1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắn cung là một trong những môn thể thao kỹ năng nằm trong hệ thống
thi đấu chính thức của Thế vận hội Olimpic, mới được du nhập vào Việt Nam
từ năm 1997. Lúc đó trên phạm vi toàn quốc mới chỉ có 3 tỉnh, thành đầu tư
phát triển môn thể thao này là Hà Nội, Hà Tây (cũ) và Vĩnh Phúc. Trong
những năm đầu này tất cả các tỉnh đầu tư phát triển môn bắn cung đều gửi các
VĐV tập huấn tại Câu lạc bộ bắn cung Hà Nội, và qua một số giải thi đấu các
VĐV cũng đã giành được những thành tích nhất định [67], [68].
Với mục tiêu tham dự các Đại hội thể thao châu lục và Thế vận hội
Olimpic của thể thao Việt Nam, sau hơn 10 năm du nhập cho đến nay. Ngành
Thể dục thể thao đã tập trung đầu tư, phát triển môn bắn cung rộng khắp các
tỉnh thành trên phạm vi toàn quốc. Đến nay đã có trên 17 tỉnh, thành, ngành
đầu tư phát triển môn bắn cung là: Hà Nội, Hải Phòng, Phú Thọ, Quân Đội,
Hưng Yên, Bắc Kạn, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Dương
và gần đây nhất là tỉnh An Giang và Đắc Lắc.
Cùng với các môn thể thao khác, trong những năm qua môn bắn cung
cũng đã có những bước phát triển và tiến bộ, nhưng vẫn đang còn ở trình độ
thấp so với thế giới và một số nước trong khu vực. Để môn bắn cung nước ta
lên ngang tầm với trình độ các cường quốc thể thao thế giới, đòi hỏi phải nỗ
lực rất lớn trên nhiều mặt như: Xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ
những nhà Khoa học, cán bộ, HLV... để đáp ứng phong trào và nâng cao thành
tích. Trong những năm gần đây, thực tiễn giảng dạy, huấn luyện và phát triển
môn bắn cung ở hầu hết các địa phương trên toàn quốc đã chỉ ra, trong nhiều
trường hợp công tác đào tạo VĐV chưa chú ý đến việc huấn luyện toàn diện,
chưa đảm bảo tính lôgíc giữa các mặt như kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, tâm
lý, ý chí... [68], [79]
2
Ngày nay, trước yêu cầu cao của quá trình đào tạo VĐV đòi hỏi bên
cạnh các bài tập phát triển tố chất thể lực, phải đặc biệt chú ý tới những bài
tập nhằm phát triển tố chất thể lực chuyên môn ưu thế, đặc biệt là sức bền.
Trong đó, tố chất sức bền chuyên môn có ý nghĩa quyết định vì nó là cơ sở, là
tiền đề phát huy tối đa khả năng làm việc của các cơ quan chức phận và các tố
chất vận động khác, phù hợp với đặc điểm của từng môn thể thao, tạo điều
kiện thuận lợi cho tập luyện và thi đấu, đảm bảo hiệu quả sử dụng kỹ - chiến
thuật trong suốt thời gian thi đấu. Sức bền giúp cho VĐV phát triển khả năng
hoạt động, khối lượng tập luyện và thi đấu có hiệu quả trong suốt thời gian
dài. Sức bền trong thi đấu đảm bảo cho VĐV giữ được nhịp độ trận đấu với
hiệu suất thi đấu ổn định và luôn phát huy được các ưu điểm về kỹ - chiến
thuật. Ngoài ra, sức bền chuyên môn đóng vai trò quyết định trong những trận
đấu căng thẳng, đồng thời làm cho VĐV không nản chí khi bị đối phương dẫn
điểm. Sức bền chuyên môn là một yếu tố quyết định đến sự phát triển toàn
diện thể lực cho VĐV.
Thực tiễn công tác huấn luyện VĐV bắn cung hiện nay cho thấy, chất
lượng đào tạo VĐV các môn thể thao của nước ta đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh mà VĐV bắn cung Việt
Nam đã đạt được như kỹ, chiến thuật... còn một nhược điểm rất lớn cần phải
khắc phục đó là: Trình độ thể lực, đặc biệt là sức bền chuyên môn của một số
môn thể thao Olympic, trong đó có môn bắn cung còn rất hạn chế. Điều này
được bộc lộ qua khả năng thi đấu của các VĐV Việt Nam còn kém đặc biệt
vào những thời điểm cần phát huy nỗ lực tối đa trong trận đấu.
Trong thể thao nói chung và bắn cung nói riêng, đòi hỏi phải có sự kết
hợp nhuần nhuyễn các yếu lĩnh kỹ thuật, chiến thuật, trạng thái tâm lý, môi
trường và phương tiện tập luyện với phát triển tố chất thể lực, đặc biệt là tố
chất sức bền chuyên môn. Một VĐV có thể lực tuyệt vời nhưng nếu thiếu kỹ
3
thuật, chiến thuật, yếu tố tâm lý... thì không thể chiến thắng được đối phương.
Ngược lại, nếu một VĐV có các yếu tố kỹ thuật, chiến thuật, yếu tố tâm lý...
tốt mà thiếu thể lực thì cũng khó có thể chiến thắng được đối phương. Hai
VĐV có trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trạng thái tâm lý và các điều kiện khác
như nhau, song VĐV nào có sức bền chuyên môn tốt hơn thì VĐV đó sẽ đạt
thành tích cao hơn, ổn định hơn trong các lần bắn về sau. Phát bắn hay chu kỳ
bắn phải được ổn định một khoảng thời gian nhất định, khoảng thời gian này
đòi hỏi phải có độ chuẩn xác tinh vi và muốn làm được những điều đó thì
VĐV phải được trang bị thật tốt về yếu tố sức bền chuyên môn. Cho nên có
thể khẳng định, sức bền chuyên môn là tố chất thể lực chuyên môn đặc trưng
của VĐV bắn cung, là nền tảng và chỗ dựa để phát huy kỹ, chiến thuật...
Huấn luyện sức bền chuyên môn còn đảm bảo phát triển mối quan hệ
chặt chẽ giữa nâng cao năng lực tố chất của cơ thể VĐV với việc nâng cao
năng lực tâm lý, có tác dụng tích cực đến việc giáo dục các phẩm chất, nhân
cách, đặc biệt là giáo dục ý chí cho VĐV [68], [77]. Điều này được thể hiện ở
những cố gắng nỗ lực hoàn thành khối lượng tập luyện, phấn đấu vượt qua
được những thành tích của bản thân để vươn tới các thành tích mới, rèn luyện
bản lĩnh vững vàng, chủ động sáng tạo trong thi đấu. Xu hướng phát triển của
bắn cung hiện đại đòi hỏi ở VĐV khả năng thích ứng cao với lượng vận động
lớn và khả năng ổn định tâm lý cao trong thời gian dài. Do đó, việc huấn
luyện sức bền chuyên môn cho VĐV bắn cung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
là khâu không thể thiếu trong quá trình đào tạo, đặc biệt là đào tạo VĐV bắn
cung cấp cao, mà vấn đề này cho đến nay các HLV vẫn chưa thực sự coi trọng
trong công tác đào tạo - huấn luyện.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, vấn đề phát triển sức bền chuyên
môn cho VĐV các môn thể thao nói chung và VĐV môn bắn cung cấp cao
nói riêng là một điều cấp bách không thể thiếu được.
4
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu phát triển các tố chất thể lực
chuyên môn cho VĐV các môn thể thao đã thu hút nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên còn chưa nhiều. Các công
trình nghiên cứu về phát triển tố chất sức bền chuyên môn cho VĐV các môn
thể thao đã có giá trị khoa học ứng dụng tốt, nhưng số lượng còn hạn chế, đặc
biệt trong môn bắn cung hiện nay thì hầu như chưa có tác giả nào quan tâm
nghiên cứu một cách đầy đủ.
Trước hết, phải kể đến các công trình khoa học nhằm nghiên cứu về tố
chất thể lực chuyên môn của VĐV các môn thể thao như: Lê Hồng Sơn
(2006) [56]; Lâm Quang Thành, Bùi Trọng Toại (2002) [59]; Nguyễn Hạc
Thuý, Nguyễn Quý Bình (2000) [62].... Kết quả nghiên cứu của các công
trình này đã xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn và hệ thống các
bài tập phát triển tố chất thể lực chung và thể lực chuyên môn cho VĐV cầu
lông, bóng ném ở giai đoạn chuyên môn hoá ban đầu và giai đoạn chuyên
môn hoá sâu.
Song song với các công trình này là các công trình nghiên cứu nhằm
phát triển các tố chất thể lực riêng lẻ cho VĐV các môn thể thao như: Nguyễn
Đương Bắc (2007) [7]; Phạm Đông Đức (1998) [24]; Trần Tuấn Hiếu (2004)
[29]; Ngô Ích Quân (2007) [55]; Lê Hồng Sơn (2006) [56]; Vũ Xuân Thành
(2012) [60]; Nguyễn Hữu Thắng (1998) [61]; Lê Trí Trường (2012) [75],
Nguyễn Danh Hoàng Việt (2004) [83].... Kết quả nghiên cứu của các công
trình này đã xác định hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn và hệ thống các bài tập
phát triển các tố chất sức bền chuyên môn, sức mạnh, sức mạnh tốc độ cho
VĐV các môn thể thao. Với môn bắn cung do môn này đang trong giai đoạn
phát triển ở Việt Nam hiện tại mới có 17 tỉnh thành đầu tư, nên cho đến nay
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề phát triển thể lực
chuyên môn cho VĐV một cách đầy đủ.
5
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, dù ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác, song các kết quả nghiên cứu đó cũng đã xác định
được cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ sở khoa học đưa ra được những luận điểm
trong lĩnh vực huấn luyện phát triển tố chất thể lực chuyên môn cho VĐV các
môn thể thao. Có thể nói, đây là nguồn tư liệu tham khảo chuyên môn hết sức
đáng quý trong lĩnh vực đào tạo - huấn luyện nâng cao tố chất thể lực chuyên
môn cho VĐV các môn thể thao.
Qua tìm hiểu thực tế công tác huấn luyện VĐV bắn cung cấp cao ở Việt
Nam hiện nay thấy công tác huấn luyện tố chất thể lực chuyên môn, đặc biệt là
sức bền chuyên môn cho VĐV chủ yếu theo kinh nghiệm của các nhà chuyên
môn, cụ thể là sau khi cho VĐV tập luyện thường xuyên trong thời gian từ 3 6 tháng, nếu tăng trưởng về các tố chất thể lực, kỹ thuật, ý thức chiến thuật thì
tiếp tục giữ lại để đào tạo, hoặc VĐV yếu tố chất thể lực nào thì HLV sẽ tăng
cường huấn luyện các tố chất thể lực đó. Cách thức huấn luyện theo kinh
nghiệm truyền thống này có tác dụng nhất định nhưng chưa đủ cơ sở khoa học.
Vì thế, nghiên cứu khoa học lựa chọn được các phương tiện và phương pháp
huấn luyện sức bền chuyên môn cho các VĐV bắn cung cấp cao là đòi hỏi cấp
thiết của thực tiễn đào tạo VĐV bắn cung nước ta hiện nay.
Những phân tích trên đã khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Nghiên
cứu bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho nam vận động viên bắn
cung cấp cao Việt Nam” là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu quả công tác
huấn luyện tố chất thể lực chuyên môn nói chung và huấn luyện tố chất sức
bền chuyên môn nói riêng cho nam VĐV bắn cung cấp cao Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tố chất sức bền chuyên môn và việc sử
dụng các bài tập phát triển tố chất sức bền chuyên môn cho nam VĐV bắn
cung cấp cao ở nước ta, luận án tiến hành lựa chọn, ứng dụng hệ thống bài tập
6
phát triển sức bền chuyên môn phù hợp điều kiện thực tiễn hiện nay, xác định
hiệu quả các bài tập đã lựa chọn trong thực tiễn công tác huấn luyện nhằm
nâng sức bền chuyên môn cho nam VĐV bắn cung cấp cao ở nước ta.
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện các mục
tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1: Nghiên cứu xác định hệ thống test và xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
sức bền chuyên môn cho nam VĐV bắn cung cấp cao Việt Nam.
Mục tiêu 2: Nghiên cứu thực trạng công tác huấn luyện sức bền chuyên môn
cho nam VĐV bắn cung cấp cao Việt Nam.
Mục tiêu 3: Lựa chọn, ứng dụng và xác định hiệu quả hệ thống bài tập phát triển
sức bền chuyên môn cho nam VĐV bắn cung cấp cao Việt Nam.
Giả thuyết khoa học của luận án:
Qua thực trạng công tác huấn luyện tố chất sức bền chuyên môn cho
nam VĐV bắn cung cấp cao trên phạm vi toàn quốc cho thấy, hiệu quả còn
thấp. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do hệ thống bài tập chuyên
môn ứng dụng trong huấn luyện chưa được xây dựng một cách hệ thống và
chưa đảm bảo đầy đủ cơ sở khoa học cần thiết. Vì vậy, kết quả nghiên cứu
khoa học của luận án nếu được áp dụng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn trong
huấn luyện phát triển tố chất sức bền chuyên môn, góp phần nâng cao thành
tích thi đấu cho VĐV.
7
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1. Một số đặc điểm cơ bản của môn bắn cung.
1.1.1. Đặc điểm kỹ thuật môn bắn cung.
Theo xu thế hiện đại môn bắn cung nó có đặc trưng là nhanh, vững,
liên tục và chuẩn xác. Theo các chuyên gia, các nhµ khoa học thì kỹ thuật
môn bắn cung có những đặc điểm sau:
Tính cá thể: Các kỹ thuật trình bày ở sách vở chỉ là một loại mô thức
động tác kỹ thuật lý tưởng hoá. Với mỗi VĐV mô thức đó chưa chắc đã có
hiệu quả nhất, hợp lý nhất mà chỉ có lấy mô thức thể thao của quần thể làm
chỗ dựa kết hợp với đặc điểm cá thể của VĐV. Trên cơ sở tiến hành điều
chỉnh xác lập kỹ thuật cá nhân mới có thể đạt được sự hợp lý và hiệu quả kỹ
thuật cao nhất.
Tính tương đối: Nghĩa là cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
thì kỹ thuật của môn bắn cung không ngừng phát triển, tính hợp lý của nó chỉ
là tương đối.
Tính hoàn chỉnh: Kỹ thuật môn bắn cung do các động tác cụ thể tổ hợp
thành, song không chỉ có mối quan hệ với VĐV mà còn có mối quan hệ với
cung, tên, bia và điều kiện môi trường. Bất cứ sự biến đổi nào của động tác kỹ
thuật cũng như sự biến đổi của các nhân tố khác đều ảnh hưởng đến sự phát
huy hiệu quả của kỹ thuật hoàn chỉnh.
Tính không gian - thời gian: Kỹ thuật bắn cung đều được các bộ phận
cơ thể hoàn thành trong một thời gian - không gian nhất định. Tính không
gian - thời gian của các kỹ thuật ở các môn trong bắn cung đều biểu hiện ra
đặc điểm tính lặp lại thời gian ngắn, ở phần lớn các môn còn có đặc tính
không gian - thời gian tương đối tĩnh tại (giữ im). Trong các kỹ thuật của bắn
cung đặc tính thời gian, không gian này biến đổi rất nhỏ song có yêu cầu rất
cao về độ chính xác.
8
Tính thao tác kỹ thuật: Bắn cung là một loại kỹ thuật mang tính thao
tác khác với các môn thể thao không thực hiện kỹ thuật với khí tài ở chỗ: Kỹ
thuật bắn cung là một loại kỹ thuật coi trọng cả hai thao tác là VĐV phải
thông qua não để thao tác cơ thể, luyện thành các động tác tương ứng, đồng
thời còn phải thao tác cung và các dụng cụ để hoàn thành quá trình bắn tốt
nhất, chính là kỹ thuật thao tác hợp nhất giữa người và cung. Song thao tác
này lấy một bia cố định làm mục tiêu, đồng thời chịu ảnh hưởng của ngoại lực
tự nhiên như áp suất, không khí, gió, môi trường xung quanh… Vì vậy, yêu
cầu thao tác kĩ thuật bắn cung như: giương cung, kéo cung, áp sát, ngắm
chuẩn và thả tên (kết thúc) phải mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất: Động tác phải thống nhất và ổn định.
Thứ hai: Nhịp điệu phải mang tính liên tục và thăng bằng ổn định, hạn
chế động tác thừa. Ổn định về cảm giác vận động, ổn định về kỹ thuật và cảm
giác cơ thể ổn định, mới đủ điều kiện để điều khiển mũi tên bắn trúng đích.
Đây là một năng lực tổng hợp
Tính mục đích: Tính mục đích của kỹ thuật bắn cung tập trung biểu
hiện ở việc bắn trúng vòng 10 để giành thành tích thi đấu tốt nhất [52]. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất: Tính hứng thú là luôn luôn ưa thích môn bắn cung.
Thứ hai: Biểu tượng kỹ thuật phải rõ ràng, tức là cảm giác cơ thể phải
sâu sắc. Muốn thế năng lực tập trung chú ý rất cao, thì mới có thể điều khiển,
khống chế được và thể hiện cuối cùng là giữ được động tác kỹ thuật chuẩn xác.
Thứ ba: Ổn định là hạt nhân như ổn định về thân thể, ổn định về trọng
tâm, ổn định về sức mạnh các nhóm cơ có liên quan. Trong bắn cung cần chú
ý đặc biệt đến các cơ như cơ vai sau, cơ cổ, cơ tay và cơ thắt lưng, cho nên
khi huấn luyện các tố chất thể lực chuyên môn cho VĐV bắn cung cần chú ý
đặc biệt đến vấn đề này.
9
Thứ tư: Chuẩn xác là mục đích cho tất cả các trận đấu đều thắng. Trong
chuẩn xác đặc biệt là chức năng của não rất quan trọng, không đơn thuần là
ngắm chuẩn.
Từ những đặc điểm nêu trên, trong thi đấu môn bắn cung cần phải thực
hiện theo mô hình sau:
Một là: Năng lực thăng bằng - ổn định trọng tâm, tâm lý.
Hai là: Sức mạnh bền của chi trên phải tốt.
Ba là: Chức năng.
Bốn là: Trí lực phải hiểu biết về kỹ thuật chuyên môn, tính chất của
cuộc thi đấu.
Năm là: Tính độc lập, không phụ thuộc vào điều kiện của môi trường
và tác động xung quanh.
Sáu là: Độ ổn định của cơ delta khi kéo giữ cung.
Bảy là: Cảm giác thống nhất của các nhóm cơ có liên quan khi thực
hiện kỹ thuật.
Tám là: Biểu tượng động tác phải rõ ràng.
Chín là: Thời gian kết thúc phải thống nhất.
Chính những đặc điểm trên của kỹ thuật bắn cung đã chi phối việc
hình thành kỹ năng vận động trong quá trình huấn luyện môn bắn cung.
1.1.2. Đặc điểm quy luật hình thành kỹ năng vận động trong bắn cung.
Quy luật tính giai đoạn của việc hình thành kỹ năng môn bắn cung.
Việc hình thành kỹ năng động tác bắn cung giống như kỹ năng các động
tác khác có thể chia thành các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn huấn luyện lại
có những nhiệm vụ giảng dạy, huấn luyện khác nhau [88], [89], [90].
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn lan toả: Giai đoạn này nhiệm vụ huấn
luyện là bước đầu xây dựng biểu tượng động tác bắn cung, học tập và nắm
vững động tác bắn cung để bước đầu hình thành kỹ thuật động tác.
10
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn ức chế phân biệt: Nhiệm vụ của giai
đoạn này là nâng cao và hoàn thiện kỹ năng động tác bắn cung, thải loại các
động tác dư thừa và sự căng thẳng cơ bắp.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn tự động hoá: Nhiệm vụ là thành thạo và
từng bước hình thành định hình động lực của động tác bắn cung. Chú trọng
cải tiến các chi tiết kỹ thuật, xác lập đặc điểm kỹ thuật và phong cách kỹ thuật
của riêng mình.
Giai đoạn thứ tư là giai đoạn kỹ xảo trình độ cao: Nhiệm vụ là nâng
cao năng lực biểu hiện kỹ thuật động tác trong những điều kiện thay đổi, nâng
cao toàn diện năng lực nhịp điệu toàn bộ cơ thể và năng lực ứng biến trong thi
đấu, giai đoạn 1 và giai đoạn 2 được hoàn thành trong giai đoạn huấn luyện
ban đầu. Yêu cầu của 2 giai đoạn này cần đạt được là tạo được tư thế bắn
cung thích hợp, thoải mái, nâng cung và giữ cung chính xác, dùng phương
thức thông dụng để nắm giữ cung. Có thể điều khiển hô hấp, ngắm chuẩn
chính xác, có thể khống chế cơ bắp và các bộ phận [91], [93], [94].
Nhiệm vụ chủ yếu của huấn luyện kỹ năng ở 2 giai đoạn này là xác
định mục tiêu huấn luyện, bước đầu xây dựng biểu tượng động tác, tư thế
hoàn chỉnh. Tìm hiểu toàn bộ quá trình của động tác kỹ thuật, thông qua tập
luyện hệ thống và lặp lại có thể hoàn thành động tác tư thế bắn cung một cách
tương đối tốt. Cũng ở giai đoạn 1 và 2 này với thanh thiếu niên bước đầu tập
bắn cung nên tiến hành giảng dạy và huấn luyện kỹ năng thời kỳ đầu theo trình
tự dưới đây:
Trước hết tập luyện mô phỏng, giảng giải yếu lĩnh động tác bắn cung
làm cho người học nắm vững được cấu trúc và yếu lĩnh động tác tư thế bắn
cung hoàn chỉnh, và phương pháp hoàn thành động tác. Thông qua vừa giảng
giải, phân tích thị phạm làm cho VĐV xây dựng được biểu tượng động tác
chính xác đồng thời tiến hành bắt chước.
11
Kế đó là tập luyện thăng bằng tĩnh và cảm giác dùng lực cơ bắp. Dựa vào
nguyên tắc nâng dần và nguyên tắc từ dễ đến khó, trước hết nắm vững tư thế bắn
chính xác, tiếp đó là tiến hành tập luyện tính ổn định của “người - cung”.
Tiếp theo là: Sửa chữa sai sót động tác. Chủ yếu tập trung nắm bắt việc
quy phạm hoá và trình tự hoá động tác, kịp thời sửa chữa những động tác sai
nảy sinh khi dùng lực.
Cuối cùng xây dựng đúng định hình động lực kỹ thuật bắn, qua tập
luyện lặp lại xây dựng chính xác định hình kỹ thuật, trên cơ sở đó tăng dần
lượng vận động tập luyện.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn nâng cao chuyên sâu trong huấn luyện
nhiều năm hoặc trong giai đoạn nâng cao trình độ bắn cung trong quá trình
huấn luyện ở giai đoạn cuối, là giai đoạn huấn luyện nâng cao trình độ chuyên
môn của bắn cung nên phải đạt được các yêu cầu sau:
Các động tác thực hiện nhịp nhàng, cảm giác khống chế tốt. Để điều
khiển các động tác chi tiết trong bắn cung cần có sự phân phối sức mạnh phù
hợp chính xác, hình thành và duy trì được cảm giác tinh tế, ổn định về thân
thể (trọng tâm đặc biệt quan trọng) khi giữ cung và cảm giác tinh tế ở trạng
thái ban đầu khi làm quen với cung để bước vào trạng thái ổn định. Tính dự
báo với thời kỳ ổn định tối ưu của cung, cảm giác rung động nhẹ của bàn tay
nắm giữ cung cũng như tính chính xác cao độ của ngắm chuẩn và các năng
lực chuyên môn khác đều đạt được trình độ kỹ xảo cao độ.
Trong huấn luyện kỹ năng ở giai đoạn này chú ý các đặc điểm sau:
Một là học tập tăng cường kỹ thuật làm cho khái niệm động tác được
hiểu một cách chính xác và nâng cao được năng lực phân tích kỹ thuật động
tác, năng lực điều khiển cung, tên chuẩn xác, tinh tế của người tập.
Hai là xác định các tiêu chuẩn đánh giá kỹ thuật chủ yếu, nắm chắc
việc huấn luyện chi tiết kỹ thuật nâng cao năng lực phân tích kỹ thuật đúng
12
sai cho người học, ngăn ngừa biên độ giao động của động tác kỹ thuật, nhất là
động tác kết thúc.
Ba là, nâng cao lượng vận động tập luyện một cách phù hợp như tăng
dần thời gian tập luyện, số lần nâng cung, kéo giữ cung, tập trung ngắm đích.
Bốn là xếp sắp thoả đáng khối lượng huấn luyện mang tính đối kháng
và tính thi đấu, nhưng giai đoạn này không được nóng vội thi đấu quá sớm.
Giai đoạn thứ tư phần lớn dùng cho việc nâng cao trình độ chuyên môn
mang tính thi đấu trong huấn luyện nhiều năm, chủ yếu là huấn luyện để nâng
cao thành tích cho VĐV [35].
Quy luật truyền dẫn thông tin trong huấn luyện kỹ năng bắn cung.
Từ góc độ điều khiển huấn luyện theo các nhà khoa học thể thao như
Aleco B. (1996) [1], D.Harre (1996) [27], Nguyễn Duy Phát (1999) [52],
Philin (1996) [53], Utkin V.L (1996) [78] thì toàn bộ quá trình huấn luyện đều
được thực hiện bởi mối liên hệ thông tin giữa người truyền đạt thông tin - tức
người điều khiển (HLV hoặc nhà khoa học) với người thu nhận thông tin tức
người bị điều khiển (VĐV hoặc học sinh). Quá trình huấn luyện chính là quá
trình truyền dẫn thông tin lẫn cho nhau. Giai đoạn chủ yếu và phương thức
chủ yếu của truyền dẫn thông tin trong huấn luyện kỹ năng môn bắn cung
được diễn ra như sau:
Bước thứ nhất: Huấn luyện viên truyền đạt các thông tin cần thiết tới
các VĐV.
Bước thứ hai: VĐV tiếp nhận những thông tin từ bên ngoài 1 cách có
hiệu quả.
Bước thứ ba: VĐV sẽ tiến hành xử lý thông tin có hiệu quả những
thông tin đã tiếp nhận được (phân tích, tư duy và lý giải)
Bước thứ tư: VĐV phát ra các tín hiệu điều khiển từ não tới các cơ
quan vận động (tứ chi và thân người) đồng thời hoàn thành động tác.
13
Bước thứ năm: Thông qua thông tin ngược sinh học của bản thân bên
trong cơ thể người tập để điều chỉnh động tác của bản thân. Cuối cùng hoàn
thành động tác chuẩn xác theo yêu cầu quy định.
Quy luật chuyển dịch lẫn cho nhau của kỹ năng môn bắn cung.
Sự chuyển dịch lẫn cho nhau về kỹ năng môn bắn cung chỉ sự ảnh
hưởng lẫn nhau giữa kỹ năng môn bắn cung với các kỹ năng khác (như năng
lực cơ thể, năng lực tâm lý) giữa các kỹ năng vận động của các khâu kỹ thuật
với nhau (như kỹ năng ngắm bắn), giữa kỹ năng cũ và kỹ năng mới.
Những ảnh hưởng này lại được chia thành ảnh hưởng tốt thúc đẩy lẫn
nhau và ảnh hưởng không tốt ràng buộc lẫn nhau. Trong ảnh hưởng tốt lại có
thể phân thành những ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp, ảnh hưởng
cùng loại và ảnh hưởng khác loại, ảnh hưởng từng mặt và ảnh hưởng nhiều
mặt, từ đó hình thành nên mối quan hệ chuyển dịch khác nhau.
Quy trình của việc hình thành kỹ năng vận động môn bắn cung
Cũng như các môn thể thao khác, trong bắn cung việc hình thành và
nâng cao kỹ thuật và kỹ năng vận động đều tồn tại tính trình tự logic một cách
nghiêm ngặt, nên nếu không tìm hiểu mối quan hệ trình tự giữa chúng hoặc
không dựa theo quy luật phát triển trình tự vốn có của nó để xếp sắp huấn
luyện kỹ năng cho học viên bắn cung sẽ khó có thể đạt được hiệu quả giảng
dạy và huấn luyện tốt. Quy trình của việc hình thành kỹ năng môn bắn cung
có một số đặc điểm sau:
Một là: Trình tự động tác kỹ thuật từng phần khác nhau của bắn cung
cũng khác nhau.
Hai là: Trình tự hình thành kỹ năng bắn cung và trình tự huấn luyện
bắn của các kỹ thuật động tác khác nhau cũng khác nhau.
Ba là: Trình tự tư duy của VĐV bắn cung với tính đối ứng của trình độ
kỹ thuật động tác phải mang tính đồng bộ mới có thể đạt được hiệu quả tối ưu.
14
Môn bắn cung là một môn thể thao yêu cầu về độ chính xác rất cao, nên
cần phải nghiêm khắc dựa vào các quy luật trên để tiến hành giảng dạy và
huấn luyện kỹ thuật mới có thể đạt được hiệu quả tối ưu.
1.1.3. Đặc điểm huấn luyện thể lực chuyên môn VĐV môn bắn cung.
Trong môn bắn cung các tố chất biểu hiện hết sức đa dạng, song yếu tố
sức mạnh biểu hiện rõ hơn cả là các bài tập thể hiện sự nỗ lực cơ bắp để khắc
phục trọng lượng và lực kéo cung hoặc đề kháng lại nó. Bài tập này được lựa
chọn để có thể thúc đẩy sự hình thành kỹ xảo vận động “cốt lõi” và phát triển
các tố chất thể lực thích hợp với môn bắn cung.
Hoàn thiện kỹ thuật và chiến thuật được tiếp tục huấn luyện ở giai đoạn
chuyên sâu. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu là đảm bảo nắm vững kỹ
thuật môn bắn cung, có thể sử dụng được trong các điều kiện khó khăn của
tập luyện và thi đấu, phát triển kỹ thuật sở trường, các tố chất thể lực chuyên
môn cần thiết và ý chí có tác dụng hoàn thiện trình độ điêu luyện về kỹ thuật
và chiến thuật cho VĐV [99], [102], [123], [124].
Ở giai đoạn huấn luyện này, phương pháp thi đấu có vai trò ngày càng
lớn trong việc hoàn thiện kỹ thuật. Trình độ điêu luyện về chiến thuật phần
nhiều phụ thuộc vào trình độ huấn luyện thể lực, kỹ thuật và tâm lý của VĐV
bắn cung.
Trong quá trình giảng dạy huấn luyện VĐV bắn cung, phải quan tâm đúng
cho việc huấn luyện thể lực chuyên môn. Việc huấn luyện thể lực chuyên môn
cho VĐV bắn cung phải theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tăng lượng vận động ngày một lớn hơn cho đến tối đa.
Khi huấn luyện thể lực tác động của bài tập các cơ quan vận chuyển và
tiêu thụ ôxy phải hoạt động nhiều hơn so với yêu cầu trong suốt các buổi tập
hàng tuần và những hoạt động thể lực bình thường. Cơ thể dần dần thích nghi
với lượng vận động ngày một tăng, sự hấp thụ ôxy được cải thiện, mặt khác,
15
tác dụng tập luyện sẽ được giảm dần khi lượng vận động đã được tăng lên ở
mức chỉ có tác dụng duy trì. Nếu muốn tăng trình độ thể lực hơn phải tăng
lượng vận động lên cao hơn nữa [11], [12], [18].
Việc tập luyện có thể được tăng theo từng bước về thời gian luyện tập,
cường độ hoặc tần suất các bài tập, nghĩa là có thể lập kế hoạch tập luyện theo
các yếu tố thời gian, cường độ số lần thực hiện bài tập. Điều quan trọng nhất
là huấn luyện phải có kế hoạch và phải phù hợp với điều kiện tập luyện, khả
năng thể lực của VĐV và thời gian của mùa thi đấu. Điều này quan trọng
không chỉ vì để có được hiệu quả tối ưu khi tập luyện mà còn tránh cho VĐV
không bị tổn thương do tập luyện quá sức. Khi thực hiện nguyên tắc này việc
sử dụng các bài tập đều phải đảm bảo tác động chính và phụ [21], [23], [33],
[50].
Mỗi bài tập có ảnh hưởng tới cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau.
Ví dụ: Bài tập chạy là bài tập sơ đẳng nhất về các cơ quan vận chuyển và hấp
thụ ôxy. Khi chạy tất cả các cơ quan đều phải hoạt động tích cực hơn và
chúng được rèn luyện; ngay cả các khớp, gân, dây chằng và các mô liên kết
trong cơ cũng được rèn luyện. Tác dụng chính của việc tập chạy là luyện tập
khả năng ưa khí, còn tác dụng phụ rất quan trọng là luyện tập các khớp xương
và các mô liên kết. Trên thực tế có thể đạt được hiệu quả luyện tập 100% ở
một khía cạnh nào đó. Vì vậy không thể đồng thời luyện tập cả khả năng ưa
khí và sức mạnh tối đa có hiệu quả bằng một bài tập. Nhận thức được ảnh
hưởng phụ là vô cùng quan trọng vì những ảnh hưởng phụ này thường tác
động lên những chương trình tập luyện. Chính vì vậy khi lên chương trình và
thời gian biểu luyện tập phải chú ý tới chúng [65], [66], [76].
Nguyên tắc kết hợp với chuẩn bị chung và chuẩn bị chuyên môn.
Chuẩn bị thể lực chung được sử dụng phần lớn trong giai đoạn huấn
luyện cơ bản với những mục tiêu rõ ràng.
16
Chuẩn bị thể lực chuyên môn là phần không được thiếu và là hình thức
luyện tập chủ yếu trong các thời kỳ thi đấu.
Chuẩn bị chung là cơ sở bảo đảm cho phát triển kỹ năng vận động và
năng lực tâm lý, tinh thần cho VĐV chuẩn bị chuyên môn. Hai phần đó không
thể tách rời nhau trong tất cả các giai đoạn, chu kỳ huấn luyện của kế hoạch
huấn luyện [2], [4], [6], [35], [39]
Nguyên tắc biến đổi lượng vận động và nghỉ ngơi.
Đây là nguyên tắc phản ánh quy luật sinh lý: Hồi phục cũng quan trọng
như lượng vận động trong quá trình thích nghi. Vì vậy huấn luyện viên không
chỉ chú ý đến lượng vận động mà còn phải quan tâm đến thời gian và các
thông số khác nhau của quá trình nghỉ ngơi hồi phục, đặc biệt trong tình hình
có hạn chế về dinh dưỡng [19], [30], [31].
Việc tính toán lượng vận động và nghỉ ngơi trong từng bài tập, từng
buổi tập và cả chu kỳ khác nhau phải theo đúng nguyên tắc khoa học và quy
luật sinh lý nhằm đạt được hiệu quả huấn luyện tích cực nhất, hạn chế các tác
động tiêu cực. Việc vận dụng nguyên tắc này khi sử dụng các bài tập phải có
sự biến đổi lượng vận động, bởi mối quan hệ giữa lượng vận động và nghỉ
ngơi trong tập luyện đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao thành tích
cho VĐV [41], [44]. Hiện nay quan niệm nghỉ ngơi nên sử dụng hình thức
nghỉ ngơi tích cực không nên sử dụng hình thức nghỉ ngơi tiêu cực trong quá
trình tập luyện. Sau tiếp thu lượng vận động nhất định thì quá trình hồi phục
xảy ra. Trong một buổi tập hay một chu kỳ tập luyện với nhiều lượng vận
động xen kẽ các quãng nghỉ thì nguồn năng lượng cơ thể luôn biến động và
diễn biến dưới dạng “làn sóng”. Việc sắp xếp lượng vận động và nghỉ ngơi
hợp lý nhằm tác động các lượng vận động phù hợp vào các thời điểm thích
hợp để nâng cao dần đỉnh của các làn sóng, để nhằm đạt được mục đích của
huấn luyện [49], [64].
17
Nguyên tắc huấn luyện theo chu kỳ.
Đây là nguyên tắc phản ánh hiện tượng sinh học của con người, muốn
có kết quả huấn luyện tốt thì huấn luyện viên phải chú ý quán triệt nguyên tắc
này, thường có các loại [27], [41], [47]:
Chu kỳ ngắn thường là chu kỳ tuần.
Chu kỳ trung bình gồm 3 - 6 chu kỳ ngắn.
Chu kỳ dài (từ 6 tháng đến 1 năm).
Chu kỳ nhiều năm (nhiều chu kỳ dài).
Việc phân chia chu kỳ tập luyện trong năm thường căn cứ vào các giải
thi đấu chính trong năm.
1.2. Các quan điểm và phương pháp phát triển tố chất sức bền chuyên
môn trong huấn luyện VĐV bắn cung cấp cao.
1.2.1. Các quan điểm về sức bền chuyên môn trong huấn luyện thể
thao.
Sức bền là một trong những tố chất thể lực quan trong trong huấn luyện
thể thao, trong vận động sức bền là khái niệm rất rộng. Các quan điểm về sức
bền trong nhiều tài liệu có những cách thể hiện và tiếp cận khác nhau. Qua
phân tích tổng hợp có các quan điểm sau:
Theo Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2000): Sức bền là năng lực thực
hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay là năng lực duy trì khả năng
vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được [65].
Do thời gian hoạt động đó cuối cùng bị giới hạn bởi xuất hiện của mệt
mỏi nên cũng có thể định nghĩa sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt
mỏi trong một hoạt động nào đó. Các tác giả cho rằng, sức bền luôn luôn liên
quan đến khái niệm mệt mỏi. Khi thực hiện một hoạt động liên tục và tương
đối căng thẳng nào đó thì sau một thời gian con người sẽ thấy việc tiếp tục
ngày càng khó khăn hơn. Trong một thời gian nhất định, mặc dù khó khăn
18
tăng lên nhưng cường độ hoạt động vẫn được duy trì ở mức ban đầu nhờ sự
nỗ lực của ý chí.
Theo Harre.D (1996) cho rằng: Sức bền là khả năng chống lại sự mệt
mỏi của VĐV. Sức bền đảm bảo cho VĐV đạt được một cường độ tốt nhất
(tốc độ, dùng lực, nhịp độ chơi hoặc thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời gian
vận động kéo dài của thi đấu tương ứng năng lực huấn luyện của mình. Sức
bền còn đảm bảo chất lượng động tác cao và giải quyết hoàn hảo các hành vi
kỹ - chiến thuật tới cuối cuộc thi đấu và khi vượt qua một khối lượng vận
động lớn trong tập luyện. Tác giả cũng cho rằng, sức bền là một nhân tố ảnh
hưởng lớn đến thành tích thi đấu và khả năng chịu đựng lượng vận động của
VĐV. Sức bền được phát triển tốt cũng là một trong những điều kiện quan
trọng để hồi phục nhanh sau vận động [27].
Theo góc độ sinh hoá Mensicop V.V và Volcop N.I (1997) cho rằng:
Sức bền thể hiện dưới dạng kéo dài thời gian hoạt động ở một cường độ nhất
định đến khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của mệt mỏi cũng như giảm
khả năng hoạt động khi bắt đầu mệt mỏi và cuối cùng dẫn đến ngừng vận
động. Sức bền được đo bằng thời gian thực hiện vận động đến khi phải dừng
lại (thời gian ngưỡng - t ng) [42], [105], [106]. Trên quan điểm sinh hoá, sức
bền được xác định bởi tỷ số dự trữ các chất năng lượng được sử dụng với tốc
độ tiêu hao năng lượng khi thực hiện bài tập đã định:
Søc bÒn (t ng , phót)=
Dù tr÷ n¨ng l î ng (J)
Tèc ®é tiªu hao n¨ng l î ng (J/phót)
Như vậy sức bền được xác định bằng thời gian hoạt động ở cường độ
đã định đến khi hết hoàn toàn năng lượng dự trữ có thể có. Theo góc độ sinh
lý, các tác giả Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (2003) cho rằng: Sức bền là
khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào đó. Sức bền là một tố chất thể
lực vì vậy có tính tương đối rất cao, được thể hiện trong một loại hoạt động
19
nhất định. Nói cách khác, sức bền là một khái niệm chuyên biệt thể hiện khả
năng thực hiện lâu dài một hoạt động chuyên môn nhất định. Sức bền thường
đặc trưng cho khả năng thực hiện các hoạt động thể lực kéo dài liên tục từ 1 3 phút trở lên, với sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn (từ 1/2 toàn bộ
lượng cơ bắp của cơ thể), nhờ hấp thụ ôxy để cung cấp năng lượng cho cơ chủ
yếu hoặc hoàn toàn bằng con đường ưa khí. Như vậy sức bền trong thể thao là
khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn thân hoặc chủ yếu mang
tính ưa khí [30], [31].
Từ phân tích các quan điểm về sức bền của các tác giả trong nước và
trên thế giới cho thấy:
Hầu hết các tác giả đều thống nhất và cho sức bền là khả năng thực
hiện lâu dài một hoạt động nào đó với cường độ nhất định, nên sức bền là tố
chất thể lực được thể hiện trong một loại hoạt động. Nói cách khác sức bền là
một khái niệm chuyên biệt thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động
chuyên môn nhất định.
Sức bền có vai trò to lớn với thành tích thi đấu và khả năng chịu đựng
LVĐ, luôn gắn liền với hiện tượng mệt mỏi và khả năng hồi phục của VĐV.
Để phát triển được sức bền trong tập luyện thì VĐV phải khắc phục
mệt mỏi.
Trong tập luyện và thi đấu bắn cung hiện đại đòi hỏi rất nhiều về thể
lực thể hiện qua việc VĐV phải vận động rất tích cực. Phần lớn các phối hợp
kỹ - chiến thuật phải dựa trên sự duy trì hoạt động căng cơ với sự nỗ lực ý chí
cao nên điều này đòi hỏi VĐV phải có trình độ phát triển cao về sức mạnh
bền và sức bền chuyên môn.
Tóm lại, từ phân tích đặc điểm thi đấu của môn bắn cung và các quan
điểm về sức bền của các chuyên gia, có thể đưa ra khái niệm sức bền chuyên
môn trong huấn luyện VĐV bắn cung như sau: Sức bền chuyên môn trong
20
bắn cung là khả năng chống lại mệt mỏi của VĐV để đảm bảo nhịp độ và chất
lượng hoạt động chuyên môn trong từng loạt bắn, đợt bắn, hay chu kỳ bắn với
cường độ cao trong suốt thời gian thi đấu. Theo góc độ sinh lý sức bền chuyên
môn trong bắn cung là sức bền hỗn hợp ưa khí và yếm khí, trong đó sức bền
yếm khí là chính, sức bền ưa khí là cơ sở.
1.2.2. Phân loại sức bền.
Hoạt động vận động của con người rất đa dạng. Các môn thể thao khác
nhau có hoạt động đặc thù riêng mang tính chất và cơ chế mệt mỏi khác nhau.
Mệt mỏi phân ra: mệt mỏi về trí lực và mệt mỏi về phương diện cảm giác, mệt
mỏi về thể xác (thể lực) và mệt mỏi về tinh thần (tình cảm). Sự mệt mỏi về thể
xác được tạo ra bởi sự hoạt động của cơ bắp, nên các loại sức bền tương ứng
cũng khác nhau [12], [22], [25], [34], [72]. Cách phân loại sức bền như sau:
Căn cứ vào thời gian hoạt động, các nhà khoa học như Harre.D [27],
Trịnh Hùng Thanh, Lê Nguyệt Nga [57], Trịnh Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà
[58], Nguyễn Thế Truyền [72], chia sức bền ra thành 3 loại:
Sức bền trong thời gian dài là sức bền cần thiết để vượt qua cự ly hoặc
hoàn thành khối lượng vận động trong thời gian 11 phút tới nhiều giờ, thành
tích phụ thuộc vào khả năng hoạt động ưa khí. Trên cơ sở yêu cầu khác nhau
về trao đổi chất nên sức bền trong thời gian dài lại chia thành 3 loại là sức bền
trong thời gian dài I, II và III tương ứng với thời gian thi đấu từ 10 - 30 phút,
từ 30 đến 90 phút và trên 90 phút.
Sức bền trong thời gian trung bình là sức bền cần thiết để hoàn thành
khối lượng vận động trong thời gian từ 2 đến 11 phút. Thành tích sức bền này
đòi hỏi sự hoạt động đầy đủ của khả năng ưa khí và khả năng yếm khí, phụ
thuộc vào mức độ phát triển của sức mạnh - bền và sức nhanh bền.
Sức bền trong thời gian ngắn (45 giây đến dưới 2 phút): Thành tích phụ
thuộc vào khả năng hoạt động yếm khí và sự phát triển sức mạnh - bền và sức
nhanh bền.
21
Căn cứ vào trạng thái năng lực làm việc của hệ thống cung cấp năng
lượng, Aulic I.V [2], Nguyễn Ngọc Cừ và cộng sự [18], Lưu Quang Hiệp,
Phạm Thị Uyên [31], Nabatnhicova M.Ia [46] chia sức bền ra thành 2 loại.
Sức bền ưa khí (aerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong
điều kiện sử dụng nguồn năng lượng thông qua quá trình ôxy hoá hợp chất
hữu cơ giàu năng lượng trong cơ thể.
Sức bền yếm khí (anaerobic) là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể
trong điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (ATP, CP)
phốt phorin và sức bền hệ thống cung cấp năng lượng láctat. Các nhà khoa
học khẳng định: sức bền là chỉ làm việc trong một thời gian dài mới có tác
dụng là sai lầm vì thực tế trong hoạt động thể thao có mệt mỏi thì có sức bền.
Dựa trên 2 quan điểm trên thì tố chất sức bền môn bắn cung thuộc loại
sức bền trong thời gian trung bình sử dụng năng lượng hỗn hợp ưa khí và yếm
khí, thành tích phụ thuộc vào khả năng hoạt động của hệ cung cấp năng lượng
ưa khí và yếm khí.
Căn cứ vào số lượng các nhóm cơ tham gia hoạt động và chế độ hoạt
động của cơ: Daxưorơxki B.M [22] ; Novicốp A.D, Matveép L.P [49], [110];
Kharitonova L.G [37]; Liac V.I [40]; Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn [65] chia
sức bền thành 3 loại:
Sức bền cục bộ (mệt mỏi cục bộ): Là sức bền có dưới 1/3 các nhóm cơ
tham gia hoạt động. Hoạt động cục bộ không làm cho hoạt động hệ thống tim
mạch và hô hấp tăng đáng kể. Nguyên nhân mệt mỏi của hoạt động nằm trong
các khâu của bộ máy thần kinh cơ trực tiếp đảm bảo động tác.
Sức bền khu vực (mệt mỏi khu vực): Là loại sức bền trong các hoạt
động có từ 1/3 đến 2/3 khối lượng cơ tham gia.
Sức bền chung (mệt mỏi chung): Là sức bền trong các hoạt động kéo
dài với cường độ thấp có sự tham gia của 2/3 nhóm cơ trở lên. Trong hoạt
22
động này đòi hỏi cơ quan tuần hoàn và hô hấp hoạt động khẩn trương để đảm
bảo cung cấp năng lượng cho hoạt động.
Dưới góc độ tâm lý, tác giả Phạm Ngọc Viễn cho rằng: Tri giác chuyên
môn của tố chất sức bền thể hiện dưới dạng cảm giác sức bền tốc độ, sức bền
mạnh và sức bền - mạnh - tốc độ. Vì cấu trúc tâm lý của tố chất sức bền
không biểu hiện rõ nét nên sự phân chia sức bền chỉ mang tính chất tương đối,
tuy trong mỗi môn thể thao tri giác chuyên môn tố chất sức bền lại có cấu trúc
tâm lý riêng và khác nhau. Với các môn thể thao cá nhân thì cảm giác độ lớn
và thời gian của sự nỗ lực trong điều kiện giới hạn thời gian để chống lại đối
phương có ý nghĩa quan trọng [81], [82].
Dựa trên đặc điểm vận động riêng biệt của từng môn thể thao đa số các
nhà khoa học như: Baigunop [4]; Daxưorơxki V.M [22]; Harre.D [27], Trịnh
Trung Hiếu và Nguyễn Sĩ Hà [33]; Novicốp A.D, Matveép L.P [49]; Ozolin
M.G [50]; Philin [53]; Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn [65], chia sức bền
thành sức bền chung (sức bền cơ sở) và sức bền chuyên môn.
Tổng hợp các quan điểm về phân loại sức bền trên thấy: Dưới góc độ
khác nhau có các cách phân loại khác nhau. Nhưng, dù ở góc độ nào thì sức
bền đều có liên quan tới lượng vận động và cơ chế mệt mỏi, nên sự phân chia
sức bền chỉ mang tính chất tương đối.
Như vậy sức bền trong môn bắn cung có một số đặc điểm sau:
Sức bền trong tập luyện và thi đấu bắn cung là sức bền trong thời gian
trung bình. Thành tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tâm lý, trình độ kỹ
thuật và khả năng phối hợp vận động, trong đó năng lực hoạt động ưa khí và
yếm khí có vai trò quan trọng trong phát triển sức bền.
Dưới góc độ sư phạm, sức bền trong môn bắn cung được chia thành các
loại sau:
Sức bền chung là năng lực vận động được tiến hành trong thời gian kéo
dài với sự tham gia hầu như toàn bộ cơ bắp, là cơ sở để hình thành sức bền
23
chuyên môn trong thi đấu. Năng lực vận động này được xác định trước hết
bởi mức độ cao về hấp thụ oxy tối đa và mức độ tác dụng cao trong hoạt động
cung cấp oxy. Do đó huấn luyện sức bền chung phải hướng chủ yếu vào việc
nâng cao khả năng ưa khí và năng lực hoạt động ưa khí cũng hướng vào sự
phát triển các phẩm chất cá nhân tương ứng [108], [109], [120], [123], [125].
Sức bền chuyên môn chỉ năng lực, chức năng của cơ thể được động
viên tới mức tối đa của thành tích môn chuyên sâu. Tức là, năng lực duy trì
khả năng vận động cao trong những loại hình bài tập nhất định được gọi là
sức bền chuyên môn. Sức bền chuyên môn là sức bền đặc trưng riêng cho
từng môn thể thao. Trong môn bắn cung, sức bền chuyên môn là năng lực duy
trì tốc độ, nhịp độ trận đấu với hiệu suất cao, đảm bảo chất lượng điều khiển
động tác và giải quyết hoàn hảo các hành vi kỹ - chiến thuật tới cuối cuộc thi
đấu [8], [123]. Đặc trưng cơ bản nhất sức bền chuyên môn của bắn cung là
nhanh, vững (ổn định), chính xác và khả năng kiểm soát chặt chẽ của hệ
thống thần kinh trung ương tới khả năng khống chế về tốc độ và sức mạnh
trong quá trình thi đấu. Dưới góc độ sinh lý học thể thao, sức bền chuyên môn
trong bắn cung là sức bền hỗn hợp ưa khí và yếm khí trong đó sức bền yếm
khí có vai trò quan trọng. Sức bền chuyên môn là một trong những tố chất thể
lực đặc trưng hàng đầu đối với VĐV bắn cung [121], [122], [125].
1.2.3. Cơ sở sinh lý và phương pháp phát triển tố chất sức bền
chuyên môn trong huấn luyện VĐV bắn cung cấp cao.
Sức bền môn bắn cung rất quan trọng để VĐV đạt thành tích cao trong
thi đấu. Một số trường hợp sức bền còn quyết định chiến thắng hoặc thất bại.
Cơ sở sinh lý học của năng lực hoạt động yếm khí là:
Dự trữ vật chất giàu năng lượng có hàm lượng ATP và CP, hàm
lượng glucogen và hoạt tính men gluco phân:
Hàm lượng ATP và CP: Khả năng cung cấp năng lượng ATP và CP cho
cơ thể trong vận động chủ yếu quyết định bởi hàm lượng ATP và CP, đồng
24
thời nhờ CP để tái hợp thành ATP. Khi vận động với cường độ cực đại, chỉ
trong vòng 10s ATP và CP tích luỹ trong cơ bắp cạn kiệt. Giai đoạn này gọi là
giai đoạn không có axit lactic vì sự phân huỷ ATP và CP không sản sinh axit
lactic. Vì vậy, công suất lớn nhất có thể đánh giá được năng lực cung cấp
năng lượng ATP, CP, [19], [20], [26], [30], [42]. VĐV bắn cung khi hoàn
thành lượng vận động yếm khí giống như người bình thường thì tích luỹ axit
lactic máu xuất hiện chậm hơn, chứng tỏ VĐV bắn cung nhờ được cung cấp
năng lượng ATP, CP có thể thực hiện lượng vận động nhiều hơn người bình
thường. Đặc biệt năng lượng ATP và CP có khả năng tạo lực bất ngờ trong thi
đấu bắn cung.
Hàm lượng glucogen và hoạt tính men phân giải gluco: Nếu nhu cầu
ATP vượt quá khả năng giải phóng ATP thì lượng ATP bổ sung sẽ được cung
cấp rất nhanh nhờ sự phân huỷ đường. Hàm lượng glucogen và hoạt tính men
gluco phân là cơ sở vật chất của năng lực gluco phân yếm khí. Năng lượng từ
gluco có được do phân giải yếm khí glucogen, quá trình này sản sinh ra trong
cơ thành axit lactic và giải phóng năng lượng, thường xảy ra sau 10 - 15 giây
đầu tiên khi bắt đầu hoạt động tích cực. Năng lực cung cấp năng lượng gluco
quyết định bởi hàm lượng glucogen trong tổ chức cơ và hoạt tính men phân
giải glucogen. Vì vậy, trong huấn luyện có HLV dùng chỉ số axít lactic máu
để đánh giá năng lực yếm khí song chưa phải là chỉ số nhạy cảm [16], [42].
Năng lực điều tiết của quá trình trao đổi chất và năng lực trao đổi
chất của quá trình hồi phục sau vận động.
Để nâng cao công suất tái tổng hợp thành ATP, VĐV cần nâng cao năng
lực điều tiết của quá trình trao đổi chất. Năng lực này bao gồm: hoạt tính của
các men tham gia quá trình trao đổi chất, điều tiết thần kinh thể dịch và kích
thích quá trình trao đổi chất, điều tiết cân bằng axit - kiềm khi môi trường
thay đổi, sự nhịp nhàng hoạt động của cơ thể [16], [17], [32], [37]
25
Tích luỹ nợ oxy lớn nhất khi vận động căng thẳng.
Lượng oxy đòi hỏi vượt quá lượng hấp thụ oxy trong quá trình trao đổi
chất yếm khí để sinh ra năng lượng, tạo thành sự thiếu hụt oxy trong cơ thể
gọi là nợ oxy. Sự tích luỹ nợ oxy lớn nhất là chỉ hiệu số lượng oxy đòi hỏi về
mặt lý thuyết khi cơ thể tham gia vận động căng thẳng (kéo dài từ 2 - 3 phút)
với lượng oxy tiêu hao thực tế, nên theo sinh lý học thể thao, nợ oxy lớn nhất
là một tiêu chí để đánh giá năng lực cung cấp năng lượng yếm khí của cơ thể.
Nhiều kết quả nghiên cứu chứng minh, tích luỹ nợ oxy lớn nhất của VĐV có
trình độ tập luyện tốt hơn người bình thường, chứng tỏ tích lũy nợ oxy tối đa
có tính mẫn cảm tương đối lớn với huấn luyện yếm khí. Có một số ý kiến
khác cho rằng, tích luỹ nợ oxy lớn nhất là phương pháp có hiệu quả để kiểm
tra năng lực hoạt động yếm khí [19], [30], [31], [104], [107].
Cơ sở sinh lý năng lực hoạt động ưa khí của VĐV bắn cung là hoạt
động trong điều kiện cung cấp đủ oxy cho cơ thể để oxy hoá các vật chất năng
lượng (đường, mỡ) tạo ra ATP, cung cấp năng lượng cho cơ thể làm việc, nên
oxy đầy đủ là điều kiện tiên quyết của hoạt động ưa khí. Sức bền ưa khí là
năng lực duy trì các hoạt động lấy nguồn cung cấp năng lượng trao đổi chất
ưa khí là chính để duy trì hoạt động trong thời gian dài. Vì vậy, mức độ hấp
thụ oxy tối đa của cơ thể trong một đơn vị thời gian và hiệu suất sử dụng oxy
là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực làm việc ưa khí và sức bền
ưa khí của cơ thể.
Lượng hấp thụ oxy tối đa hoặc lượng tiêu hao oxy tối đa (VO 2max) chỉ
lượng oxy hấp thụ trong một đơn vị thời gian (phút) khi công năng của tim
phổi và năng lực sử dụng oxy của cơ bắp đạt được trình độ cực hạn của con
người, phản ánh năng lực hấp thụ, vận chuyển và sử dụng oxy của cơ thể.
Tham khảo một số chỉ số về sức bền ưa khí của VĐV các môn thể thao đối
kháng trực tiếp qua nghiên cứu của Daxioriơxki V.M (1978) [22] ở bảng 1.1.