Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của QUÂN đội TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực PHỤC vụ CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.67 KB, 122 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA QUÂN
1

Trang
03

ĐỘI TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1. 1.
1. 2.

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Vai trò của quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ

11
11

26

1.3.

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
Những thành tựu và hạn chế trong phát huy vai trò
của quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay


Chương 2 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY

46

VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CƠNG NGHIỆP
2. 1.

HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Một số định hướng cơ bản nhằm phát huy vai trò của

57

quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng

2.2.

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai

57

trò của quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục
vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


88

86


PHỤ LỤC

93


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

CNH,HĐH

Đảng uỷ qn sự Trung ương


ĐUQSTW

Giáo dục, đào tạo
Hà Nội
Hệ thống nhà trường quân đội

GDĐT
H
HTNTQĐ

Nhà xuất bản

Nxb

Nguồn nhân lực

NNL

Quân đội nhân dân Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa

QĐNDVN
XHCN


3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực có vai trị quan trọng trong q trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là khi kinh tế tri thức đang dần chiếm vị thế và trở

thành xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới hiện nay thì NNL
trở thành nguồn lực chủ yếu giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển.
Trong sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước hiện nay, Đảng
ta xác định phát triển GDĐT con người Việt Nam là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, là “quốc sách hàng đầu” quyết định sự thành công của cách mạng
Việt Nam. Tuy nhiên, chất lượng GDĐT của chúng ta còn thấp với nhiều yếu
kém và bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Do vậy, phát
triển NNL là đòi hỏi bức thiết, khách quan để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh CNH,HĐH, là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất
nước.
Quân đội ta với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội
quân sản xuất, vừa phải làm tốt những chức năng trên vừa phải tham gia vào
quá trình CNH,HĐH đất nước. Với những tiềm năng về nhân lực, về khoa học
công nghệ và kinh nghiệm trong công tác đào tạo, quân đội là một trong
những nguồn lực của quốc gia khơng chỉ góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH,HĐH đất nước mà còn trực tiếp tham gia đào tạo, phát triển
NNL cho các mục tiêu kinh tế xã hội và quốc phòng, an ninh trong giai đoạn


4
hiện nay. Một trong những nội dung đó là tham gia đào tạo, phát triển NNL
phục vụ CNH,HĐH ở nước ta hiện nay. Thực tiễn trong thời gian qua
HTNTQĐ và các đơn vị trong tồn qn đã và đang có những đóng góp to lớn
trong sự nghiệp CNH,HĐH nói chung và phát triển NNL nói riêng.
Với mong muốn nghiên cứu một cách hệ thống nhằm làm rõ thêm cơ sở
lý luận và thực tiễn của vấn đề này, tác giả lựa chọn đề tài “Vai trò của quân
đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay” làm nội dung nghiên cứu của luận văn.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, vấn đề NNL và phát triển NNL trong quá trình CNH,HĐH đã

được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, cả trong và
ngồi qn đội. Có thể khái qt thành các nhóm nghiên cứu sau:
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học ngoài quân đội
- Con người và nguồn lực con người trong phát triển của Trung tâm
khoa học xã hội nhân văn quốc gia, H, 1995.
Cuốn sách đã tập hợp các bài viết, cơng trình nghiên cứu của nhiều tác
giả trên thế giới bàn về vấn đề con người theo các góc độ khác nhau; về động
cơ hoạt động của con người; mơ hình mới về sử dụng nguồn lực con người;
trí tuệ hố lao động và đào tạo chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách
việc làm, con người và mơi trường.


5
Phát huy nguồn lực con người để cơng nghiệp hố, hiện đại hoá của
Tiến sĩ Vũ Bá Thể, Nxb Lao động - xã hội, H, 2005.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước trên
thế giới và thực trạng NNL ở nước ta, tác giả đã đưa ra những quan điểm về
NNL và phát triển NNL; vai trò của NNL đối với tăng trưởng kinh tế và sự
nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra định hướng và những giải
pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
- Nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở
Việt Nam của Tiến sĩ Đồn Văn Khái, Nxb Lý luận Chính trị, H, 2005.
Tác giả đã trình bày một số vấn đề chung về CNH,HĐH trên thế
giới và Việt Nam; vai trò của nguồn lực con người trong quá trình
CNH,HĐH; thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trước yêu cầu CNH,HĐH; những giải pháp cơ bản nhằm khai thác
và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu
CNH,HĐH ở Việt Nam hiện nay.
- Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta
của Tiến sĩ Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, H, 1998.

Cuốn sách đã khái quát những kinh nghiệm về phát triển NNL của các nước
phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trình bày nội dung tổng quát
của phát triển NNL như chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống, việc làm… mà
tập trung vào lĩnh vực GDĐT - yếu tố quyết định phát triển NNL.


6
- Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn
nhân lực của Viện phát triển giáo dục, H, 2002.
Cuốn sách đã tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các
nhà quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và xã hội khác nhau với mục
tiêu thống nhất quan điểm, chính sách về phát triển NNL. Đồng thời, đề xuất
một khung chính sách phát triển NNL nhằm triển khai thành cơng các mục
tiêu đề ra trong chiến lược phát triển GDĐT.
- Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước của Tiến sĩ Nguyễn Thanh, Nxb CTQG, H, 2005.
Tác giả đã luận giải rõ: phát triển NNL là yếu tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp CNH,HĐH, đồng thời nêu lên một số thực trạng về phát
triển NNL có chất lượng, trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng chủ yếu
trong phát triển NNL cho CNH,HĐH ở nước ta hiện nay.
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế” của Tiến sĩ Phạm Công Nhất, Tạp chí Lý luận chính trị, số
3/2008.
Tác giả đã khái quát kết quả hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và hơn
một năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, đồng thời chỉ rõ thực trạng
phát triển NNL ở nước ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước.



7
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong quân đội
- “Tài nguyên chất xám, tài nguyên con người, nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước trong giai đoạn chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước” của Lê Khả Phiêu, Quốc phịng, an
ninh trong cơng cuộc đổi mới đất nước, Nxb QĐND, H, 1997.
Tác giả đã nhấn mạnh vai trò của GDĐT đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Theo tác giả, trong mọi điều kiện của nền kinh tế thì nguồn tài nguyên
con người, tài nguyên chất xám là nhân tố quyết định sự phát triển, đặc biệt
khi nguồn lực tài chính và vật chất ở nước ta hiện nay còn hạn hẹp.
- Quân đội nhân Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nền kinh tế đất
nước trong tình hình hiện nay của Vũ Thanh Chế, Luận án tiến sĩ, Học viện
Chính trị quân sự, 1998.
Trên cơ sở phân tích những thành tựu và tồn tại trong các nhóm hoạt
động cơ bản của quân đội - phản ánh thực trạng vai trò của quân đội đối với
sự nghiệp xây dựng nền kinh tế đất nước, tác giả đã đưa ra những phương
hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
quân đội đối với sự nghiệp xây dựng nền kinh tế đất nước.
- Xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ở nước ta hiện
nay và vai trò của quân đội trong q trình đó của Trần Xn Phương, Luận
án tiến sĩ, Học viện Chính trị quân sự, 2003.


8
Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, phát triển
các khu kinh tế - quốc phòng cũng như vai trò của quân đội trong xây dựng và phát
triển các khu kinh tế và quốc phịng ở nước ta hiện nay. Từ đó, đề xuất một số quan
điểm và giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phịng.
- Cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam và vai trò của quân đội
trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, của Nguyễn Minh
Khải, Luận án phó tiến sĩ, Học viện Chính trị quân sự, 1996.

Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về CNH,HĐH ở Việt
Nam, đồng thời làm rõ vai trò của quân đội trong sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước và những giải pháp chủ yếu để tiến hành CNH, HĐH cũng như sử dụng
nguồn lực quân đội trong q trình đó.
- “Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước với cơng cuộc củng
cố nền quốc phịng tồn dân, xây dựng Qn đội nhân dân” của Đồn Kh,
Xây dựng qn đội trong thời kỳ cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Nxb QĐND, H, 1997.
Tác giả nói về mục tiêu, quan điểm, tư tưởng cơ bản của CNH,HĐH mà
Đảng ta đã khẳng định. Đồng thời chỉ rõ: sự nghiệp CNH,HĐH đất nước theo
định hướng XHCN càng vĩ đại, thì trách nhiệm xây dựng, củng cố nền quốc
phịng tồn dân vững mạnh, xây dựng Qn đội nhân dân chính quy, hiện đại
càng là yêu cầu bức thiết.


9
- Tác động của đào tạo NNL trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đến củng cố quốc phịng ở nước ta hiện nay của Bùi Thúc Vịnh, Luận
văn cao học Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2000.
Tác giả đã làm rõ tính cấp thiết của đào tạo NNL cho CNH,HĐH và tác
động của nó đối với củng cố nền quốc phòng. Trên cơ sở đó, đề xuất các quan
điểm, giải pháp cơ bản để công tác đào tạo NNL vừa đáp ứng nhu cầu
CNH,HĐH vừa đáp ứng nhu cầu củng cố nền quốc phòng toàn dân.
- Phát triển thị trường sức lao động và tác động của nó đến đảm bảo
NNL cho QĐNDVN hiện nay của Trần Văn Ban, Luận văn cao học kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2006.
Tác giả đã phân tích sự phát triển của thị trường sức lao động trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN và tác động của nó đến đảm bảo NNL cho
QĐNDVN. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp thúc đẩy sự phát triển của
thị trường lao động gắn với bảo đảm NNL cho quân đội trong giai đoạn hiện nay.

- Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố ở thành phố Hải Phịng và tác động của nó đến tăng cường sức mạnh
khu vực phòng thủ thành phố của Phạm Tiến Điện, Luận văn cao học kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2000.
Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận về phát triển NNL, từ đó xem xét phát
triển NNL theo hướng CNH,HĐH ở thành phố Hải Phòng; làm rõ tác động
của phát triển NNL ở thành phố Hải Phòng đến việc xây dựng khu vực phòng


10
thủ thành phố. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển NNL ở thành phố Hải Phòng gắn với việc tăng cường sức
mạnh khu vực phòng thủ thành phố.
- “Nắm vững định hướng chiến lược và quan điểm giáo dục - đào tạo của
Đảng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội thực sự làm nòng cốt xây
dựng quân đội trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước” của Đoàn
Khuê, Xây dựng quân đội trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, Nxb Qn đội nhân dân, H, 1997.
Tác giả đã đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết 93 của ĐUQSTW về
tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chun mơn, kỹ thuật và
xây dựng nhà trường chính quy; trong đó, khẳng định những nội dung cơ bản
của Nghị quyết 93 đến nay vẫn phù hợp với những định hướng chiến lược phát
triển GDĐT trong thời kỳ CNH,HĐH. Tác giả phân tích rõ đối tượng đào tạo,
bồi dưỡng; về nội dung, phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng; về công tác tạo nguồn tuyển sinh và xây dựng nhà trường chính quy với
đội ngũ giáo viên tương xứng.
Từ thực tiễn trên cho thấy, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể về vai trò của quân đội trong phát triển NNL ở nước ta hiện
nay. Với lý do đó, tác giả lựa chọn “Vai trò của quân đội trong phát triển
nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay”

làm đề tài nghiên cứu.


11
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vai trò của quân đội trong phát
triển NNL cả về số lượng và chất lượng trên cả hai bình diện: thứ nhất, khai
thác có hiệu quả tiềm năng của quân đội trong phát triển NNL, một mặt đáp
ứng nhu cầu về NNL cho xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại; mặt khác, tham gia phát triển NNL cho CNH,HĐH đất
nước. Thứ hai, nâng cao khả năng đào tạo NNL của quân đội; đồng thời gắn
với việc huy động mọi nguồn lực của xã hội để tạo sự chuyển biến mạnh về
chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu quân sự, quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trị của qn
đội, trong đó chủ yếu là HTNTQĐ trong phát triển NNL gắn với quá trình
CNH,HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở tư duy mới của Đảng ta
về kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phịng và an ninh.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của quân đội trong phát
triển NNL phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, trên cơ sở đó đề xuất
một số định hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trị của qn đội trong
q trình này.
Nhiệm vụ:


12
- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của quân đội trong phát
triển NNL phục vụ CNH,HĐH.
- Phân tích vai trị của qn đội trong phát triển NNL phục vụ

CNH,HĐH.
- Đề xuất một số định hướng và những giải pháp để phát huy vai trò của
quân đội trong phát triển NNL phục vụ CNH,HĐH ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về vai trò của quân
đội trong phát triển kinh tế đất nước; về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế; về phát triển con người, phát triển NNL.
Kế thừa và phát triển kết quả của các nhà nghiên cứu liên quan đến vấn đề
mà đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu: dựa trên các phương pháp chung của
kinh tế chính trị mác-xít và một số phương pháp nghiên cứu đang được
vận dụng trong khoa học kinh tế và kinh tế quân sự.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần luận giải vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của quân đội
trong phát triển NNL.
- Đề tài góp phần làm rõ hơn về thực trạng và giải pháp về vai trò của
quân đội trong phát triển NNL.


13
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học
tập, giảng dạy một số nội dung liên quan đến phát triển NNL và vai trò của
quân đội trong phát triển NNL.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.


14

Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ CƠNG NGHIỆP HỐ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội, vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm nghiên
cứu NNL. Tuy mỗi quốc gia có khái niệm khác nhau về NNL nhưng nhìn
chung NNL được xem xét dưới các góc độ như số lượng, chất lượng và cơ
cấu.
Theo Từ điển thuật ngữ của Pháp (1977-1985), NNL xã hội bao gồm
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có
việc làm. Theo quan điểm này, những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động nhưng khơng muốn có việc làm thì khơng phải là NNL xã hội.
Trong khi đó, ở Úc NNL bao gồm tồn bộ những người bước vào tuổi lao
động, có khả năng lao động. Như vậy, quan niệm này không giới hạn cuối về
tuổi lao động và có hay khơng có mong muốn có việc làm của những người
tuy đã bước vào tuổi lao động, có khả năng lao động.
Theo Lưu Tĩnh Nỗn: “Nguồn nhân lực là nhân khẩu có năng lực lao
động tất yếu, thích ứng được với nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội. Nghĩa
rộng của tài nguyên nhân lực là chỉ tổng nhân khẩu xã hội. Tài nguyên nhân


15
lực là tiền đề vật chất của tái sản xuất xã hội. Đặc điểm chủ yếu: tài nguyên
nhân lực là động lực và chủ thể phát triển trong tái sản xuất xã hội, có tính
năng động. Tài ngun nhân lực có chu kỳ sống, nếu khơng lợi dụng hợp lí,
có thể hạ thấp, thậm chí mất đi, do vậy nó có tính thời điểm. Tài ngun
nhân lực chịu sự khống chế của phương thức sản xuất xã hội, nên có tính xã

hội. Phát triển hợp lí, quản lí và lợi dụng tài nguyên nhân lực đối với tăng
trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng. Do đó phải khống chế trong phạm vi
hợp lí tốc độ tăng trưởng dân số, phát triển sự nghiệp giáo dục nâng cao
phẩm chất của người dân, kết hợp tái sản xuất tư liệu vật chất và tái sản xuất
nhân khẩu, làm cho tài nguyên nhân lực và phát triển kinh tế thích ứng với
nhau thúc đẩy nền kinh tế phát triển” [8, tr.1064].
Ở Việt Nam, vấn đề NNL và phát triển NNL đã được nhiều tác giả nghiên
cứu, đặc biệt từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay. Theo tiến sĩ Nguyễn
Thanh, “Nguồn nhân lực, nguồn lực con người là tổng thể các chỉ số phát triển
con người mà con người có được nhờ sự trợ giúp của cộng đồng xã hội và sự
nỗ lực của bản thân, là tổng thể số lượng dân và chất lượng con người, là tổng
thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lí tưởng,
chất lượng văn hố, năng lực chun mơn và tính năng động trong cơng việc
mà bản thân con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động sáng
tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội” [47, tr.75]. Ngồi ra cịn nhiều tác giả


16
khác đã đề cập đến vấn đề NNL như tiến sĩ Phạm Văn Đức, tiến sĩ Đoàn Văn
Khái…
Từ những vấn đề trên, xác định NNL hay nguồn lực con người cần phải
được hiểu như thế nào? Theo Từ điển tiếng Việt: Nguồn là “Nơi bắt đầu cửa
sông, suối. Nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp” [54, tr.692];
Nhân lực là “Sức người, về mặt dùng trong lao động sản xuất” [54, tr.710].
Trong đó, sức người dùng trong lao động sản xuất hay sức lao động được C.
Mác chỉ rõ: “sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào
đó” [38, tr.251]. Từ góc độ kinh tế chính trị học, nhân lực là lực lượng và năng
lực những người lao động sản xuất được bao gồm cả thể lực và trí lực; là năng

lực lao động tồn tại trong cơ thể con người, do con người đảm nhận.
Do vậy, NNL là nơi bắt đầu, nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lao động
được dùng trong lao động sản xuất. Từ đó, có thể hiểu, NNL theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp, NNL “Là nhân khẩu có năng lực lao động tất yếu,
thích ứng được với nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội” [8, tr.1064]; mà nhân
khẩu là “người trong một gia đình, một địa phương” [54, tr.710]. Tiến sĩ kinh
tế Trần Thị Tuyết Mai đưa ra khái niệm NNL (theo nghĩa hẹp và có thể lượng
hoá được): “Nguồn nhân lực là bộ phận của dân số bao gồm những người trong
độ tuổi quy định, có khả năng lao động” [41, tr.17]. Nghĩa rộng, NNL được


17
hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân, những con người cụ thể tham gia vào quá
trình lao động, gồm tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động
vào quá trình lao động. Tiến sĩ Hà Quý Tình cho rằng: “Nguồn nhân lực là toàn
bộ sức lao động của những người trong độ tuổi lao động có khả năng huy động
trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội” [50, tr.6].
Xuất phát từ đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, đạo đức,
truyền thống cũng như tính chất và đặc điểm của việc tổ chức và xây dựng
nền quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, thì những
người ở ngồi độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc họ vẫn tham gia hoạt
động trong những lĩnh vực mà họ có khả năng; mặt khác, trong điều kiện
chiến tranh, bộ phận dân cư được huy động vào quá trình sản xuất của xã
hội hoặc các hoạt động phục vụ chiến tranh có thể ngồi cả lứa tuổi lao
động theo luật pháp hiện hành.
Từ những vấn đề trên, tác giả cho rằng: NNL là một nguồn lực đặc biệt
của xã hội bao gồm bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động và có nhu cầu lao động.
Nghiên cứu NNL, cần phải nghiên cứu cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng của

NNL. Các chỉ tiêu về số lượng có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng dân số: quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy
mơ và tốc độ tăng NNL càng lớn và ngược lại. Mối quan hệ này chỉ được thể


18
hiện sau một thời gian nhất định (khoảng 15 năm khi con người bước vào độ
tuổi lao động theo luật định của từng quốc gia).
Chất lượng NNL là tình trạng sức khoẻ, văn hoá, đạo đức tư tưởng, kỹ
năng lao động của người có năng lực lao động. Một số chỉ tiêu thường dùng để
đánh giá chất lượng NNL như: sức khoẻ, thống kê bệnh tật, tỷ lệ bệnh tật; trình
độ học vấn; trình độ chun mơn kỹ thuật, kỹ năng lao động; cơ cấu NNL; tỷ lệ
phạm tội của một nước. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng NNL:
thể chất, di truyền trí tuệ; tình hình phát triển sự nghiệp giáo dục; mức sống và
tình trạng dinh dưỡng; đời sống tinh thần, văn hố và hồn cảnh kinh tế - xã hội.
Chất lượng NNL là một bộ phận cấu thành quan trọng của tình hình quốc gia,
đóng vai trị to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, là điểm xuất phát và chỗ
dựa của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển NNL là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng và
cơ cấu hợp lý của NNL biểu hiện ở sự hình thành và hồn thiện từng bước về
thể lực, kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ và nhân cách nghề nghiệp đáp
ứng những nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển xã hội.
Theo Đại từ điển kinh tế thị trường “Để tận dụng đầy đủ sức lao động, phải
thông qua giáo dục và bồi dưỡng, xúc tiến việc làm, mở mang hoạt động và
chính sách quản lý nhân sự, sử dụng sức lao động” [8, tr.1064].


19
Như vậy, phát triển NNL là hướng tới việc đào tạo và đào tạo lại NNL

nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng cho công việc đang làm hoặc công việc
mới, làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm
chất đáp ứng được yêu cầu sử dụng lao động của các ngành, lĩnh vực trong nền
kinh tế. Để thực hiện điều đó phải tiến hành bằng một số nội dung: “1) Mở
rộng bồi dưỡng huấn luyện và chỉ đạo việc làm, một mặt, thông tin ra xã hội về
nhu cầu sức lao động; mặt khác, tại các loại trường lớp bồi dưỡng việc làm, chỉ
đạo việc lựa chọn nghề như thế nào cho chính xác; 2) Đặt ra việc xúc tiến các
biện pháp điều chỉnh cơ cấu các sản nghiệp về việc làm, cổ vũ người lao động
có việc làm; 3) Hồn thiện việc bảo hiểm thất nghiệp và tiến hành bồi dưỡng
huấn luyện chuyên nghiệp, xúc tiến tái nhận việc; 4) Triển khai huấn luyện tại
chức khiến cho người lao động giỏi một nghề, thạo nhiều nghề; 5) Cần thông
qua giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, xúc tiến việc làm; 6) Đặt ra
chính sách lao động đặc thù đối với những vùng kinh tế lạc hậu và nông thôn;
7) Dự đốn sự biến đổi các hình thức việc làm trong tương lai và tình trạng
cung, cầu sức lao động trong tương lai. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên
truyền trong nhân dân để những người tìm việc có hành vi, thái độ chọn việc
đúng đắn. Tiến hành mở mang, phát triển nguồn nhân lực, nên đặc biệt coi
trọng phát triển năng lực có tổ chức, đề cao hiệu suất cơng tác của họ. Đồng
thời, sử dụng thoả đáng những nhân viên có kỹ năng đạt mức người tài làm hết


20
sức mình, tiến hành kiểm tra các hoạt động đã được triển khai, đánh giá xem
xét có đạt được mục tiêu dự kiến của từng thời kỳ hay không” [8, tr.1064].
Đối với Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó thể hiện được
bản chất và tính ưu việt của chế độ XHCN. Mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng
cao năng lực hoạt động của con người; tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội
lựa chọn, tiếp cận việc giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, chỗ ở tiện
nghi hơn và việc làm đúng người, đúng việc, đúng khả năng hơn.
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), đưa ra năm yếu tố

của sự phát triển NNL gồm: GDĐT; sức khoẻ và dinh dưỡng; mơi trường;
việc làm và sự giải phóng con người, trong đó, GDĐT là cơ sở của tất cả các
yếu tố khác, là yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Trong “Báo cáo phát
triển con người 1990” của Ngân hàng Thế giới, vấn đề nguồn lực con người
đã được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển và khái niệm này được dựa
trên cách tiếp cận về mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và phát triển. Theo
tư tưởng này, phát triển con người là một quá trình mở rộng sự lựa chọn của
con người. Về nguyên lý, những lựa chọn này có thể xác định và thay đổi theo
thời gian, ở những mức độ phát triển khác nhau, điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau, không gian khác nhau. Tuy nhiên, phát triển con người về cơ bản gồm
ba khía cạnh: thể chất, trí tuệ và tinh thần trong mối quan hệ với các yếu tố tự
nhiên - xã hội của con người. Trong đó, về thể chất gồm: sức khoẻ, dinh
dưỡng, dân số, nguồn nước sạch, mơi trường, hệ thống an tồn xã hội… Về trí


21
tuệ gồm: giáo dục, đào tạo, trình độ biết chữ, kỹ năng lao động, khả năng
thích ứng linh hoạt trong nền sản xuất công nghệ cao… Về tinh thần gồm:
quyền con người, bình đẳng giới, phát triển cộng đồng, tạo quyền, giải pháp
cho các xung đột, tự do tín ngưỡng… Trong mối quan hệ này, GDĐT có tác
động trực tiếp tới phát triển trí tuệ của con người cũng như phát triển thể chất,
tinh thần của con người. Trong cấu trúc phát triển NNL, vai trò của giáo dục
ngày càng trở nên quan trọng trong nền sản xuất hiện đại. Sản xuất càng phát
triển thì phần đóng góp của trí tuệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với đóng
góp của các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động.
Ngày nay, vai trò NNL đã trở thành yếu tố năng động nhất trong việc
phát huy các nguồn lực khác. Để phát triển NNL có hiệu quả, cần phải đặt
nhân tố này trong hệ thống quản lý NNL quốc gia. Quản lý NNL quốc gia bao
gồm: Phát triển NNL (đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, tự học và nghiên cứu);
Sử dụng NNL (tuyển dụng, sàng lọc, bố trí, đánh giá, đãi ngộ, kế hoạch hố

sức lao động); Môi trường NNL (mở rộng chủng loại việc làm, mở rộng quy
mô việc làm, phát triển tổ chức tạo việc làm). Trong đó, phát triển NNL có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống quản lý NNL quốc gia, là cơ sở để
phát huy có hiệu quả các nguồn lực khác. Đảng ta khẳng định: “Muốn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh
và bền vững” [15, tr.19].


22
Đại hội IX, Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm trên, đặc
biệt trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức, tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra
và tiềm năng, lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình CNH,HĐH đất nước
theo định hướng XHCN. Trong đó, vấn đề NNL, NNL chất lượng cao càng
đặt ra yêu cầu bức thiết cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về NNL, phát triển NNL đã trình bày
trên đây, xuất phát từ yêu cầu về NNL của quá trình CNH,HĐH ở nước ta
hiện nay có thể đưa ra khái niệm về phát triển NNL như sau:
Phát triển NNL là tổng thể các cơ chế, chính sách và biện pháp nhằm
hồn thiện và nâng cao chất lượng NNL với cơ cấu và số lượng hợp lý, chất
lượng cao đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.
Nghiên cứu vấn đề NNL và phát triển NNL để đưa ra khái niệm trên,
không chỉ đơn thuần là tìm hiểu nội hàm của khái niệm, mà đó cịn là cơ sở
quan trọng để đưa ra đường lối, chính sách, chủ trương, cơ chế đúng trong
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển NNL. Đây còn là cơ sở định hướng cho
việc nuôi dưỡng, khơi dậy và phát huy tốt tiềm năng con người, nhờ đó mà
khai thác có hiệu quả các nguồn lực khác phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước trong thời gian tới.



23
1.1.3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ khi đổi mới đất
nước đến nay (1986 - 2008)
Thực trạng phát triển NNL ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước đến nay,
bước đầu có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, về cơ chế, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
chất lượng NNL.
Từ khi đất nước tiến hành đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước và các cơ
quan chức năng luôn quan tâm đến những vấn đề về cơ chế, chính sách và biện
pháp để không ngừng nâng cao số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý trong phát
triển NNL phục vụ CNH,HĐH đất nước.
Về cơ chế, nhà nước có vai trị quan trọng đối với việc phát triển NNL đất
nước, vai trò ấy được biểu hiện thông qua nội dung và công cụ, cơ chế tác động
đến NNL nhằm tạo ra số lượng, chất lượng NNL đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu sử dụng lao động của xã hội.
Trong thời gian qua, nhà nước và các cơ quan chức năng đã xây dựng được
một cơ chế tương đối hoàn chỉnh nhằm gắn kết, phát huy vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức, cá nhân trong tham gia phát triển NNL. Xây dựng cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan có liên quan từ Trung ương tới địa phương trong phát triển
NNL. Thực hiện sự phân cấp quản lý nhằm tăng cường quyền chủ động, sáng
tạo và trách nhiệm cho từng cấp, từng cơ sở quản lý, đồng thời giúp các địa
phương chủ động tạo nguồn lực để phát triển NNL, đáp ứng nhu cầu phát triển


24
của các ngành, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng NNL của ngành và của từng địa
phương.
Tuy nhiên, trước sự biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội, hệ
thống cơ chế của chúng ta cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, chưa thực sự đồng

bộ, chưa phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong tham gia phát
triển NNL phục vụ CNH,HĐH; chưa liên kết được các khâu, các cấp của quá
trình đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng NNL được đào tạo; cơ chế phát triển và sử
dụng NNL cịn nhiều bất cập hạn chế, gây lãng phí lớn cho cả nhà nước và cá
nhân.
Về chính sách, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề GDĐT.
Đặc biệt, từ khi đổi mới mới đến nay, trước yêu cầu phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản, pháp luật về GDĐT như:
Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển
GDĐT; Chỉ thị 50 - CT/TW của Bộ Chính trị khố VIII về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với hội khuyến học Việt Nam; Nghị quyết Trung ương sáu
khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII; Nghị quyết
Trung ương bảy khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH; Luật Giáo dục; chiến lược phát triển GDĐT đến năm 2010 - 2020
và nhiều văn bản pháp quy khác. Hệ thống chính sách này đã bao hàm những
lĩnh vực như: GDĐT; chăm sóc sức khoẻ; văn hố; dân số; chính sách khoa học
cơng nghệ; chính sách tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đề bạt cán bộ; chính sách


×