Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực hiện mối quan hệ đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở tỉnh nam định hiện nay TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.04 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ĐÌNH TRUNG

THỰC HIỆN MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO,
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ”
Ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Chuyên ngành:

CNDVBC và CNDVLS

Mã số:

62.22.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2015
1


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS ĐẶNG HỮU TOÀN

PGS.TS. Nguyễn Viết Thông


TS. Nguyễn Đức Tài
PGS.TS. Ngô Đình Xây

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Học viện chấm luận án tiến sĩ họp tại
Học viện khoa học xã hội vào hồi ……giờ……….ngày…….tháng……năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện quốc gia, Trung tâm Thông tin –
Thư viện, Học viện khoa học xã hội
2


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là cơ chế hoạt động của hệ
thống chính trị, thể hiện tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn để hoàn thiện nhận thức và tổ chức thực hiện mối quan hệ này, coi đây là
nhân tố quyết định đến nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, quá trình thực
hiện cũng cho thấy, từ nhận thức lý luận đến triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế,
bất cập. Điều đó, trở thành nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém về năng lực lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đặc biệt là tình trạng mất dân chủ, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn.
Nam Định là tỉnh nằm ở khu vực nam đồng bằng sông Hồng. Trong những năm
qua, việc thực hiện nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ” đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần quan trọng vào thành
công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những tồn tại, hạn chế như: tiềm năng kinh tế chưa khai
thác và sử dụng có hiệu quả; tình trạng tham nhũng, lãng phí trong quản lý nhà nước,
sai phạm của cán bộ, công chức ở các cấp chậm được khắc phục; quyền làm chủ của

nhân dân bị vi phạm ở nhiều nơi, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, quản lý của
cấp ủy đảng và chính quyền các cấp đang đứng trước những thách thức lớn. Những tồn
tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc thực hiện chưa nghiêm túc và
có hiệu quả mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Xuất phát từ những nhận thức trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề Thực hiện
mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam
Định hiện nay” làm đề tài cho luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam; thực trạng thực hiện mối quan hệ này ở
Nam Định từ 1997 đến nay; luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” ở tỉnh Nam Định hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Hai là, phân tích, làm rõ các khái niệm, nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam.
Ba là, đánh giá khách quan thực trạng thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến nay.
3


Bốn là, đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trên địa bàn tỉnh Nam Định (gồm 9 huyện và 01
thành phố với 229 xã, phường, thị trấn).
Về thời gian: Luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tại tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các chính sách, pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ.
Luận án tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố
liên quan đến đề tài luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh và một số phương pháp liên ngành.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn một số nội dung của mối quan hệ “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; xác định vị trí, vai trò, chức năng của mỗi
chủ thể trong mối quan hệ.
- Luận án phân tích, đánh giá chỉ ra những thành tựu, hạn chế; nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định từ 1997 đến nay.
- Luận án đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” ở tỉnh Nam Định trong những năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong quá
trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
4


Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo
của cấp ủy; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định hiện nay.
Kết quả luận án làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng
dạy những chuyên đề liên quan đến mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ tại trường chính trị Trường Chinh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Một số công trình liên quan tới lý luận chung về mối quan hệ “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
Một số công trình tiêu biểu gấn đây như: Đặng Hữu Toàn (2002), Chủ nghĩa
Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đặng
Hữu Toàn và Nguyễn Đình Hòa (2015) “Quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội
với tư cách “biện chứng của lịch sử sinh động” trong quan niệm của V.I.Lênin”, Tạp
chí Triết học, (4); Nguyễn Đức Thắng (2012), “V.I. Lênin với vấn đề xây dựng Đảng
cầm quyền trong sạch, vững mạnh”, Tạp chí Cộng sản, (834); Vũ Hùng (2005), Dân
và mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Luận án tiến sĩ, Thư viện Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt

trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Hoàng Chí Bảo (2015), “Thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học” (5); Phạm Văn
Đức (chủ biên) (2015), Thực hành dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội; Đặng Đình Tân – Đặng Minh Tuấn (2012), Thể chế Đảng cầm quyền một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Huyên
(chủ biên), Ngô Huy Đức, Tống Đức Thảo, Lê Thị Thu Mai (2012), Chính trị học
những vấn đề lý luận và thức tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Ngọc Đường
(chủ biên) (2011), Một số vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội…
Ở các mức độ khác nhau, các công trình đã phân tích khái niệm, nội dung mối quan
hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam. Những kết quả nghiên
cứu trên là tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả khi triển khai nội dung luận án.
1.1.2. Một số công trình đề cập đến thực trạng thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng
5


Một số công trình tiêu biểu nghiên cứu thực trạng thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam như: Nguyễn Viết Thông, “Giải quyết tốt
hơn mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; Nguyễn Thế
Kiệt (2006), “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6); Phạm Ngọc
Quang (2007), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, một trọng
điểm trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (2);
Nguyễn Trọng Thóc (2005), “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết
học, (6); Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Lưu Văn Quảng, Phạm Đức Thắng, Tống

Đức Thảo (2007), Chính trị học những vấn đề lý luận và thức tiễn (2007 – 2012), Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội; Trương Thị Thông (2010), “Giải Quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Báo Nhân dân (ngày 05
tháng10)…
Về thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời gian vừa qua, có một số công trình tiêu
biểu như: Trần Văn Trọng (2014), “HĐND Thành phố Nam Định nâng cao chất lượng
tiếp xúc cử tri”, số 2993, ngày 20/5/2014; “Mô hình tủ sách nhà văn hóa thôn, xóm ở
Hải Hậu”, báo Nam Định, số 3203; Văn Huỳnh (2014), “Mặt trận Tổ quốc các cấp
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh”, Báo Nam Định, số 3088…
Các công trình trên đã phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra về thực hiện mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam nói chung và tỉnh Nam Định
nói riêng. Kết quả nghiên cứu của các công trình là cơ sở khoa học quan trọng để tác giả luận án
tham khảo, kế thừa trong nghiên cứu thực trạng thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ ở Nam Định hiện nay.
1.1.3. Một số công trình liên quan tới việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam nói
chung và Nam Định nói riêng
Một số công trình tiêu biểu gần đây như: Mạch Quang Thắng (2014), “Đảng
trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị (6/2014); Đinh Xuân Thảo, (2012),
“Tiếp tục hoàn thiện quy định bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
với Nhà nước và xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2012; Hoàng Ngọc Hòa
(2002), “Những điều kiện đảm bảo giữ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(1); Bùi Đình Bôn (2010), “Một số quan điểm cần nắm vững trong đổi mới quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, Tạp chí triết học (3);
Đặng Hữu Toàn (2014), “Năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thực hiện định hướng chính trị thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Triết học, số
2; Vũ Lân (2013), “Để quần chúng nhân dân tham gia tốt hơn vào công tác xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền”, Tạp chí Cộng sản, (845); Trần Ngọc Ánh (2012),

“Chỉnh đốn, đổi mới Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và trên tinh thần nghị quyết
6


trung ương 4 khóa XI”, Tạp chí triết học, (11); Phương Mai, “Phải coi trọng khâu lấy
ý kiến của người dân”, Báo Nam Định, số 6, ngày 2 -1- 2015; Trần Văn Trọng (2015),
“Tiếp tục triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, (3230)...
Các tác giả đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp như: luật hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng; quy định cụ thể trách nhiệm và chịu trách nhiệm của cấp ủy về sự lãnh đạo; xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng hình
thức dân chủ trực tiếp, tiếp xúc cử tri, đối thoại trực tiếp, trưng cầu dân ý… Những quan điểm
trên có giá trị quan trọng đối với tác giả khi nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Nam Định
hiện nay.
1.2. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố và nội dung luận án
tiếp tục nghiên cứu
1.2.1. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài
luận án
Một là, các công trình, bài viết của các tác giả nêu trên đã đóng góp quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn, luận giải những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay. Nhiều công trình
đã đi sâu phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về thực hiện mối quan hệ này.
Đây là cơ sở khoa học rất quan trọng giúp tác giả xây dựng cơ sở nghiên cứu khi tiến
hành luận án.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã phân tích thực trạng thực hiện mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; chỉ ra những thành tựu, hạn chế
trong thực hiện mối quan hệ này ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, một số công
trình đã đi sâu phân tích những nguyên nhân cơ bản (cả chủ quan và khách quan) của
những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong thực hiện mối quan hệ này. Một số công trình

cũng đã bước đầu nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện mối quan hệ này trên địa
bàn tỉnh Nam Định. Việc phân tích những thành tựu, hạn chế chỉ ra các nguyên nhân là
cơ sở khoa học để có thể đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dâm làm chủ trong thời gian sắp đến.
Ba là, một số công trình đã đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
từng chủ thể trong mối quan hệ, có giải pháp cho tổng thể mối quan hệ; nhiều giải
pháp được đưa ra có tính khả thi cao; một số giải pháp có tính mới mẻ, vừa giữ vững
được ổn định chính trị vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả của thực hiện mối quan hệ.
Tuy nhiên, trong các công trình kể trên, chưa có tác giả, công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ triết học về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đây là nội dung
mà tác giả sẽ triển khai khi thực hiện đề tài luận án.
7


1.2.2. Những nội dung luận án nghiên cứu làm sáng tỏ
Một là, hệ thống hóa cơ sở lý luận mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, từ sự phân tích số liệu thực tế, luận án chỉ ra những thành tựu và hạn chế
trong thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trên
địa bàn tỉnh Nam Định kể từ khi tái lập (1997) đến nay.
Ba là, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trên địa bàn tỉnh Nam
định giai đoạn hiện nay.
Chương 2
MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ,
NHÂN DÂN LÀM CHỦ” Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Các chủ thể chính trị trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm những bộ phận cơ bản sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập,
hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau cùng tác động vào các quá trình
phát triển kinh tế- xã hội nhằm mục tiêu cao nhất là bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh
đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là trụ cột trong hệ thống chính trị, công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân
dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
Mục tiêu chủ yếu của hệ thống chính trị nước ta là xây dựng, hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Hoạt động
của hệ thống chính trị đều hướng tới mục đích là bảo đảm các điều kiện để nhân dân
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ.
2.2. Khái niệm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ
2.1.1. Khái niệm Đảng lãnh đạo
Lãnh đạo là khái niệm được tiếp cận theo nhiều góc độ và lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau, trong đề tài này, Đảng lãnh đạo là khái niệm dùng để chỉ vị trí, vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xã hội và hệ thống chính trị từ khi ra đời và
suốt tiến trình cách mạng.
Nội dung lãnh đạo của Đảng tập trung vào những công việc: (1) Đảng đề ra
cương lĩnh chính trị, chiến lược phát triển, đường lối và chính sách lớn trên tất cả các
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại. (2) Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và công tác cán bộ có đủ năng lực thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý xã hội,
8



đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. (3) Đảng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
đối với Nhà nước và các tổ chức trong HTCT việc tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong đó, việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính
trị, các nghị quyết là nội dung quan trọng hàng đầu thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chất lượng của Cương lĩnh, Nghị quyết là yếu tố quyết định đến năng lực lãnh đạo của
Đảng.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng sử dụng các phương thức chủ yếu
sau: (1) Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, chủ trương, đường lối. Phương
thức này làm cho hệ tư tưởng, đường lối, nghị quyết của Đảng được hiện thực hóa
trong thực tế xã hội thông qua việc cụ thể hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch
của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. (2) Đảng lãnh đạo bằng giáo dục,
thuyết phục, bằng tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên và các tổ chức đảng. (3)
Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ. (4) Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm
tra, giám sát.
2.1.2. Khái niệm Nhà nước quản lý
Nhà nước quản lý là khái niệm phản ánh vị trí, vai trò của Nhà nước trong quan hệ
với các chủ thể chính trị trong xã hội, trước hết là trong hệ thống chính trị. Nội dung quản
lý của nhà nước tập trung ở giải quyết công việc cụ thể nhằm bảo đảm sự ổn định và phát
triển của xã hội.
Vai trò quản lý của Nhà nước được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: (1) Nhà
nước là chủ thể duy nhất có chức năng xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật (thực
hiện quyền lập pháp), đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội. (2) Tổ chức thực hiện nghiêm
túc Hiến pháp và pháp luật nhằm duy trì và thúc đẩy tự do, dân chủ trong xã hội, bảo
đảm an ninh của mỗi người dân và quốc gia (thực hiện quyền hành pháp). Thực hiện
các chức năng quản lý đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội. (3) Bảo đảm trật tự, kỷ
cương và duy trì công lý (thực hiện quyền tư pháp). (4) Bảo đảm ổn định an ninh và
chủ quyền quốc gia.
2.1.3. Khái niệm Nhân dân làm chủ
Nhân dân làm chủ là khái niệm khẳng định vai trò làm chủ của chủ thể rộng lớn trong
xã hội đó là Nhân dân đối với xã hội và các chủ thể chính trị khác, trong đó có Đảng Cộng

sản Việt Nam và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung làm chủ của Nhân dân được thể hiện: (1) Nhân dân chủ động nhận thức
và sử dụng quyền làm chủ để tham gia vào xây dựng Nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. (2) Nhân dân tích cực thực hiện các quyền làm chủ tham gia
vào quá trình lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. (3) Nhân dân có trách nhiệm tìm
hiểu, nắm bắt và tự giác thực hiện sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và chủ động
tổ chức phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện vai trò làm chủ, nhân dân sử dụng hai phương thức đó là làm chủ
trực tiếp và làm chủ gián tiếp.
2.1.3. Khái niệm mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ”
9


Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, mối quan hệ là khái niệm dùng để
chỉ sự quy định, tác động qua lại và chuyển hòa cho nhau trong quá trình vận động,
phát triển giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là khái
niệm dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại giữa đội tiên phong lãnh đạo, nhà
nước quản lý và đông đảo nhân dân trong cách mạng giành độc lập dân tộc, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, hình thành cơ chế vận hành của thể chế chinh trị ở Việt Nam.
Thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
là hoạt động có mục đích của các chủ thể chính trị trong việc nhận thức tổ chức thực
hiện chức năng, nhiệm vụ và xác định cơ chế tác động qua lại trên cơ sở vị trí, vai trò
đã được xác định trong qua trình hoạt động nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.3. Nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ” ở Việt Nam
2.3.1. “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là thể thống
nhất phản ánh bản chất, cơ chế thực thi, vận hành quyền lực chính trị của hệ thống

chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Một là, HTCT ở Việt Nam là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với
quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân
giao phó và ủy quyền.
Hai là, mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là
một thể thống nhất bắt nguồn từ các cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng có tính
khách quan.
2.3.2. Thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ”
2.3.2.1. Đảng lãnh đạo nhà nước, thông qua hoạt động quản lý của Nhà nước
để thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Đồng thời, mở rộng dân chủ để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ tham gia vào trong quá trình lãnh đạo của Đảng.
Thứ nhất, Đảng xây dựng những định hướng chính trị cho sự phát triển đất
nước thông qua Cương lĩnh, Nghị quyết; lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa những định
hướng của Đảng trong thực tiễn để bảo đảm lợi ích và quyền làm chủ của Nhân dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội thể hiện trước hết ở việc Đảng đề ra đường
lối, chủ trương phát triển đất nước được thể hiện ở Cương lĩnh và các Nghị quyết
nhằm tạo ra khuôn khổ chính trị cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành
đất nước đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Đồng thời, phải phân rõ nội dung lãnh đạo của
Đảng với nội dung quản lý của nhà nước. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tập trung một số nhiệm vụ: Đảng xây
dựng và quyết định những vấn đề có tính chiến lược, đường lối, chủ trương về xây
dựng Nhà nước; các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Nhà nước; xác định
nhiệm vụ các cơ quan nhà nước; thực hiện lãnh đạo toàn diện đối với công tác cán bộ
và quản lý cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng, khả năng triển khai
những định hướng của Đảng trong thực tiễn; Đảng thực hiện đôn đốc, kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước trong thực hiện những định hướng chính trị của
Đảng đề ra. Đảng lãnh đạo Nhà nước những không làm thay, lấn sân sang công việc

10


thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước. Do đó, thực hiện hiệu quả mối quan hệ với
Nhà nước quản lý đòi hỏi Đảng, cấp ủy phai xác định cụ thể công việc, nội dung lãnh đạo.
Khắc phục tình trạng lấn sân, làm thay hoăc buông lỏng sự lãnh đạo đối với nhà nước.
Thứ ba, Đảng mở rộng dân chủ trong quá trình lãnh đạo, tôn trọng và bảo đảm
để nhân dân thực hiện quyền làm chủ đối với quá trình lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy.
Vai trò lãnh đạo của Đảng là do nhân dân ủy quyền mới có được, Đảng lãnh đạo thực
chất là để bảo đảm và phát huy quyền làm chủ, phục vụ nhân dân. Do vậy, trong lãnh
đạo, các cấp ủy đảng phải không ngừng mở rộng dân chủ để nhân dân thực hiện có
hiệu quả các quyền làm chủ của mình, tham gia nhiều, thực chất hơn vào quá trình
lãnh đạo của cấp ủy và công tác xây dựng Đảng.
2.3.2.2. Nhà nước phát huy tính chủ động, không ngững nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong hoạt động quản lý.
Thứ nhất, mọi hoạt động quản lý của Nhà nước phải bảo đảm sự lãnh đạo Đảng
Đồng thời, trong quan hệ với Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý có nhiệm vụ cụ thể
hóa những định hướng chính trị của Đảng thành văn bản hành chính nhà nước và tổ
chức thực hiện nghiêm túc trong đời sống xã hội. Đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm
quản lý của nhà nước hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân và xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, nhà nước phải không ngững hoàn thiện và nâng cao chất lượng xây
dựng hệ thống pháp luật; hiệu quả thực hiện các chức năng quản lý; đẩy mạnh cải cách
bộ máy nhà nước nâng cao tính phục vụ nhân dân. Với vai trò là chủ thể quản lý, Nhà
nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật, chính sách để thực hiện chức
năng của mình. pháp luật của nhà nước là công cụ để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ trong xã hội. Do đó, pháp luật của Nhà nước mang bản chất nhân dân, xuất phát và
phản ánh lợi ích của nhân dân.
Đồng thời, với vai trò làm chủ, Nhà nước phải chủ đông và không ngững nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước tạo lập môi trường để nhân dân thực hiện lợi
ích và tổ chức phát triển kinh tế -xã hội, ổn định đời sống.
Thứ ba, nhà nước phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối
với hoạt động quản lý. Không ngững mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp và gián
tiếp của nhân dân, để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và xây dựng chính
quyền các cấp. Chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tiếp xúc cử tri, đối thoại trực
tiếp với nhân dân, thăm dò dư luận xã hội, tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến…,
chât lượng công tác tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân là tiêu
chí quan trọng đánh giá hiệu quả thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với
Nhân dân làm chủ.
2.3.2.3. Nhân dân chủ động phát huy vai trò làm chủ đối với quá trình

lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là đối với cấp ủy, chính quyền
địa phương thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp.
Thứ nhất, nhân dân chủ động, tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng và nhà nước
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện hình thức dân chủ để nhân dân tham
gia đóng góp ý kiến vào quá trình lãnh đạo, quản lý. Với vai trò làm chủ trong quan hệ
với Đảng và nhà nước, nhân dân chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu, đóng góp ý
kiến, đề xuất nguyện vọng, kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước trong quá trình xây
dựng chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật.
11


Thứ hai, nhân dân phát huy vai trò làm chủ đối với sự lãnh đạo của Đảng, nhà
nước thông qua việc thực hiện có hiệu quả các quyền làm chủ. Với vai trò làm chủ
trong quan hệ với Đảng và nhà nước, nhân dân chủ động tìm hiểu và thực hiện các
quyền làm chủ; tham gia có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, chính quyền. Nhận thức
đầy đủ và thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử để lựa chọn cán bộ, đảng viên có đủ
phẩm chất, năng lực giữ các chức vụ trong các cơ quan nhà nước. Sử dụng hiện quả

các hình thức dân chủ trực tiếp như tiếp xúc cử trị; tham gia đối thoại trực tiếp với
chính quyền; phản biện xã hội thông qua Măt trận tổ quốc và các đoàn thể; quyền kiểm
tra, giám sát, quyền khiếu nại, tố cáo.
Thứ ba, Nhân dân chủ động ủng hộ và tự giác thực hiện các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương; chủ động tổ chức phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống. Trong quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ”, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước không phải là
Đảng, Nhà nước làm thay công việc của nhân dân. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý
là để bảo đảm điều kiện và phát huy quyền làm chủ, để nhân dân tự mình thực hiện sự
nghiệp xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, tổ chức cuộc sống bằng chính lực lượng
của Nhân dân. Trong quan hệ này, Đảng và Nhà nước làm tốt chức năng kiến tạo phát
triển, Nhà nước không làm thay dân mà tập trung vào xây dựng khuôn khổ thể chế phù
hợp với điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích
của chính mình và đóng góp cho xã hội.
2.4. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam hiện nay.
Một là, tình hình chính trị, trật tự và an ninh xã hội; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân trong tỉnh được bảo đảm và nâng cao.
Hai là, mức độ phân định nội dung thuộc thẩm quyền lãnh đạo của Đảng với
nội dung quản lý của Nhà nước.

Ba là, sự tôn trọng quyền làm chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trong quá trình lãnh đạo, quản lý của Đảng và nhà nước.
Bốn là, mức độ hài lòng của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả
hoạt động quản lý của cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỐI QUAN HỆ
“ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ”
Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY
3.1. Khái quát về Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nam Định

3.1.1. Khái quát về Đảng bộ các cấp ở tỉnh Nam Định
Đến nay, đảng bộ tỉnh có 16 đảng bộ (với 09 đảng bộ cấp huyện, 01 đảng bộ
thành phố và 06 đảng bộ tương đương cấp huyện); có 1.065 đảng bộ cấp cơ sở. Đảng
ủy cấp xã có 194 đơn vị, phường có 20 và thị trấn có 15 đơn vị. Khối doanh nghiệp
nhà nước có 70 tổ chức cơ sở đảng, doanh nghiệp có vốn nhà nước có 119 đơn vị. Tổ
chức cơ sở đảng tại đơn vị hợp tác xã, tổ hợp tác, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần tư nhân có 53 đơn vị. Tổ chức cơ sở đảng tại đơn vị sự nghiệp nhà nước có141
đơn vị. Toàn đảng bộ có 102.674 đảng viên. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng bộ
tỉnh Nam Định luôn bảo đảm sự ổn định về bộ máy, đoàn kết, thống nhất trong lãnh
12


đạo. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động được giữ vững và phát huy, tạo sự
đoàn kết, thống nhất trong toàn đảng bộ. Tuy nhiên, thực tế quá trình lãnh đạo cũng đã
bộc lộ một số hạn chế cần được nhận thức và giải quyết kịp thời nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh và cấp ủy các cấp trong giai đoạn mới.
3.1.2. Hệ thống chính quyền các cấp của Nam Định
Hệ thống chính quyền các cấp của Nam Định được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở tuân thủ quy định của Hiến pháp, pháp luật. HĐND các cấp được tổ chức và hoạt
động theo luật Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Từ năm 2011 đến
nay, tỉnh đã thí điểm không tổ chức HĐND ở một số huyện, phường theo chủ trương
của Đảng và Nhà nước. UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn được tổ chức theo
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trực thuộc UBND tỉnh có 19 sở,
ngành (bao gồm: 16 sở chuyên môn; 03 cơ quan trực thuộc là Văn phòng UBND,
Thanh tra tỉnh, Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh). Nam Định hiện có 10 đơn vị
(gồm 09 huyện và 01 thành phố).
3.1.3. Nhân dân ở Nam Định
Dân số Nam Định theo thống kê năm 2013 là 1.952.327 người, mật độ là 1.181
người/ km2; số người theo đạo Thiên Chúa giáo chiếm 23%; có 99,6% là dân tộc
Kinh. Nam Định có 40 trường trung học phổ thông, 04 trường Đại học và 05 trường

Cao đẳng và hàng chục trường trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề. Đến năm
2013 toàn tỉnh đã thực hiện thành công phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nam Định
hiện có trên 50 tiến sĩ và hàng nghìn thạc sĩ đã và đang công tác trong các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội. Có thể nói, so với nhiều tỉnh trong cả nước, nhất là các
tỉnh trong khu vực nam đồng bằng sông Hồng, trình độ dân trí của Nam Định tương
đối cao là điều kiện thuận lợi cho phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong tỉnh.
3.2. Thành tựu trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
3.2.1. Tình hình chính trị được giữ vững, trât tự và an ninh xã hội trong

tỉnh được bảm bảo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là
khu vực nông thôn được nâng cao.
Một là, ổn định chính trị được giữ vững, quốc phòng, an ninh trong tỉnh được
đảm bảo vững chắc.
Hai là, kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân từng
bước được nâng cao.
3.2.2. Cấp ủy đảng giữ vững vai trò lãnh đạo đối với xã hội và hoạt động
quản lý của chính quyền các cấp. Tình trạng can thiệp, làm thay công việc của
chính quyền được khắc phục. Quyền làm chủ của nhân dân được cấp ủy các cấp
quan tâm, tổ chức thực hiện..
Thứ nhất, nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền được
đổi mới theo hướng vừa đảm bảo sự lãnh đạo của cấp ủy vừa phát huy tính chủ động
và thực quyền của chính quyền.
Nội dung lãnh đạo của cấp ủy được đổi mới theo hướng tập trung vào những
công việc có tầm chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng
13


an ninh, quyết định những vấn đề lớn tạo ra bước đột phá trong sự phát triển của
ngành, địa phương; về xây dựng Đảng và chính quyền, đoàn thể trên địa bàn tỉnh.

Phương thức lãnh đạo của cấp ủy được đổi mới theo hướng thảo luận, cho ý
kiến nhằm giảm dần tình trạng can thiệp trực tiếp vào những công việc cụ thể thuộc
thẩm quyền quản lý của UBND và các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ hai, Cấp ủy các cấp đã làm tốt vai trò lãnh đạo thông qua ban hành các nghị
quyết, chỉ thị tạo cõ sở chính trị quan trọng cho hoạt ðộng quản lý của chính quyền và
bảo đảm lợi ích chính đáng của nhân dân.
Trong những năm qua, Tỉnh ủy (Ban chấp hành, Ban thường vụ) qua các nhiệm
kỳ đã quan tâm tới việc đổi mới quy trình xây dựng nghị quyết, chỉ thị. Phần lớn Nghị
quyết của Tỉnh ủy đã ban hành về cơ bản bảo đảm tính kịp thời, bám sát đời sống xã hội,
phản ánh được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của nhân dân. Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định 2001 - 2005;
Chương trình giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện xóa đói giảm nghèo và
phòng chống tệ nạn ma túy giai đoạn 2001 - 2005; Nghị quyết số 09-NQ/TU về xây
dựng khu kinh tế Ninh Cơ giai đoạn 2011- 2015; Nghị quyết số 07-NQ/TU về phát triển
kinh tế trang trại; Nghị quyết số 05-NQ/TU về xây dựng thành phố Nam Định trở thành
Trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội vùng nam đồng bằng sông Hồng; Chương trình phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề; Chương trình phát triển kinh tế
thuỷ sản; Chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới;
Chýõng trình phát triển thương mại, du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế...
Thứ ba, mức độ gần dân, sát dân, dựa vào dân để lãnh đạo đã được cấp ủy các
cấp, nhất là cấp xã được quan tâm và thực hiện hiệu quả hơn. Cấp ủy các cấp, nhất là ở
cấp xã đã quan tâm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để
nhân dân tham gia nhiều hơn vào quá trình lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo, cấp ủy nhiều địa phương đã quan tâm, ban hành cơ chế
để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào nghị quyết, quyết định của cấp ủy với nhiều
hình thức khác nhau. Nhất là những chủ trương, chính sách và chương trình kinh tế - xã
hội lớn như: chương trình xây dựng nông thôn mới; công tác dồn điền, đổi thửa; xây
dựng quy hoạch cụm công nghiệp.... Cấp ủy đều tiến hành lấy ý kiến nhân dân địa
phương nơi thực hiện dự án. Hoạt động thăm do dư luận xã hội, thực hiện điều tra xã hội
học...được cấp ủy các cấp, nhất là cấp tỉnh quan tâm, tổ chức hiều hơn.

3.2.3. Chức năng quản lý và cải cách hành chính của chính quyền các cấp
từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm lợi ích của nhân
dân. Mức độ tôn trọng quyền làm chủ và tính chất phục vụ nhân dân trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức được nâng cao.
Thứ nhất, phần lớn những Chỉ thị, Nghị quyết của cấp ủy được chính quyền các
cấp cụ thể hóa thành chương trình hành động và tổ chức thực hiện nghiêm túc trong
thực tế. Cụ thể, trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Tỉnh ủy Nam Định ban hành Nghị quyết
số 04-NQ/TU (01/12/2006) về việc đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2006 –
2010, đã được UBND tỉnh cụ thể hóa thành Quyết định số 337/ QĐ – UBND ngày
02/3/2007 về kế hoạch cải cách hành chính nhà nước tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 –
2010 và tổ chức thực hiện đạt những kết quả nhất định; nhiệm kỳ 2010 – 2015, BCH
đảng bộ tỉnh đã ban hành một số chỉ thị lãnh đạo công tác xây dựng nông thôn mới
như: Chỉ thị 01 –CT/TU ngày 08/11/2010 về xây dựng nông thôn mới; chỉ thị 07 14


CT/TU, ngày 19/9/2011 về tiếp tục thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa. Những chỉ
thị trên đã được UBND cụ thể hóa thành Kế hoạch số 36/KH –UBND về thực hiện
chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới …
Thứ hai, quyền làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân được chính
quyền các cấp quan tâm và thực hiện thường xuyên, thực chất hơn. Do đó, nhân dân
được tham gia nhiều hơn vào hoạt động quản lý của chính quyền và các cơ quan quản
lý nhà nước.
Công tác bầu cử HĐND các cấp không ngừng được đổi mới và nâng cao chất
lượng đã tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong xây dựng bộ máy
chính quyền nhà nước ở địa phương. Công tác tiếp xúc cử tri được đổi mới cả về nội
dung, hình thức. Chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri của đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh,
đại biểu HĐND các cấp được nâng cao đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân được
bày tỏ quan điểm và tham gia đóng góp ý kiến vào xây dựng các nghị quyết của
HĐND, quyết định, kế hoạch và chương trình hành động của UBND các cấp thông
qua đại biểu của mình. Trong nhiệm kỳ 2011 -2016 (đến tháng 5 năm 2015), Đoàn Đại

biểu Quốc hội tỉnh đã tiến hành 15 đợt tiếp xúc cử tri, tại 180 điểm với 20 nghìn lượt
cử tri tham gia và tổng hợp hơn 2.700 lượt ý kiến, kiến nghị.
Các hình thức phát huy dân chủ trực tiếp như, tổ chức đối thoại trực tiếp với
nhân dân, tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân được
chính quyền các cấp và các cơ quan quản lý từ tỉnh đến huyện có đổi mới và thực hiện
có hiệu quả. Từ đó, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia vào
quản lý nhà nước và xây dựng chính quyền.
Thứ ba, Chương trình cải cách hành chính được triển khai khá đồng bộ ở các
cấp góp phần nâng cao tính phục vụ và tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển
sản xuất, ổn định đời sống. Mức độ hài lòng của nhân dân trong quan hệ với các cơ
quan hành chính được nâng lên.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, UBND tỉnh đã tập
trung xây dựng và ban hành nhiều chính sách, kế hoạch, nhất là chính sách thu hút đầu
tư các doanh nghiệp. UBND tỉnh đã xây dựng và thực hiện đề án đẩy mạnh cải cách
hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và cơ chế một cửa ở các cấp,
ngành trong tỉnh; chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương thực hiện công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là đối với những lĩnh vực nhạy cảm,
dễ nảy sinh tiêu cực để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.
Những kết quả về cải cách hành chính từ cấp tỉnh đến cấp xã đã góp phần khắc
phục từng bước tình trạng gây phiền hành, khó khăn đối với nhân dân trong hoạt động
của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Tính phục vụ trong hoạt động của chính
quyền các cấp được nâng lên.
3.2.4. Nhận thức về dân chủ và thực hiện vai trò làm chủ đối với hoạt động
lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp của nhân dân được nâng lên và
thực hiện hiệu quả hơn. Ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước được
nâng cao.
Thứ nhất, mức độ tin tưởng, ủng hộ và thực hiện chủ trương của Đảng, cấp ủy
và chính sách, pháp luật của nhà nước, chính quyền địa phương trong nhân dân được
nâng lên. Điều đó thể hiện ở việc nhân dân tích cực, chủ động hơn trong việc tìm hiểu
các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước các cấp; từng

bước nâng cao trình độ dân trí và năng lực làm chủ. Trong những năm gần đây, tình
trạng nhân dân vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tỉnh,
huyện đã giảm đáng kể so với năm 2005 trở về trước, nhất là ở vùng nông thôn. Số vụ
15


việc và vụ án vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai, sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự, bảo vệ môi trường… đã giảm cả về tính chất
và số lượng.
Thứ hai, sự nhận thức và sử dụng các quyền làm chủ đối với quá trình lãnh đạo,
quản lý của cấp ủy và chính quyền được nhân dân thực hiện có hiệu quả hơn. Nhân
dân chủ động hơn trong việc tham gia vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền. Đối
với tham gia xây dựng chính quyền, trước hết là thực hiện quyền bầu cử được nhân
dân quan tâm và thực hiện có hiệu quả hơn. Tham gia nhiều và hiệu quả hơn các buổi
tiếp xúc cử tri, đối thoại trực tiếp với chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước các
cấp. Nắm và thực hiện có chất lương quyền kiểm tra, giám sát và quyền khiếu nại, tố
cáo; tích cực đóng góp ý kiến, đề xuất, kiến nghị những vấn đề kinh tế - xã hội tại các
buổi sinh hoạt chính trị ở cơ sở do cấp ủy, chính quyền tổ chức.
Thứ ba, nhân dân tích cực tìm hiểu, ủng hộ và thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh,
huyện. Tình trạng nhân dân có thái độ chống đối và vi phạm chủ trương, chính sách
của Đảng, nhà nước và địa phương giảm rõ rệt.
Nhân dân đã chủ động, tích cực hơn trong tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở Chỉ thị số 07 - CT/TU của Ban Thường vụ tỉnh ủy và Kế hoạch
45/KH – UBND của UBND tỉnh về việc tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa.
Nhân dân các địa phương đã chủ động tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả
chủ trương này. Tính đến 31/12/2013, toàn tỉnh có 200 xã, thị trấn triển khai dồn điền,
đổi thửa, trong đó có 199 xã, thị trấn (99%) đã hoàn thành giao đất tại thực địa, 176 xã,
thị trấn hoàn thành 83,5%. Đến 31/12/2013, toàn tỉnh đã có 2.036 trang trại, gia trại;
trong đó có 453 trang trại đạt tiêu chí mới (tăng 147 trang trại so với năm 2011), nhiều
mô hình hình phát triển sản xuất có hiệu quả kinh tế cao, đang được nhân rộng trong

tỉnh như: vùng kinh tế trang trại của xã Yên Nhân huyện Ý Yên, xã Xuân Tiến huyện
Xuân Trường….
3.3. Một số hạn chế trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
3.3.1. Thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ” còn lúng túng. Tình trạng cấp ủy bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự
lãnh đạo đối với hoạt động quản lý của chính quyền chậm được khắc phục.
Thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
có lúc, có nơi còn lúng túc. Tình trạng cấp ủy bao biện làm thay, quyết định vào nội
dung của chính quyền hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của cấp ủy chậm được khắc
phục,càng xuống cấp dưới thể hiện càng rõ. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Đảng bộ Tỉnh quy định những việc Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có trách nhiệm, thẩm
quyền thảo luận và cho ý kiến chỉ đạo đối với UBND trước khi trình HĐND quyết
định. Nhưng trong thực tế những ý kiến đó lại là quyết định đối với chính quyền, kể
cả với cơ quan tư pháp lại có tính quyết định.
Ở cấp huyện và xã, sự lúng túc trong giải quyết mối quan hệ giữa cấp ủy và
chính quyền thể hiện rõ hơn ở hai xu hướng đang diễn ra : Một là, những địa phương
người đứng đầu cấp ủy trước đây là người đứng đầu chính quyền ở đó cấp ủy có xu
hướng lấn át, quyết định mọi công việc thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền.
Hoạt động của chính quyền thụ động theo sự chỉ đạo của cấp ủy: Hai là, cấp ủy buông
lỏng sự lãnh đạo đối với hoạt động quản lý của chính quyền, quá trình quản lý của
chính quyền, quyết định của Chủ tịch không cần có sự chỉ đạo, cho ý kiến của cấp ủy.
16


3.3.2. Sự lãnh đạo của cấp ủy đảng còn bất cấp trước yêu cầu nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý của chính quyền các cấp. Mức độ gần dân, sát dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân còn nhiều hạn chế. Niềm tin của nhân dân
đối với vai trò lãnh đạo của Đảng đứng trước những thách thức.
Thứ nhất, một số Nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy các cấp chất lượng thấp, tính

thực tiễn không cao, ảnh hướng tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân; yêu cầu
mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia vào xây dựng nghị quyết của cấp ủy chưa được
quan tâm và thực hiện hiệu quả. Trong thực tiễn, còn một số nghị quyết của Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh ban hành nhưng thể hiện tính chủ quan, thiếu thực tiễn, gẫy ra khó
khăn trong triển khai thực hiện của chính quyền (ví dụ: chủ trương xây dựng khu kinh tế
biển Ninh Cơ; chủ trương xây dựng nhà máy nhiệt điện Hải Châu… các chủ trương
này khi thực hiện đều không thành công). Trong khi đó, một số lĩnh vực cấp thiết cần có
lãnh đạo của cấp ủy, nhưng không được lãnh đạo kịp thời dẫn đến khó khăn trong thực
hiện của chính quyền, ví dụ: việc xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh, quan điểm phát triển
các ngành công nghiệp mũi nhọn…
Thứ hai, mức độ tôn trọng quyền làm chủ trong quá trình lãnh đạo của cấp ủy
đảng còn thấp, thiếu quyết tâm chính trị, mang tính hình thức nên chưa động viên nhân
dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân,
thăm dò dư luận xã hội trong quá trình lãnh đạo, nhất là đối với công tác cán bộ chưa
được cấp ủy thưc hiện thường xuyên và có chất lượng. Hoạt động lãnh đạo của Tỉnh
ủy chủ yếu là nghe báo cáo và xem xét các báo cáo của cấp dưới (huyện ủy) và chính
quyền, các cơ quan quản lý. Việc tổ chức đoàn nghiên cứu thực tế, tiếp xúc trực tiếp
với nhân dân ở cơ sở không được quan tâm đúng mức, tổ chức thực hiện không thường
xuyên, mang tính hình thức. Công tác lấy ý kiến đánh giá, nhận xét của nhân đối với
cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội đã được thực
hiện nhưng còn mang nặng tính hình thức…
3.3.3. Sự buông lỏng trong quản lý trên một số lĩnh vực; tình trạng quan liêu,
tham nhũng trong quản lý nhà nước chậm được khắc phục ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân. Nhiều điểm nóng chính trị, khiếu kiện đông
người trên địa bàn tỉnh vần diễn ra và kéo dài trong nhiều năm.
Thứ nhất, sự thụ động, tình trạng “chờ và xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy” trong
hoạt động của UBND các cấp chậm được khắc phục. Không ít lợi ích của nhân dân
chưa được bảo đảm đầy đủ.
Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và cấp ủy của
chính quyền các cấp chưa đầy đủ. Không ít Nghị quyết của Tỉnh ủy chưa được triển

khai nghiêm túc và kịp thời. Cụ thể: Hội nghị lần thứ sáu, BCH đảng bộ khóa XVII
(2005 – 2010), ban hành 8 chương trình công tác toàn khoá và 2 nghị quyết chuyên đề
nhưng đến nay sau 10 năm thực hiện mới có ba chương trình được UBND cụ thể hóa
thành chương trình hành động (đó là: Chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và làng nghề; Chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới; Chương trình đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị); 05 chương trình còn lại chưa được triển khai thực hiện. Từ đó, tiềm
năng phát triển của tỉnh và lợi ích của nhân dân chưa được thực hiện.
Thứ hai, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển xã hội và bảo đảm lợi ích của nhân dân. Tình trạng buông lỏng trên một lĩnh vực
trong quản lý nhà nước, hiện tượng hách dịch, gây khó khăn đối với nhân dân của cán
bộ, công chức còn khá phổ biến ở nhiều cấp, địa phương.
17


Về thủ tục hành chính, mặc dù đã có những đổi mới trong cải cách hành chính
của tỉnh. Tuy nhiên, kết quả thăm dò dư luận cho thấy, phần lớn nhân dân chưa hài
lòng với thủ tục hành chính, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức trong
cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp. Kết quả thăm dò dư luận cho thấy: Chỉ có
36,5% số người được hỏi cho rằng cải cách hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân
và doanh nghiệp đạt được kết quả đáng phấn khởi. Trong khi đó có 43,1% khẳng định
tình trạng trên vẫn như cũ và tăng lên [07, tr.14].
Công tác quản lý nhà nước về môi trường, nhất là ở các làng nghề, cụm công
nghiệp bị buông lỏng trong nhiều năm dẫn tới ô nhiễm nghiêm trọng. Điển hình như
làng nghề Vân Tràng, Nam Giang, Bình Yên, Nam Thanh huyện Nam Trực; một số xã
sản xuất mây tre đan xuất khẩu thuộc huyện Ý Yên. Do những hạn chế về thủ tục hành
chính, nhất là cơ chế hành chính nên công tác thu hút đầu tư của Nam Định chậm hơn
nhiều so với các tỉnh lân cận (như Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam). Tình trạng quan
liêu, tham nhũng, gây khó khăn đối với nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức
vẫn diễn ra ở nhiều cấp, địa phương.

Thứ ba, sự tôn trọng quyền và vai trò làm chủ của nhân dân từ phía chính
quyền các cấp và cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế. Thực hiện các hình thức trực
tiếp còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Do đó, chưa tạo niềm tin và động
viên nhân dân phát huy vai trò làm chủ.
Công tác tiếp xúc cử tri, đối thoại trực tiếp với nhân dân và giải quyết khiếu nại,
tố cáo chưa đáp ứng yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tình trạng khiếu
kiện kéo dài, vượt cấp, đông người trong tỉnh có xu hướng ra tăng. Tính hình thức
trong tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp từ tỉnh đến xã chậm được khắc phục.
Nhân dân chưa được tham gia một cách thực chất vào hoạt động quản lý của chính
quyền thông qua cơ quan đại diện và đại biểu HĐND. Những năm qua, nhiều vấn đề
bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân không được phản ánh hoặc phản ánh
không kịp thời đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động tiếp nhận, giải quyết khiếu nại,
tố cáo của chính quyền các cấp chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao.
3.3.4. Một bộ phận lớn nhân dân chưa thực sự tin tưởng vào sự lãnh đạo, quản lý
của cấp ủy và chính quyền. Tình trạng vi phạm chủ trýõng, chính sách của Ðảng, Nhà nýớc
và của tỉnh, huyện có xu hýớng diễn biến phức tạp.
Thứ nhất, nhận thức và thực hiện các quyền làm chủ của nhân dân trên một số
lĩnh vực chất lượng còn thấp (như: quyền bầu cử, tiếp xúc cử tri, tham gia đóng góp ý
kiến, kiểm tra, giám sát…). Trách nhiệm thực hiện quyền bầu cử Hội đồng nhân dân
các cấp, ngay đối với Hội đồng nhân dân cấp xã của nhân dân chưa cao. Nhân dân
chưa quan tâm nhiều đến vấn đề chính trị và thực hiện dân chủ ở địa phương. Chất
lượng đánh giá, nhận xét của nhân dân đối với cán bộ thấp, chưa khách quan. Tâm lý
ngại đấu tranh với sai phạm, vi phạm của chính quyền và cán bộ của nhân dân chậm
thay đổi.
Thứ hai, việc chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước, của tỉnh trên một
số lĩnh vực, đặc biệt là hoạt động tôn giáo, khai thác và sử dụng đất đai, thực hiện
chính sách dân số, bảo vệ môi trường, trận tự an ninh xã hội… của một bộ phận nhân
dân còn thấp. Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường thấp dẫn đến tình
trạng ô nhiễm môi trường diễn ra nghiêm trọng tại các làng nghề (như: Bình Yên, Văn
Tràng (Nam Trực), Yên Tiến (Ý Yên…); Nhân dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng

đất sai luật, trái quy định, quy hoạch của tỉnh, huyện về quản lý và sử dụng đất nông
nghiệp diễn ra ở nhiều xã (như: Yên Trị, Yên Đồng, Yên Cương huyện Ý Yên, nhiều
xã của huyện Xuân Trường và huyện Nam Trực…).
18


Thứ ba, Một bộ phần không nhỏ nhân dân có thái độ thờ ơ, không quan tâm đến
hoạt đông chính trị ở địa phương. Những năm gần đây, công tác phát triển đảng ở cấp
cơ sở (xã, phường, thị trấn) rất khó khăn. Quần chúng không thiết tha với công tác
đảng, chính quyền và không muốn tham gia phát triển đảng. Nhiều quần chúng ưu tú
được cấp ủy giới thiệu, động viên nhưng không có nguyện vọng vào đảng.
3.4. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong thực hiện mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
3.4.1. Nguyên nhân của những thành tựu trong thực hiện mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định
Một là, kinh tế phát triển góp phần nâng cao trình độ dân trí, năng lực nhận thức
và thực hành dân chủ của nhân dân. Tính đến năm 2015, thu nhập bình quân đầu người
của Nam Định đạt 23 triệu người / năm (tăng 4.1 triệu đồng so với năm 2010). Thu
ngân sách đạt 1.700 tỷ đồng (tăng 26% so với 2010). Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới đã có 67 xã, 01 huyện đạt chuẩn. Toàn tỉnh hiện có 07 khu,
cụm công nghiệp thu hút 23 vạn lao động. Ngoài ra, còn có hàng trăm làng nghề
truyền thống tạo việc làm cho hàng vạn lao động. Đây là những nhân tố góp phần nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn, qua đó nâng cao nhận thức
và năng lực làm chủ của nhân dân trong tỉnh.
Hai là, công tác đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là đào tạo lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ các cấp được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp quan tâm. Từ đó, nhận thức
của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp về dân chủ và phát huy
vai trò làm chủ dân được nâng lên góp phần quan trọng vào đổi mới, nâng cao năng
lực lãnh đạo của cấp ủy; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính
quyền các cấp.

Ba là, cấp ủy, chính quyền các cấp đã quan tâm và thực hiện nhiều biện pháp để
đổi mới phương thức lãnh đạo, cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý góp
phần bảo đảm quyền và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Nhiều địa phương
trong tỉnh nhất là cấp xã, Đảng ủy và chính quyền đã chủ động, tích cực mở rộng dân
chủ với nhiều hình thức, cơ chế. Từ đó, nhân dân có điều kiện để tham gia hiệu quả
hơn vào quá trình lãnh đạo và quản lý của cấp ủy và chính quyền. Đây có thể coi là
một nguyên nhân quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trên địa bàn tỉnh Nam Định những
năm qua.
3.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện mối quan hệ “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định
Một là, thiếu cơ sở pháp lý (luật; pháp lệnh), đăc biệt là những nghị định,
hướng dẫn thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” từ
Trung ương và Tỉnh.
Hai là, sự phát triển kinh tế - xã hội ở một số huyện, xã còn chậm, thiếu tính
bền vững chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực
hành dân chủ của nhân dân.
Ba là, một số cấp ủy, chính quyền ở các cấp và cán bộ, thậm chí là những cán bộ,
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức thật đầy đủ bản chất của vai
trò, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, về quyền và vai trò làm chủ
của Nhân dân.
Bốn là, sự thiếu quyết tâm chính trị của các cấp ủy đảng trong đổi mới phương
thức lãnh đạo đối với chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
19


Năm là, chính quyền các cấp chưa có giải pháp quyết liệt khắc phục những hạn
chế trong quản lý và thực hiện cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Chương 4

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ,
NHÂN DÂN LÀM CHỦ” Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY
4.1. Một số quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Nam Định hiện nay
4.1.1. Nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ ở Nam Định hiện nay trên cơ sở vừa tăng cường vai trò
lãnh đạo của cấp ủy đồng thời phân định rõ chức năng lãnh đạo của cấp ủy với vai
trò quản lý của chính quyền
Nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ” đòi hỏi phải củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng
thời, phân định cụ thể, rõ ràng chức năng, công việc thuộc thẩm quyền lãnh đạo của
Đảng với chức năng, công việc thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước là yêu cầu có
tính cấp thiết đối với nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đối với Nam Định, căn cứ vào các quy định, hướng dẫn của trung ương, Ban
chấp hành, Ban thường vụ tỉnh ủy phải xây dựng được quy chế phân công, phối hợp
giữa các chủ thể: Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong
tổ chức triển khai hoạt động lãnh đạo, quản lý, làm chủ. Trên cơ sở quy chế đó, nhân
dân có điều kiện giám sát các cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
4.1.2. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân phải được xem là mục tiêu cuối
cùng, cao nhất trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
Thực hiện mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” phải bảo đảm quan điểm xuyên suốt đó là: Nhân dân làm chủ phải được coi là
yếu tố trung tâm, là mục tiêu cuối cùng, quá trình đổi mới việc thực hiện mối quan hệ
này phải hướng tới mục tiêu cao nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ở Nam
Định hiện nay, việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của
chính quyền cũng nhằm mục tiêu bảo đảm quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Lấy
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm

vững chắc về an ninh quốc phòng là mục tiêu cao nhất kiểm chứng tính hiệu quả thực
hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
4.1.3. Nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ phải được thực hiện trên cơ sở các điều kiện đặc thù
của Nam Định
Về kinh tế, Nam Định là một tỉnh nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp
chiếm trên 50% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Về xã hội, do là tỉnh nông nghiệp, trong
cơ cấu xã hội, giai cấp nông dân chiếm đa số, nông dân Việt Nam nói chung, Nam
Định nói riêng có những đặc điểm về tâm lý, thói quen, ý thức chính trị không giống
các giai cấp, tầng lớp khác. Do vậy, trong quá trình thực hiện cũng cần lưu ý các đặc
điểm này. Nam Định có một bộ phận lớn giáo dân (23%), có hơn bốn nghìn đảng viên
là người có tôn giáo, do vậy trong quá trình thực hiện cần phát huy vai trò của các
chức sắc tôn giáo tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, tuyên truyền vận động nhân
dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước.
20


4.1.4. Nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ ở Nam Định hiện nay là công việc, trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân.
Cần thống nhất trong nhận thức và hành động việc nâng cao hiệu quả thực hiện
mối quan hệ Đảng lãnh đạo,Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam nói
chung, Nam Định nói riêng là một phạm trù chính trị nhưng đó không phải là việc
riêng của HTCT, càng không phải là việc riêng của một tổ chức là Đảng hay Nhà nước
mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, và các tầng lớp nhân dân. Do đó, phải xây
dựng được cơ chế phân công, phối hợp, giám sát lẫn nhau giữa các chủ thể; phát huy
tốt nhất tính ưu việt của thể chế chính trị hiện nay. Nhân dân cần chủ động tìm hiểu
nâng cao vai trò làm chủ của mình, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, không
trông chờ, ỷ lại, không phó mặc cho các tổ chức chính trị.
4.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan

hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
4.2.1. Nhóm những giải pháp chung
4.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật, thể chế hóa mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam hiện nay. Đến lúc
phải luật hóa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đồng thời, cụ thể hóa quy
định Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo. Vấn đề là phải Đảng,
nhà nước, Tỉnh ủy, UBND tỉnh phải cụ thể hóa thành các văn bản hướng dẫn tổ chức
thực hiện, không chỉ dừng lại ở chủ trương, quy đinh chung.
4.2.1.2. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về sự cần thiết khách quan,
tầm quan trọng, ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay
Thứ nhất, tiến hành tổng kết thực tiễn thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở các địa phương, xây dựng chuyên đề bồi
dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ban chấp hành, Ban thường
vụ Tỉnh ủy cần quan tâm chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các Ban Đảng xây dựng kế hoạch và
tổ chức công tác tổng kết thực hiện những nội dung của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở từng cấp một cách nghiêm túc. Từ đó, rút ra những vấn đề
có tính lý luận làm tài liệu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Bảo đảm trong công tác cán bộ, nhất là công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp trong tỉnh phải thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy
về tiêu chuẩn trình độ lý luận chính trị. Trường chính trị tỉnh xây dựng đề án nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên, tổ chức đào tạo theo đúng quy chế của Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh …
Thứ ba, nâng cao hiệu quả tuyên truyền nội dung quyền làm chủ của Nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội.
4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, hiệu lực,
hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính và

phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
4.2.2.1. Các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động quản
lý của chính quyền và phát huy vai trò làm chủ, bảo đảm lợi ích chính đáng của Nhân dân

21


Thứ nhất, Ban chấp hành, Ban Thường vụ phải hoàn thiện quy chế làm việc; có
hướng dẫn cụ thể về phương thức thảo luận và cho ý kiến của cấp ủy; xác định cụ thể
trách nhiệm và việc chịu trách nhiệm của cấp ủy, cá nhân
Trước mắt cần xây dựng hướng dẫn cụ thể về việc Ban chấp hành, Ban thường
vụ thực hiện nhiệm vụ “thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo” đối với công việc thuộc thẩm
quyền quản lý của chính quyền, các cơ quan chuyên môn. Về cơ chế chịu trách nhiệm,
trong những năm tới, cấp ủy cần phải có quy định về trách nhiệm và cơ chế chịu trách
nhiệm của cấp ủy (Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và Thường trực), và người đứng
đầu (Bí thư, Phó Bí thư) về các quyết định, ý kiến chỉ đạo.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện cơ chế mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia
nhiều, thực chất hơn vào quá trình lãnh đạo của cấp ủy. Trước mắt cần thực hiện các
giải pháp: (1) Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu thực tế trước
khi xây dựng, ban hành nghị quyết, quyết định hay cho ý kiến chỉ đạo đối với các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội (2) Có quy chế về tổ chức lấy ý kiến đóng góp
từ nhân dân, tổ chức thăm dò dư luận xã hội trước khi ban hành nghị quyết. (3) Bảo
đảm những ý kiến đóng góp, kiến nghị, đề xuất của nhân dân được sử dụng trong việc
xây dựng nghị quyết của cấp ủy. (4) Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác sơ kết,
tổng kết nghị quyết, chương trình lớn của cấp ủy đã ban hành.
Thứ ba, cấp ủy phải mở rộng dân chủ bằng nhiều hình thức để nhân dân tham
gia nhiều, thực chất hơn vào quá trình xây dựng nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là công
tác cán bộ.
Đổi mới quy trình xây dựng Nghị quyết bảo đảm để nhân dân tham gia nhiều
hơn. (1) Tăng cường nghiên cứu thực tế, thăm do dư luận xã hội. (2) Bảo đảm những ý

kiến của nhân dân phải là cơ sở quan trọng xây dựng nghị quyết, quyết định của cấp
ủy. (3) Phải thực hiện nghiêm túc công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghi quyết,
chỉ thị được ban hành.
Đối với công tác cán bộ cần thực hiện. (1) Đổi mới nội dung và hình thức lấy
nhận xét, đánh giá của nhân dân về cán bộ đi vào thực chất. (2) Tổ chức các đoàn kiểm
tra, giám sát chất lượng cán bộ, nhất là địa phương có vấn đề. (3)
Thứ ba, Tỉnh ủy phải xây dựng quy chế và hướng dẫn thực hiện để hoạt động
thăm dò dư luận, tiếp nhận phản biện xã từ Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
của cấp ủy đảng phải đi vào nề nếp, có chất lượng. Có như vậy, cấp ủy mới có đủ
thông tin đa dạng, nhiều chiều, đặc biệt nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và thái độ
của nhân dân về quá trình lãnh đạo.
4.2.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong hoạt động quản lý của
chính quyền các cấp của tỉnh.
Thứ nhất, nâng cao năng lực thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy
thành các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của chính quyền. Để
nâng cao năng lực thể chế hóa, cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau: (1) Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng
xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. (2) Phân công,
phân cấp, quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận trong bộ máy chính
quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa quan điểm của cấp ủy thành chính sách
của chính quy. (3) Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, nhân dân tham gia vào quá
trình xây dựng đề án, chương trình hành động.
Thứ hai, nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, chất lượng Đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp. Trong đó cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: (1) Các buổi
22


tiếp xúc cử tri phải dành nhiều thời gian hơn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến
nghị, đề xuất của nhân dân về các vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội của địa phương. (2)

Trong buổi tiếp xúc cử tri phải quy định cụ thể nhiệm vụ của Đại biểu HĐND phải báo
cáo trước cử tri về kết quả giải quyết những vấn đề đã được đưa ra trong kỳ tiếp xúc
cử tri trước đó. (3) HĐND các cấp, nhất là cấp tỉnh phải đa dạng các h́ nh thức, địa
điểm tổ chức tiếp xúc cử tri cho phù hợp với thực tiễn của từng địa phương nhằm đạt
hiệu quả cao. (4) Ban hành hướng dẫn cụ thể việc nhân dân trực tiếp bãi miễn các đại
biểu dân cử khi không còn xứng đáng.
Thứ ba, UBND các cấp, đặc biệt là UBND tỉnh phải nâng cao chất lượng hoạt
động thăm dò và nắm bắt dư luận xã hội; phản biện xã hội đối với chính sách, kế
hoạch, dự án kinh tế - xã hội. Trong những năm tới, việc thăm dò dư luận xã hội phải
được tiến hành thường xuyên, có chất lượng nhằm nắm bắt kịp thời những vướng mắc,
bất cập của các quyết định quản lý, chính sách; có cơ chế chỉnh sửa, bổ sung một cách
kịp thời bảo đảm quyền, lợi ích của nhân dân. UBND tỉnh chủ động xây dựng văn bản
hướng dẫn việc triển khai quy định của Đảng về cơ chế phản biện xã hội, tham gia
đóng góp ý kiến của nhân dân đối hoạt động quản lý của chính quyền.
Thứ tư, UBND và các sở, ban, ngành trong tỉnh phải tiếp tục nghiên cứu và đổi
mới hoạt động tiếp dân, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Trước
mắt cần thực hiện một số giải pháp sau: (1) Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. (2) Đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật
chất cho trụ sở tiếp dân của các xă, phường, thị trấn trong toàn tỉnh. (3) Tiến hành
nghiên cứu tổng kết thực tiễn chỉnh sửa, bổ sung những quy định trong Quy chế tiếp
công dân của tỉnh do đang bộc lộ những bất cập ảnh hưởng tới chất lượng của công tác
tiếp dân, đặc biệt là quy định rõ về trách nhiệm và chịu trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân. (4) Xây dựng cơ chế phối hợp giữa UBND - MTTQ và các đoàn thể nhân dân,
bảo đảm MTTQ thực hiện quyền giám sát hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Ban tiếp dân cùng cấp và các cơ quan nhà nước một cách thực chất.
Thứ năm, UBND tỉnh cần xây dựng quy chế và hướng dẫn thực hiện để hoạt
động đối thoại với nhân dân được thực hiện có nề nếp và chất lượng.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bảo đảm điều kiện để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ ở địa phương. (1)Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm của cấp

ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu về thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở. (2)
UBND tỉnh thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Tỉnh ủy về việc tiến hành sơ kết, tổng kết
thực hiện Quy chế và Pháp lệnh dân chủ cơ sở, nhất là cấp xã, bảo đảm thực chất, tập
trung và thẳn thắn rút kinh nghiệm đối với những hạn chế, đồng thời phát hiện những
đơn vị có thành tích điển hình để tuyên truyền và tổ chức nhân rộng trong toàn tỉnh. (3)
UBND từ cấp tỉnh đến xã phải gắn việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với cải cách
hành chính. Thực hiện nghiêm túc việc công khai, minh bạch các thủ tục hành chính,
chế độ, chính sách, các khoản thu chi… (4) Tiếp tục củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo,
Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng.
4.2.3. Nhóm giải pháp phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong quan hệ
với Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý ở Nam Định.
Thứ nhất, tập trung thực hiện các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
một cách bền vững, tạo điều kiện nâng cao dân trí, năng lực nhận thức và thực hành
dân chủ của Nhân dân. Trong đó chú trọng một số giải pháp cụ thể như sau: (1) Tiếp
tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn khắc
phục tình trạng manh mún trong sản xuất. Thực hiện có hiệu quả công tác dồn điền,
23


đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp gắn với hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn,
công nghệ hiện đại. (2) Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo nghề đối với người
lao động. (3) Đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thu
hút đầu tư phát triển một số ngành sản xuất công nghiệp, các làng nghề tại vùng nông
thôn. (4) Tỉnh ủy và UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt và tổ chức nghiêm túc công tác tổng
kết chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm đánh giá đúng kết quả và những vấn
đề đặt ra
Thứ hai, tiếp tục thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm hiện đại
hóa hạ tầng kỹ thuật phục vụ sinh hoạt văn hóa ,chính trị, nâng cao trình độ dân trí cho
nhân dân.
UBND tỉnh cần có chính sách hỗ trợ, huy động các nguồn lực xã hội hiện đại

hóa thư viện, nhà văn hóa, tạo cơ sở cần thiết cho việc nâng cao dân trí đáp ứng yêu cầu
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; Xây dưng chính sách và quy định cụ thể mức hỗ
trợ về tài chính để các xã tiến hành xây dựng và phát triển thư viện của xã; Chỉ đạo sở
Văn hóa – Thể thao và Du lịch hướng dẫn Phòng Văn hóa các huyện xây dựng quy chế
để các thư viện xã hoạt động có chất lượng hơn, đáp ứng nhu cầu và động viên nhân dân
nâng cao ý thức tìm hiểu khoa học – kỹ thuật, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước, của địa phương.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả tuyên truyền nội dung quyền làm chủ của Nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là tuyên
truyền nội dung Pháp lệnh dân chủ cơ sở đến nhân dân.
KẾT LUẬN
Từ việc phân tích khái niệm, nội dung mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam; thực trạng thực hiện mối quan hệ này ở Nam
Định, luận án rút ra một số kết luận sau:
1. “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là một trong những
mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Từ ý nghĩa và tầm quan trọng của mối quan hệ này, đã có nhiều công trình
khoa học tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng và đề xuất quan điểm,
giải pháp để thực hiện có hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay.
2. Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân làm chủ là những khái niệm
được dùng để xác định vị trí, vai trò của từng chủ thể trong chế độ và HTCT ở nước ta.
Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có vai trò quản lý, Nhân dân có vai trò làm chủ.
3. Trong mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
thì Đảng, Nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý xã hội nhưng
chức năng đó có nguồn gốc từ nhân dân, do nhân dân giao cho mà có. Đảng lãnh đạo
và Nhà nước quản lý là để phục vụ nhân dân, bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền
làm chủ. Nhân dân là chủ và muốn làm chủ cần phải có sự lănh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước. Do đó, nhân dân vừa có trách nhiệm tuân thủ sự lãnh đạo, quản lý
vừa phải tham gia bảo vệ Đảng, Nhà nước của mình.

Nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
được thể hiện: một là, đây là thể thống nhất phản ánh bản chất và cơ chế vận hành
quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay; hai
là, mỗi chủ thể (Đảng – Nhà nước – Nhân dân) có vai trò cụ thể khác nhau trong mối
quan hệ đó.
24


Đảng lãnh đạo thể hiện ở việc xây dựng đường lối phát triển của đất nước thông
qua Cương lĩnh, Nghị quyết; lãnh đạo nhà nước cụ thể hóa cương lĩnh, nghị quyết vào
trong thực tiễn xã hội; mở rộng dân chủ, bảo đảm điều kiện để nhân dân tham gia vào
quá trình lãnh đạo. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thể hiện ở nhiệm vụ cụ thể
hóa những định hướng chính trị của Đảng. Thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội, bảo
đảm lợi ích của nhân dân, có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ đối với quản
lý của nhà nước. Nhân dân làm chủ thể hiện ở việc chủ động, tích cực nắm bắt và sử
dụng hiệu quả các quyền làm chủ của mình; tự giác thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; phát huy tính chủ động trong tổ chức sản xuất phát triển kinh tế xã hội.
Tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ” dựa vào: chính trị - xã hội được ổn định; đời sống vật chất,
tinh thần nhân dân được nâng lên; mối quan hệ tổng thể được giữ vững, vai trò của từng
chủ thể được phát huy một cách tích cực nhất.
4. Kể từ khi được tái lập (1997) đến nay, việc thực hiện mối quan hệ “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định đã đạt được những thành
tựu nhất định. Về thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng: thứ nhất, nội dung, phương
thức lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền được đổi mới theo hướng vừa đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của chính quyền; thứ hai,
chất lượng các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu
cầu thực hiện chức năng quản lý của chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; thứ ba, cấp ủy đảng, nhất là cấp cơ sở trong lãnh đạo đã quan tâm phát huy dân
chủ, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia nhiều hơn

vào quá trình lãnh đạo của cấp ủy.
Về thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước: thứ nhất, phần lớn những Chỉ thị,
Nghị quyết của cấp ủy được chính quyền các cấp cụ thể hóa thành chương trình hành
động và tổ chức thực hiện nghiêm túc trong thực tế; thứ hai, chính quyền các cấp đã
quan tâm và tổ chức thực hiện nhiều hình thức phát huy quyền làm chủ của nhân dân
vào quá trình quản lý nhà nước ở địa phương; thứ ba, kết quả cải cách hành chính,
nhất là thủ tục hành chính và quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước
đã bước đầu nâng cao tính phục vụ nhân dân của chính quyền các cấp; thứ tư, công
tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo được đổi mới, tạo điều kiện và động viên
nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hiệu quả hơn.
Về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân: thứ nhất, nhân dân tích cực, chủ
động hơn trong việc tìm hiểu các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước các cấp; nâng cao trình độ dân trí và năng lực làm chủ; thứ hai, nhân
dân thực hiện có hiệu quả hơn các quyền làm chủ đối với quá trình lãnh đạo, quản lý
của cấp ủy và chính quyền địa phương; chủ động tham gia vào công tác xây dựng
đảng, chính quyền; thứ ba, nhân dân đã chủ động, tích cực hơn trong tổ chức sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện mối quan hệ này ở Nam
Định còn một số hạn chế. Thứ nhất, chất lượng của một số chỉ thị, nghị quyết của cấp
ủy còn thấp, chưa phản ánh đúng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tình trạng
cấp ủy bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo đối với chính quyền còn
diễn ra ở một số địa phương, lĩnh vực; việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình lãnh
đạo, nhất là công tác cán bộ chưa được thực hiện thường xuyên có hiệu quả. Hai là,
đối với chính quyền, việc triển khai các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy còn chưa kịp
thời; tình trạng buông lỏng quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chậm được khắc
25


×