác giả, các trường đào tạo sỹ 


25
quan, cần xây dựng đội ngũ giảng viên thành các lớp khác nhau: lớp hiện 
tại, lớp kế  cận và lớp kế  tiếp. Cần quan tâm thoả  đáng và mạnh dạn trẻ 
hố đội ngũ giảng viên và các nhà khoa học trẻ trong qn đội với một u 
cầu tồn diện về phẩm chất và năng lực. Muốn vậy, cơng tác đào tạo, bồi  
dưỡng cần hướng vào đội ngũ giảng viên trẻ, phải có chính sách khuyến 
khích sử dụng, đãi ngộ đối với giảng viên trẻ.
Tác giả  Phạm Văn Thuần  (2003) với cơng trình “Nâng cao năng lực  
đấu tranh tư tưởng lý luận của của giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở  
các nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [119]. Nội dung đi sâu 
nghiên cứu, làm rõ năng lực đấu tranh tư tưởng lý luận của giáo viên khoa học  
xã hội và nhân văn ở các nhà trường qn đội. Tác giả quan niệm: “Năng lực 
đấu tranh tư tưởng lý luận của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các 
nhà trường qn đội là tổng hịa những khả  năng phát hiện, phê phán, ngăn 
chặn và khắc phục ảnh hưởng của những quan điểm, tư tưởng thù địch, phản 
động, sai trái nhằm bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác ­  
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, 
bản chất truyền thống qn đội và sự  nghiệp cách mạng của nhân dân ta  
trong q trình giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã 
hội khác”[119, tr. 33]. Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận, thực tiễn,  
tác giả đề xuất u cầu và giải pháp cơ bản nâng cao năng lực đấu tranh tư 
tưởng lý luận của đội ngũ này. 
Bàn về xây dựng ĐNTT trẻ khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà 

trường qn đội có cơng trình “Phát triển bản lĩnh chính trị  và tri thức khoa  
học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan Qn  
đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Thanh Hân (2011) [63]. 
Nội dung nghiên cứu một cách cơ bản, chun sâu về đội ngũ giảng viên trẻ 
khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan qn đội. Trên cơ sở phân tích 
khá nổi bật vai trị của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường  


26
sĩ quan qn đội và sự  cần thiết phải phát triển bản lĩnh chính trị  và tri thức  
khoa học của đội ngũ này, tác giả quan niệm: “Phát triển bản lĩnh chính trị và 
tri thức khoa học của giảng viên trẻ  khoa học xã hội nhân văn là q trình  
chuyển hố khơng ngừng cả hai mặt bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học từ 
trình độ chưa có sự gắn bó hồ quyện, hỗ trợ cho nhau đến sự hội tụ, thống  
nhất hài hồ, tác động lẫn nhau, thúc đẩy sự phát triển các yếu tố bên trong của  
mỗi mặt, làm cho bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học phát triển đồng bộ, bổ 
sung hỗ trợ cho nhau trong nhân cách sư phạm thoả mãn u cầu giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường 
sỹ quan”[63, tr. 50].
Tác giả Đức Lê (2001) với bài viết “Suy nghĩ về xây dựng nguồn lực  
con người cho qn đội trong tình hình hiện nay” [83]. Qua bài viết tác giả 
khẳng định vai trị của việc xây dựng nguồn lực con người cho qn đội 
hiện nay là để đáp ứng với u cầu, nhiệm vụ mới của qn đội; xây dựng 
nguồn lực con người cho qn đội hiện nay phải được thực hiện đồng bộ 
trên cả ba mặt: số lượng, chất lượng và cơ cấu; đề  xuất một số giải pháp  
để xây dựng nguồn lực con người cho qn đội trong tình hình hiện nay.
Tác giả  Lê Văn Dũng  (2011) với  bài viết  “Phát huy vai trị lực  
lượ ng trí thức qn đội trong xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc”   [30] cho 
rằng, những năm qua trí thức qn đội thuộc nhiều chun ngành trong 
lĩnh vực qn sự thực sự là lực lượng nịng cốt, đóng góp quan trọng vào  

sự  nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng qn đội nhân 
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, t ừng b ước hiện đại, hồn thành tốt 
mọi nhiệm vụ. Ngày nay khi thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trí 
thức qn đội đã và đang phát huy   truyền thống tốt đẹp trên mặt trận 
mới xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc. Tuy vậy, ĐNTT qn đội và cơng tác 
xây dựng ĐNTT qn đội cịn nhiều hạn chế, bất cập. Để  khắc phục 
những hạn chế, bất cập đó, cần tăng cường sự  lãnh đạo, quản lý của 


×