MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................................................................................1
CHỦ ĐỀ 1: TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC..................................................................2
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học ?..........................................................................2
CHỦ ĐỀ 2: PHẠM TRÙ VẬT CHẤT...................................................................................................................4
Câu 2: Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước C.Mác về Vật chất?...........................................................4
Câu 3: Định nghĩa vật chất của Lê-nin?..................................................................................................................5
CHỦ ĐỀ 3: VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG............................................................................................................8
Câu 4: quan điểm Mác xít về vận động .................................................................................................................8
CHỦ ĐỀ 4: PHẠM TRÙ Ý THỨC.......................................................................................................................10
Câu 5: Nguồn gốc và bản chất của ý thức:............................................................................................................10
Câu 6: quan niệm của TH DV biện chứng về kết cấu của YT..............................................................................11
CHỦ ĐỀ 5: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.........................................................................14
Câu 7: Mối quan hệ giữa VC và YT? Ý nghĩa phương pháp luận của mlhệ này?................................................14
CHỦ ĐỀ 6: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI TÍNH CÁCH LÀ KHOA HỌC VỀ MÔÍ LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN.......................................................................................................................................16
Câu 8: nguyên lý về mqhệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận? ( csở lý luận và yêu cầu quan điểm toàn diện
)..............................................................................................................................................................................16
Câu 9: Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận?...........................................................................17
CHỦ ĐỀ 7: NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP DUY VẬT BIỆN CHỨNG......................................19
Câu10: Thế nào là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Q/luật m/thuẫn)?.......................................19
Câu 11: Mâu thuẫn là gì? Nêu các loại mâu thuẫn? vận dụng mâu thuẫn này phân tích mâu thuẫn ở trên thế giới
và ở Việt Nam? Phương thức giải quyết mâu thuẫn. ..........................................................................................20
Câu 12. quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất? ý nghĩa pp luận của quy luật này?. .22
Câu 13. Quy luật phủ định của phủ định? ý nghĩa phương pháp luận?.................................................................24
CHỦ ĐỀ 8: NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CỦA PHÉP DUY VẬT BIỆN CHỨNG.............................................27
Câu 14: Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. ...............................................................................................27
Câu15: Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả...............................................................................................28
Câu 16: mối quan hệ giữa nội dung và hình thức? Ý nghĩa phương pháp luận....................................................30
Câu 17 – Cặp phạm trù: Tất nhiên và ngẫu nhiên?...............................................................................................31
Câu 18 – Cặp phạm trù: B/chất và hiện tượng?....................................................................................................32
Câu 19 – Cặp phạm trù Khả năng và hiện thực? Ý nghĩa phương pháp luận?.....................................................34
CHỦ ĐỀ 9: LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN.......................................................36
Câu 20 - Những nguyên tắc cơ bản của lý luận và nhận thức?............................................................................36
Câu 21 – Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.............................................................................37
Câu 22 – Con đường b/chứng của sự nhận thức chân lý khách quan? Ý nghĩa phương pháp luận?....................38
Câu 23 – Quan điểm Mác xít về chân lý – ý nghĩa phương pháp luận vấn đề này đối với cán bộ thực thi pháp
luật?.......................................................................................................................................................................40
Câu 24 – Phân tích P.trù hình thái K.tế - XH?......................................................................................................42
CHỦ ĐỀ 12: BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG..........................46
Câu 25 – Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nêu những đặc điểm
của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay............................................................................46
CHỦ ĐỀ 17: Ý THỨC XÃ HỘI...........................................................................................................................48
Câu 26 – Phân tích định nghĩa ý thức xã hội và tồn tại xã hội..............................................................................48
1
CHỦ ĐỀ 1: TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học ?
- Triết học: là một trong những hình thái ý thức XH, là học thuyết ncứu về những vđề chung nhất của tự nhiên,
XH, con người của mqhệ giữa con người nói chung và tư duy con người nói riêng với TG xung quanh họ.
- TH là một trong những h.thái ý thức XH xuất hiện từ khá sớm trong lsử. Nó có ng.gốc từ nhận thức và ng.gốc
XH. Xuất phát từ ycầu đòi hỏi cần khái quát hoá, trừu tượng hoá những tri thức của con người và chỉ khi con
người đạt đến một trình độ nhận thức khái quát, trừu tượng nhất định thì mới xhiện triết học.
Mặt khác về mặt XH, sự phát triển của sxuất, XH cũng ptriển đến tr.độ nhất định. Có sự phân công lđ trí óc, lđ
chân tay thì mới có đkiện xhiện những triết gia, những trường phía TH.
- TH ncứu những qluật chung nhất có trong cả XH, tự nhiên, tư duy con người. Sự ncứu của TH dựa trên csở
t.kết sự khái quát lsử của các ngành KH, dựa trên tư liệu của các ngành KH đó, đồng thời dựa trên csở tổng kết
chính lsử của bản thân TH.
Vđề cbản của mọi trường phái TH từ trước đến nay là qhệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật hay còn gọi là
giữa ý thức và vật chất .
Chính vì vậy Mác-Anghen đã khẳng định: “ Vđề cbản của mọi TH, đbiệt của TH hiện đại là vđề qhệ giữa tư
duy và tồn tại”.
Việc giải quyết mqhệ giữa VC và YT sẽ đặt nền móng cho sự giải quyết các vđề căn bản khác trong TH. Từ
việc giải quyết mqhệ này mà lsử TH nhân loại phân chia thành 2 trường phái đối lập nhau là Duy vật và Duy
tâm.
Sở dĩ qhệ giữa tư duy và tồn tại trở thành vđề cbản của TH vì:
+ Đây là vđề xuyên suốt lsử của TH từ trước đến nay mà bất cứ trường phái, học thuyết TH nào cũng phải đề
cập giải quyết nó. Các học thuyết các trường phái TH dù có khác nhau đến mấy thì câu hỏi đặt ra trước hết và
cần phải giải quyết là TG được con người tạo ra trong đầu óc của họ có qhệ ntnào với TG bên ngoài. Việc giải
quyết mqhệ giữa VC và YT là điểm xuất phát và lad csở để giải quyết những vđề lớn khác của TH.
+ Thông qua việc giải quyết mqhệ này để phân định sự khác nhau về mặt lập trường và TG quan của các nhà
TH và để phân chia các hệ thống TH khác nhau trong lsử và đương đại.
* Nội dung của vđề cbản của TH bgồm:
- Mặt thứ nhất nhằm trả lời câu hỏi: VC và YT cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: YT của con người có khả năng nhận biết đúng đắn, chính xác, trung thực bản chất, qluật vđề của
TG khách quan hay ko? Con người có khả năng nhận biết TG xquanh mình được hay ko?
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vđề cbản của TH, từ trong lsử TH đã được pchia thành những
trường phái lớn sau đây:
Trường phái 1. Những nhà TH cho rằng VC, giới tự nhiên có trước và giữ vtrò quyết định đvới YT con người
được gọi là các nhà duy vật và học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của CNDV.
CNDV trong lsử đã hình thành, ptriển qua 3 hình thái nổi bật:
+ CNDV thời cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ và chủ yếu dựa trên quan sát trực tiếp, cảm tính chưa có csở
KH ( âm dương ngũ hành ở Trung Quốc - đất, nước,lửa, khí ở Ấn Độ - Khí…Phương Tây).
+ CNDV siêu hình máy móc ở thế kỉ 17 -18. Hình thái này bị ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy của các môn
KH tự nhiên đặc biệt là vật lý học. Nó nhìn nhận, giải thích TG trong trạng thái ko vận động, ptriển, ko có mlhệ
hoặc có thì cũng chỉ diễn ra như là sự vận hành của các hệ thống máy móc khác nhau mà thôi.
+ CNDV biện chứng có đặc điểm nổi bật là: CNDV có sự thống nhất, kết hợp chặt chẽ với phép biện chứng và
được xdựng trên csở kế thừa những thành tựu lý luận của nhân loại, đồng thời khái quát được thành tựu của các
KH chuyên ngành.
Ngoài ra trong lsử ptriển của CNDV còn có CNDV tầm thường ( đồng nhất VC với YT và xem nhẹ vtrò của
YT), và hình thái chủ nghĩa CNDV ktế ( trong đó xem ktế là nhân tố duy nhất quyết định sự tồn tại và ptriển
của XH).
Trường phái 2. Những người cho rằng tinh thần là cái có trước và có vtrò quyết định, sinh ra VC được gọi là
các nhà TH duy tâm và học thuyết, quan điểm của họ hợp thành các môn phái khác nhau của CNDT.
CNDT tồn tại và phát triển dưới 2 hình thức sau đây:
+ CNDT khách quan (Praton, Heghen) cho rằng có một thực thể tinh thần hay ý niệm tuyệt đối ko những tồn tại
trước, tồn tại ở bên ngoài độc lập với con người và TG vật chất mà còn sản sinh và quyết định sự tồn tại, ptriển
của TG VC và con người.
+ CNDT chủ quan( Becoli, Hium) cho rằng cảm giác và YT của con người là cái có trước và tồn tại sẵn có
trong con người, mọi sự vật hay TG VC chỉ là kết quả của sự phức hợp của cảm giác mà thôi ( ĐH VI Đảng
phân tích chủ quan duy ý chí…)
2
Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước và về sự có trước, nhưng cả 2 dạng của CNDT
đều thống nhất với nhau ở chỗ coi YT, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra VC và quyết định VC
( CNDT thường có csở lý luận của tôn giao).
- Trong lsử TH luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT với tính chất là 2 đảng phái chính trong
TH. Cuộc đấu tranh đó tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư duy TH. . Đồng thời cuộc đấu tranh
giữa CNDV và CNDT cũng biểu hiện bằng cách này hay cánh khác cuộc đấu trạnh hệ tư tưởng của các giai cấp
đối địch trong XH.
Ngoài 2 trường phái chính trên đây còn có trường phái thứ 3: Những nhà TH cho rằng VC và YT là 2 nguyên
thể song song tồn tại ko cái nào quyết định cái nào, cả hai cùng là nguồn gốc tạo ra TG được gọi là các nhà nhị
nguyên và học thuyết của họ hợp thành học thuyết nhị nguyên luận ( Deacton).
+ Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ hai của vđề cbản của TH là con người có khả năng nhận thức được TG
khách quan hay ko thì trong lsử TH đã pchia thành 2 trường phái đối lập nhau: Khẳng định và Phủ định.
Trường phái thứ nhất cho rằng con người ko có khả năng nhận biết đươc TG xung quanh hoặc chỉ nhận biết
được vẻ bên ngoài của TG mà thôi ( tiêu biếu là thuyết ko thể biết - bất khả tri của Hium va Cantơ).
Trường phái thứ 2 cho rằng con người có khả năng nhận biết được TG từ hiện trạng đến bản chất, từ tất nhiên
đến ngẫu nhiên, từ rời rạc dến qui luật.
Với sự ra đời của mình TH Mác- Lênin đã tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lsử ptriển TH của
nhân loại. Giải thoát CNDV khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho CNDV trở nên hoàn bị và mở rộng
hoạ thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức XH loài người, CNDV lsử của Mác là thành tựu
vĩ đại nhất của tư tưởng KH. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong TH về XH.
3
CHỦ ĐỀ 2: PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
Câu 2: Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước C.Mác về Vật chất?
Việc tìm hiểu, khám phá về bản chất, cấu trúc, sự tồn tại của TG xung quanh mà trước hết là TG các vật
thể hữu hình luôn luôn là một vđề được quan tâm trong lsử nhận thức của nhân loại. Các trường phái TH đều
đặt vđề qhệ VC-YT là nvụ trugn tâm cbản của mình. Vì vậy, phạm trù VC được xhiện từ rất sớm ( trong TH
HY lạp ở tkì cổ đại) và ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đtranh ko khoan nhượng giữa CNDV và CNDT xung quanh
viêch nhận thức và lý giải về VC. CNDT tìm mọi cách phủ nhận VC và họ cho rằng csở tồn tại của TG hoặc là
do một thực thể tinh thần nào đó quyết định hoặc là do ý muốn, YT, cảm giác của con người tạo thành. Ngược
lại, CNDV khẳng định csở tồn tại của TG là VC, VC tồn tại khách quan, vinhc cửu, tạo nên mọi SV-HT trong
TG. Tuy nhiên, việc lập luận và lý giải về VC của các nhà TH ở tkì trước Mác là ko thống nhất với nhau.
Vào tkì cổ đại, ở Hi Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà TH DV đã đồng nhất VC nói chung với
các dạng cụ thể nào đó của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở TG bên ngoài. Chẳng hạn
Talét coi thực thể của TG là nước, Anaximen coi thực thể đó là không khí, với Hêraclit thực thể đó là lửa, còn
với Ămpêđoclơ thì thực thể đó bgồm cả 4 ytố: đất, nước, lửa và không khí…Đỉnh cao trong quan niệm về vật
chất ở tkì cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmocrip. Theo thuyết này thì VC là nguyên tử và nó là
phần tử nhỏ bé nhất, ko thể phân chia được, ko thể xâm nhập, ko quan sát được và nói chung là ko nhận biết
đươc. Nguyên tử chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy. Nguyên tử có vô vàn hình dạng. Sự kết hợp hay tách
rời các nguyên tử theo các trật tự khác nhau sẽ tạo nên những SV-HT khác nhau. Thuyết nguyên tử cổ đại tồn
tại đến cuối thế kỉ 19 đầu tkỉ 20 mới bị KH đánh đổ, và tất nhiên nó còn có những hạn chế lsử nhất định. Song
thuyết nguyên tử đã có vtrò to lớn trong việc định hướng cho sự ptriển KH nói chung đbiệt là lvực vật lý sau
này. Đồng thời nó có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống CNDT, thần học, tôn giáo.
Vào tkì cổ đại ở phương đông quan niệm VC được thể hiện qua một só trường phái TH Ấn Độ và Trung Hoa
về TG.
- âđộ có trường phái LOKAYATA cho rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4 ytố Đất- Nước -Lửa- Khí.
Tính đa dạng của vạn vật là do sự kết hợp khác nhau của 4 ytố đó tạo thành.
- Thuyết âm dương của Trung Hoa cổ đại cho rằng mguyên lý vân hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật là từ
sự tương tác của những thể đối lập nhau đó là âm và dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng phản náh khái
quát những thuộc tính của vạn vật như là nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn…Dương cũng là phạm trù
rất rộng đôíư lập với âm, phản ánh những thuộc tính như cương, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ…Â&D ko
tồn tại độc lập tuyệt đối với nhau mà tác động, ảnh hưởng, thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau tạo thành vụ
trụ và vạn vật ( thống nhất trong Thái cực, trong  có D, trong D có Â, D cực thì  sinh,  thịnh thì D khởi…)
Thuyết ngũ hànhcủa Trung Hoa cổ đại lại có xu hướng phân tích về cấu trúc của vạn vật để qui nó về những
ytố khởi nguyên với tính chất khác nhau và sự tương tác khác nhau. Theo thuyết này có 5 ytố khác nhau tạo nên
vạn vật là: K-M-T-H-T
+ Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, ở phía Tây
+ Mộc ---------------------------- xanh, chua, ở phía Đông
+ Thuỷ ------------------------------ đen, mặn, ở phía Bắc
+ Hoả ------------------------------- đỏ, đắng, ở phía Nam
+ Thổ ------------------------------- vàng, ngọt, ở giữa
Năm ytố này ko tồn tại biệt lập tuyệt đối mà chúng có tác động ảnh hưởng lẫn nhau theo nguyến tắc tương
sinh, tương khắc để tạo ra vạn vật.
Những tư tưởng về Â-D, ngũ hành, tuy còn có những hạn chế nhất định nhưng đó là triết lý đsắc mang tính
duy vật và biện chứng nhằm lý giải về vật chất và cấu tạo của vũ trụ và nó có ảnh hưởng to lớn đến TG quan
TH ko những ở Trung Hoa sau này mà còn đvới những nước chịu ảnh hưởng của TH Trung Hoa.
Vào tkì cận đại ( tkỉ 17, 18 ) nền KH tự nhiên, thực nghiệm ở Châu Âu có sự ptriển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên
lvực vật lý học với phát minh của Niu-ton, phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng rất
lớn vào trong TH. Sự xâm nhập ấy đã chi phối sự hiểu biết, nhận thức về vật chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã
được giải thích là sự tác động qua lại giữa lực hút và lức đẩy giữa các SV. Mọi sự phân biệt về chất giữa các SV
đều bị quy giản về sự khác nhau về mặt lượng. Vì vậy, các nhà THDV tkì này đã đồng nhất vật chất với khối
lượng; kế thừa quan điểm nguyên tử luận của thời cổ đại vẫn coi nguyên tử là dạng vật chất nhỏ bé nhất ko thể
pchia được, tách rời nguyên tử với vận động, ko gian, thời gian, coi vận động của VC chỉ là vận động cơ học
( sự thay đổi của nó chỉ là mặt vtrí, hình thể trong ko gian ). Họ lý giải ng.nhân của sự vận động đó là do tác
động từ bên ngoài dẫn đến thừa nhận “cái hích của thượng đế”.
Vào tkỉ 19, trong nền TH cổđiển Đứcm xhiện nhà THDV vĩ đại là Phoiơbắc, ông đã chứng minh và khẳng định
rằng TG này là vật chất và vật chất theo ông là toàn bộ TG tự nhiên. Nó ko do ai stạo ra, tồn tại độc lập với
4
ythức và ko phục thuộc vào bất cứ thực thể tinh thần hay 1 ý niệm nào đó. Csở tồn tại của VC nằm ngay trong
bản thân nó. Tuy nhiên, Phobách lại ko thấy được mqh giữa VC và YT, mqh giữa con người và XH, cũng như
hoạt động VC của con người là gì. Mặc dù vậy những qniệm của ông về VC đã có ý nghĩa lsử to lớn trong cuộc
đtranh chống CNDT và tôn giáo, trong việc khôi phục những tư tưởng DV thành hệ thống. Và vì vậy THDV
của ông đã trở thành một trong những tiền đề, nggốc lý luận của TH Mác xít sau này.
Đến cuối tkỉ 19 đầu tkỉ 20, những phát hiện mới trong vật lý học đã làm đảo lộn qniệm máy móc, siêu hình về
VC và tạo csở KH vững chắc cho qniệm về VC của TH Mác. Năm 1895 Rơn-ghen phát hiện tia X; năm 1896
Béc-cơ-ren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của ngtố U-ran; 1897 Tôm-xơn phát hiện ra điện tử; 1898-1902
ông bà Quy-ri khám phá các phóng xạ mạnh là pô-lô-ni và ra-đi. Tất cả những phát hiện đó chứng tở dứt khoát
rằng nguyên tử ko phải là nhỏ nhất, mà có thể bị phân rã chuyển hoá.
Năm 1905 thuyết tương đối hẹp của Anh-xtanh ra đời, từ đó trở đi KH đã chứng minh rằng khối lượng ko phải
là bất biến và có ko đặc trưng cho VC nói chung được. Hàng loạt những phát hiện tiếp theo, cho đến nay ta đã
biết có gần 299 hạt cbản và mỗi hạt cbản đó cũng là cả một TG có kết cấu và thuộc tính vô tận ở bên trong. Mọi
đối tượng VC đều là những hệ thống kết cấu bao hàm nhiều nhân tố khcá nhau hợp thành. Trong từng hệ thống,
mỗi nhân tố đều có tính độc lập tương đối củ nó, nhưng tất cả đều có quan hệ chuyển hoá qua lại, thâm nhập
vào nhau, tạo nên những nội dung tổng hợp, Những tính chất mới chung cho toàn bộ hệ thống mà từng nhân tố
riêng biệt ko có. Mỗi SV đều là 1 hệ thống toàn bộ, chỉnh thể của nhiều nhân tố.
Trong TG ko có và ko thể có những đối tượng ko có kết cấu, tức ko thể có đơn vị cuối cùng để đặc trưng
chung cho VC. Chính vì thế dự đoán thiên tài của Lênin cho rằng “ điện tử cũng vô cùng như nguyên tử, tự
nhiên là vô tân” đã htoàn được KH hiện đại xác minh. Mặt khác, Kh cũng đme lại hang loạt những phát hiện
chứng minh rằng mọi đối tượng VC với tất cả những thuộc tính cụ thể của nó ko phải là bất biến, tất cả đều ko
ngừng sinh ra và ko ngừng chuyển hoá thành cái khác. Vdụ: sự chuyển hoá giữa hạt và trường, hạt và phản hạt,
hạt khối lượng, qhệ bất định… tất cả đều chững tỏ tính đa dạng, phong phú của TG do vận động, chuyển hoá
của các đối tượng VC tạo ra.
Từ những phát hiện mới của Vật lý, có những nhà KH “giỏi KH nhưng kém cỏi về TH” đã rút ra những kết
luận sai lầm về mặt TG quan như sau:
+ Nguyên tử ko phải là đơn vị nhỏ nhất, có thể bị pchia, bị tan rã, bị “mất đi”, do đó VC có thể bị biến mất.
+ Qui luật học ko còn tác dụng gì trong TG “kì lạ” này nữa, phải chăng TG tồn tại ko có tính qluật gì nữa, KH
sẽ trở thành thừa ?
+ Có hiện tượng ko có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường như vậy phải chăng VC chỉ còn là năng
lượng, là song phi VC ?
Từ những kết luận đó, nhiều nhà KH tự nhiên đã trượt từ CNDV máy móc, siêu hình, đến chủ nghĩa tương
đối, hoài nghi rồi đến CNDT. Lê-nin cho đó là: “một bước ngoặt nhất thời, là mọt tkì ốm đau ngắn ngủi trong
lsử KH, một chứng bệnh của trưởng thành” và để giải quyết cuộc khủng hoảng này Lê-nin cho rằng: “ tinh thần
duy vật cbản của vật lý học, cũng như của tất cả KH tự nhiên hiện đại sẽ chiến thắng được tất cả mọi thứ khủng
hoảng, nhưng với đkiện tất yếu là CNDV biện chứng phải thay thế CNDV siêu hình”.
- Mác đã nêu ra qniệm về sự đối lập giữa VC và YT, về bản chất và tính thống nhất VC của TG, về tính chất
khát quát của phạm trù VC và sự tồn tại của VC dưới các dạng cụ thể. Lê-nin đã đem đối lập VC với YT để
định nghĩa VC là đặc điểm mới trong qniệm của CNDV Mác xít về VC. Điều đó đã giải quyết được về mặt
nhận thức luận trong vật lý học đầu tkỉ 20 và khẳng định một cách chắc chắn sự đúng đắn của qniệm DV trước
mác chưa làm được.
TL: Các nhà TH DV trước Mác trong cuộc đấu tranh chống CNDT đã hết sức qtâm giải quyết vđề cốt lõi là
VC. Họ đã đưa ra những kiến giải khác nhau về VC và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đvới
lsử ptriển của TH DV. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất VC với vật thể hoặc
một thuộc tính nào đó của vật thể., họ ko thấy được sự tồn tại của VC gắn liền với vận động và họ ko chỉ ra
được biểu hiện của VC trong đời sống XH và chỉ đến khi TH Mác xít xuất hiện thì phạm trù VC mới được giải
quyết một cách KH.
Câu 3: Định nghĩa vật chất của Lê-nin?
VC với tính cách là một phạm trù TH đã ra đời trong TH Hy Lạp ở tkì cổ đại. Ngay từ lúc mới xuất hiện, xung
quanh phạm trù này diễn ra cuộc đấu tranh ko khoan nhượng giữa CNDV và CNDT. Cùng với sự tiến triển của
tri thức loài người, đến nay nội dung của phạm trù này đã trải qua những biến đổi sâu sắc.
Vào thời đại của mình C.Mác –Ănghen đã đưa ra qniệm về VC như sau: “VC với tính chất là VC, là môt sự
stạo thuần tuý của tư duy, là sự trừu tượng hóa thuần tuý. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất của
những SV mà chúng ta gộp chúng, với tư cách là những SV tồn tại hữu hình vào khái niệm VC. Do đó, khác
với những VC nhất đinh và đang tồn tại, VC với tính cách là VC ko có sự tồn tại cảm tính”. Như vậy, trong tư
5
tưởng của mình, Mác-Ănghen đã nhấn mạnh VC là cái tồn tại khách quan bên ngoài YT và để hiểu được VC thì
phải trừu tượng hoá. Nó ko phải là một dạng cụ thể nào đó mà chỉ bằng cảm tính người ta coa thể nhận biết
được nó. Tuy nhiên do có những hchế về đkiện lsử khách quan nên M-Ăg đã chưa đưa ra được một định nghĩa
hoàn chỉnh về VC.
Vào cuối tkỉ 19-đầu tkỉ 20, KH tự nhiên và những đkiện lsử, ktế, XH…dã có những thay đổi lớn, lquan trực
tiếp đến vđề cbản của TH và đòi hỏi phải có nhận thức mới, qniệm mới về VC.
Trên lvực KH tự nhiên. 1895 Rơn-ghen phát hiện ra một tia lạ (tia X)- đó là một song điện từ có khả năng
xuyên thấu. Năm 1896 Béc-cơ-ren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của ngtố U-ran. 1897 Tôm-xơn phát hiện
ra điện tử(e) và chứng minh được rằng điện tử là một thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Năm 1901 Kaufman
chứng minh được khối lượng của điện tử ko phải là khối lượng tĩnh mà thay đổi theo tố độ vận động của nó,
Như vậy, KH tự nhiên với những phát minh đó đã bác bỏ một cách trtực diện những quan điểm siêu hình về
VC. Những qniệm về giới hạn cuối cùng của VC là nguyên tử, nó ko thể pchia được, ko thể xuyên qua, khối
lượng của nó là ko thể thay đổi đã sụp đổ htoàn trước những phát minh KH Điều này đã gây nên cú sốc, sự
hoang mang cho các nhà KH tự nhiên và xuất hiện cuộc khủng hoảng trên lvực vật lý học.
Trên bình diện TH của những người theo CNDT đã lợi dụng những phát minh KH để tấn công CNDV, phủ
nhận CN Mác. Họ cho rằng VC đã tiêu tan vì vậy CNDV ko có csở để tồn tại, họ cho rằng chỉ có YT và thần
linh tồn tại. Vì vậy, nhiệm vụ cần khái quát những thành tựu của KH tự nhiên đưa TH Mác lên một tầm cao
mới và XD một định nghĩa hoản chỉnh về VC đã được đặt ra
Về mặt lsử XH, đầu tkỉ 20 trung tâm của cách mạng TG đã chuyển dần từ Tây Âu sang Đông Âu tập trung ở
nước Nga, nơi mà những mâu thuẫn về giai cấp, dtộc, XH ngày càng trở nên gay gắt. Những đkiện khách quan
và chủ quan cho một cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga đang tới gần. Cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng,
bình diện lý luận giữa những người cộng sản với CN cơ hội, xét lại, duy tâm…đang diễn ra quyết liệt, vđề bvệ,
ptriển TH Mác-Ănghen làm csở phương pháp luận cho cuộc cách mạng sắp tới đã được đặt ra 1 chách trực tiếp.
Từ tất cả những ycầu đó đã đặt ra vđề cần phải bvệ và ptriển THDV cảu Mác chống lại CNDT, CN cơ hội,
giải quyết cuộc khủng hoảng trên lĩnh vực vật lý và KH tự nhiên, chuẩn bị về mặt lý luận cho cuộc cách mạng
vô sản đang tới gần. Lê-nin đã viết một tác phẩm quan trọng: “CNDV và CN kinh nghiệm phê phán” và chính
trong tác phẩm này khái niệm VC đã được định nghĩa 1 cách rõ rang, mang tính kinh điển. Theo Lê-nin: “VC
là một phạm trù TH dung để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác cảu chúng ta sao lại, chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác”.
Với định nghĩa này, trước hết Lê-nin khẳng định VC là một phạm trù TH tức là VC là đối tượng nghiên cứu
của TH. Nó là VC mói chung ko phải là các vật thể với tư cách là đối tượng của các ngành KH cụ thể.
- VC là cái tồn taị khách quan ở bên ngoài YT, ko phụ thuộc vào YT, tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và ko
phục thuộc vào YT của con người thì đều thuộc về phạm trù VC. Đây là thuộc tính cbản nhất, chung nhất của
mọi dạng VC. Là cái căn bản để phân biệt đâu là VC, đâu ko phải là VC.
- VC cũng là cái gây nên ở con người cảm giác về cự tồn tại của chúng, khi nó tác động lên các giác quan của
con người bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp. Điều này có nghĩa là VC lá cái có thật tồn tại
thực sự và con người hoàn toàn có thể nhận biết được sự tồn tại đó, thông qua các phương tiện công cụ KH. VC
ko phải là cái hư vô hoặc là cái thần bí để con người ko thể nhận biết được nó. Nghĩa là ngoài dấu hiệu tồn tại
khách quan, VC còn có thể có một thuộc tính quan trọng khác là tính có thể nhận thức được. Vì vậy, về nguyên
tắc, ko có đối tượng nào ko thể nhận biết, chỉ có những đối tượng chưa được nhận thức mà thôi. Điều này đã
bác bỏ h.toàn thuyết ko thể biết, cổ vũ và động viên các nhà KH ngày càng đi sâu vào TG VC, phát hiện những
kết cấu mới, những thuộc tính mới cung như qluật vận động và ptriển cảu TG, từ đố làm giàu thêm kho tang tri
thức nhân loại.
-VC cũnglà cái mà cảm giác của con người, tư duy, YT con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh về nó mà
thôi.Điều này chứng tỏ VC là cái có trước, còn YT về VC là cái có sau. Những nội dung của YT chẳng qua là
từ TG VC được di chuyển vào trong bộ óc con người.
Cần chú ý, về mặt phương pháp, Lê-nin chỉ ra rằng ko thể định nghĩa VC bằng phương pháp định nghĩa các
khái niệm thông thường, nghĩa là qui khái niệm cần định nghĩa vào các khái niệm rộng hơn nó rồi chỉ ra đặc
điểm của nó.
Nhưng với phạm trù VC, với tư cách là một phạm trù TH- một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà
cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được”. Với phạm trù này, phương pháp định nghĩa
thông thường- quy phạm trù cần định nghĩa vào một phạm trù khác rộng hơn, đồng thời chỉ ra đặc điểm riêng
của nó- trở thành bất lực. Người ta ko thể qui VC vào một phạm trù nào rộng hơn nó. Do vậy, ko thể có phạm
trù nào rộng hơn phạm trù VC – thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định nghĩa VC bằng cách đối
lập nó tuyệt đối với YT, xem VC là thực tại khách quan tồn tại độc lập với YT, YT là cái phản ảnh nó. Lê-nin
6
khẳng định “ VC ko phải là cái gì khác hơn là thực tại khách quan tồn tại độc lâp với YT con người, và được
YT con người phản ánh”.
Chú ý: Sự đối lập giữa VC và YT vừa mang ý nghĩa tuyệt đối, vừa mang ý nghĩa tương đối. Tuyệt đối là ở chỗ
trên phương diện nhận thức luận để nhằm phân biệt rạch ròi cái gì là VC, cái gì ko phải là VC nhằm khẳng định
VC có trước, YT có sau. Còn tương đối là ở chỗ nói về qhệ biện chứng và sự tác động qua lại giữa VC và YT
nhằm khẳng định nguồn gốc nội dung của YT lại có liên quan mật thiết với VC.
Lê-nin từng nhấn mạnh: “ Dĩ nhiên sự đối lập giữa VC và YT có ý nghĩa hết sức hẹp trong vđề nhận thức luận
về cbản là thừa nhận cái gì là có trước cái gì là có sau. Ngoài ra ko còn nghi ngờ gì nữa, rằng sự đối lập ấy chỉ
là tương đối”
Định nghĩa về VC của Lê-nin là kết quả của sự khái quát những thành tựu KH và hoạt động thực tiễn của con
người. Định nghĩa này đã khắc phục được những nhược điểm, khiếm khuyết trong qniệm, quan điểm của các
nhà DV trước đây về VC, đã bvệ và ptriển TH Mác lên một tầm cao mới. Khắc phục được cuộc khủng hoảng
trên lvực vật lý, định hướng cho các nhà KH tự nhiên tiếp tục nghiên cứu, phát minh ra các dạng khác nhau của
VC. Nó có ý nghĩa TG quan và phương pháp luận rất quan trọng trong việc nhận thức và cải tạo TG, trong cuộc
đấu tranh chống CNDT, thuyết ko thể biết, CNDV siêu hình và mọi biến tướng của chúng trong các trào lưu
TH tư sản hiện đại.
Đồng thời thông qua định nghĩa VC, Lê-nin đã giúp cho các nhà KH xác định rõ hơn về các dạng VC cụ thể,
đặc biệt là trên lvực XH, có csở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của những biến cố XH,
những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức SX, trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra phương án
tối ưu để hoạt động thúc đẩy XH ptriển.
7
CHỦ ĐỀ 3: VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG
Câu 4: quan điểm Mác xít về vận động
Trong TH, bàn về phạm trù VC luôn gắn liền với việc phải bàn tới các phạm trù liên quan tới sự tồn tại của nó.
Đó là phạm trù vận động, ko giân và thời gian. Những phạm trù trên xuất hiện rất sớm trong lsử TH. Cùng với
thời gian, nội dung của các phạm trù trên đã đượ làm phong phú, sâu sắc thêm nhờ sự phát triển của các KH cụ
thể. Vậy vận động là gì ? Các trường phái TH khác nhau có quan điểm hết sức khác nhau về vận động.
CNDT, xuất phát từ lập trường phủ nhận sự tồn tại cảu VC. , CNDT đã phủa nhận luôn sự vận động của VC.,
họ chỉ thừa nhận sự vận dodọng của TT, linh hồn hay ý niệm tuyết đối…Có nghĩa là họ đã tách vận động ra
khỏi VC, trở thành vận động thuần tuý.
Quan điểm của CNDV trước Mác ko coi trọng vđề vận động của VC hoặc có thừa nhận sự vận động của VC
nhưng lại qniệm rằng sự vận động đó chỉ là sự chuyển dịch về mặt vtrí trong ko gian (vận động cơ học), đồng
thời nhấn mạnh nguyên nhân sự vận động đó là do sự tác động từ bên ngoài.
Theo qniệm của CNDVBC thì vận động là mọi sự biến đổi, biến hoá nói chung. Ănghen định nghĩa như sau:
“Vận động, hiểu thao nghĩa chung nhất- tức được hiểu là phương thức tồn tại của VC, là một thuộc tính cố hữu
của VC, - thì bgồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vtrí đơn gian
cho đến tư duy”
+ TH Mác xít khanửg định sự vận động gắn liền với VC, và ko có VC nào mà ko tham gia vào hình thức vận
động nào đó. Vận động là thuộc tính cố hữu của VC, la phương thức tồn tại của VC. Điều đó có nghĩa là vận
động là cái vốn có của mọi đối tượng VC và các dạng VC tồn tại bằng vận động và thông qua vận động. Chỉ có
vận động thì mọi dạng VC mới chứng tỏ sự tồn tại, sự hiện diện của chính mình. “ko thể hình dung nổi” “VC
ko có vận động”. Ngược lại cũng ko thể tưởng tượng nổi vận động nào lại ko phỉa là vận động của VC, ko
thuộc về VC. Có nghĩa là vận động luôn gắn liền với VC. Ko có 1 loại vận động nào là thuần tuý, diễn ra bên
ngoài VC. Bản thân sự vận động của tư duy, ú thức về thực thể cũng là sản phẩm của sự vận động của TG VC.
Ở đâu có VC thì ở đố có vận dộng và các dạng vận động gắn liền với các dạng khác nhau của TG VC.
Mác-Ănghen đã nhấn mạnh: “ Các hình thức và các dạng khác nhau của VC chỉ có thể nhận thức được thông
qua vận động, thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động và về một vật thể ko vận động thì ko có gì để nói
cả”
+ Với tính cách là thuộc tính bên trong, vốn có của VC, theo quan điểm của TH M-L, vận dodọng của VC được
tạo nên do sự tác động lẫn nhau giữa các thành tố trong cấu trúc của VC. Mọi sự biến đổi của VC ko phải do
nguyên nhân bên ngoài tác động vào, mà nguồn gốc của sự vận động nằm ngay bên trong bản thân SV, ko có 1
sức mạnh nào nằm bên ngoài VC lại khiến cho VC vận động. Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa cá ytố, đặc
biệt ;là việc giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong môic SV chính là nhân tố tao nên nguồn sinh
lựa làm cho SV đó biến đổi. Đây là csở KH để TH Mác xít khẳng định: “ V/đ của VC là tự thân v/đ”. Luận
điểm này ngày càng được chứng minh bởi những thành tựu của các ngành KH tự nhiên.
+ V/đ của VC là vĩnh viễn, ko do ai stạo ra và ko thể bị tiêu diệt. V/đ gắn liền với VC và do vậy v/đ cũng vô
cùng, vô tận và bất diệt như VC. V/đ được bảo toàn cả về lượng và chất, nếu 1 hình thức v/đ nào đó bị chấm
dứt thì đó cũng là điểm khởi đầu nảy sinh 1 hình thức v/đ khác thay thế nó. Điều đó có nghĩa bản thân các hình
thức v/đ của VC có khả năng chuển hoá cho nhau, thay đổi vtrí lẫn nhau còn v/đ nói chung thì vĩnh viễn tồn tại
cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của VC. Ănghen nhấn mạnh: “ Cần phải hiểu tính bất diệt của v/đ ko chỉ đơn
thuần về mặt ssố lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa”. Nhận định này chứng minh, đặc biệt là
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng.
+ Khi TH M-L khẳng định TG VC tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó, thì điều đó ko có nghĩa là phủ
nhận hiện tượng đứng im của TG VC. Trái lại, CNDVBC thừa nhận rằng quá trình vận động ko ngừng của TG
VC chẳng những ko lại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối, ko có hiện tượng đứng im
tương đối thì ko có SV nào tồn tại được. Tuy nhiên, trạng thái đứng im chỉ là tương đối, tạm thời, là có điều
kiện xét trong một thời điểm, 1 mqhệ cụ thể xác định nào đó. Về thực chất đứng im cũng là một dạng v/đ đặc
biệt- v/đ trong trang thái cân bằng. Ănghen đã nhận xét: “ V/đ riêng biệt có xu hướng chuyển hoá thành cân
bằng nhưng v/đ toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt, mọi sự cân bằng chỉ là tương đối,là tạm thời trong
sự v/đ tuyết đối ko ngừng của”.
+ Các hình thức v/đ của VC là hết sức đa dạng, phong phú và nhiều vẻ, song TH M-L đã khái quát sự đa dạng
nhiều vẻ ấy trong 5 hình thức sau:
-V/đ cơ học: biểu hiện qua sự chuyển dịch của các vật thể trong ko gian.
- V/đ vật lý: biểu hiện qua sự biến đổi của các phân tử, hạt, song…và các quá trình như nhiệt, điện, quang.
- V/đ hoá học: biểu hiện qua sự biến đổi các nguyên tố, hợp chất, các quá trình phân giải, hoá hợp, các phản
ứng hoá học…
8
- V/đ sinh học: biểu hiện qua quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường.
- V/đ XH; thể hiện qua sự biến đổi va fthay thế lẫn nhau của các chế độ XH, các hình thái ktế XH trong lsử.
+ Khi phân chia các hình thức v/đ TH M-L nhấn mạnh: Các hình thức v/đ khác nhau về chất, từ v/đ cơ học đến
v/đ XH thể hiện sự ptriển tiến lên từ thấp đến cao về mặt trình độ v/đ. Trong đó, trình độ v/đ cao có thể bao
hàm trình độ v/đ thấp, song trình độ v/đ thấp ko thể chứa đựng trình độ v/đ cao hơn nó.
+ trong sự tồn tại của mình mỗi SV. Mối kết cấu VC khác nhau có thể tham gia vào nhiều hình thức v/đ khác
nhau. Song bản thân sự tồn tại của kết cấu VC bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức v/đ cơ bản nào
đó. Điều này là khách quan do dạng VC đó tự lựa chọn, nhìn chung kết cấu đơn giản thì hình thức v/đ ở dạng
thấp. Riêng đối với con người và XH người thì hình thức v/đ đặc trưng là v/đ XH, là những qui luật XH.
Ý nghĩa: Khi nghiên cứu giải quyết một SV hay vđề nào đó, cần phải đặt nó trọng trạng thái v/đ biến đổi ko
ngừng và thông qua việc nghiên cứu những biến đổi của nó để tìm hiểu, xác định bản chất của vđề.
- Cần xác định đúng những hình thức v/đ đặc trưng cho SV hiện tượng hay vđề đang nghiên cứu, đặc biệt cần
chống xu hướng áp đặt v/đ sinh học vào trong đời sống XH và giải quyết những vđề XH. Việc giải quyết những
vđề XH cần phải vận dụng các qui luật v/đ XH để giải quyết.
- Cần chống quan điểm siêu hình, bảo thủ, định kiến trong nhận thức và hành động trong thực tiễn, cần XD
quan điểm v/đ với tư duy năng động.
9
CHỦ ĐỀ 4: PHẠM TRÙ Ý THỨC
Câu 5: Nguồn gốc và bản chất của ý thức:
Lsử TH là lsử của những cuộc đấu tranh xung quanh những vđề cbản với 2 phạm trù lớn là VC và YT. Nếu
CNDT cho rằng YT có trước và sinh ra VC, quyết định VC; thì CNDV tầm thường lại coi YT như là 1 dạng
VC. Những quan điểm này đầu ko có tính KH. Trên csở những thành tựu TH DV, của KH và của thực tiễn XH,
TH M-L khẳng định: YT là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động,
stạo.
Theo quan điểm Mác xít YT được hình thành từ 2 nguồn gốc: tự nhiên và XH.
* Nguồn gốc tự nhiên: Trước Mác, nhiều nhà DV tuy ko thừa nhận tính chấtm siêu nhiên của YT, song do KH
chưa phát triển nên cũng đã ko giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của YT. Dựa trên những thành tựu của
KH tự nhiên, đặc biệt là KH sinh lý học thần kinh, TH Mác xít khẳng định rằng: YT là một thuộc tính của VC,
nhưng ko phải là bất kì một dạng VC nào, mà chỉ có ở dạng VC sống, có tổ chức cao, có cấu trúc tinh vi và
hoàn thiện đó là bộ óc của con người. Bộ óc người là cơ quan VC của YT và YT là chức năng của bộ óc người,
hoạt động của YT diễn ra trên csở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người và khi hệ thống thần kinh của bộ
óc bị tổn thương thì hoạt động tâm lý cảu YT sẽ bị rối loạn. Vì vậy, ko thể tách rời hoạt động YT ra khỏi hoạt
động sinh lý thần kinh, tuy nhiên quá trình YT ko đồng nhất với quà trình sinh lý thần kinh. Thực ra nó là hai
mặt của một quá trình duy nhất đó là quá trình sinh lý thần kinh trong óc người mang nội dung YT. TH Mác xít
cũng chỉ rõ ko có bộ óc người thì ko thể có YT, tuy nhiên chỉ riêng bộ óc con người thôi thì chưa thể hình thành
nên YT.
- YT con người có liên quan mật thiết với TG VC, là sự ptriển đến đỉnh cao cảu 1 thuộc tính phổ biến của mọi
dạng VC- đó là thuộc tính phản ánh. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống VC này ở một hệ
thống VC khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào 2 ytố đó là
vật tác động và vật nhận tác động. Trong đó, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động
lên nó. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của YT.
Thuộc tính phản náh của VC có quá trình ptriển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong giới tự nhiên
vô sinh chỉ có sự phản ánh vật lý, hoá học. Sự phản ánh này mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa
chọn. Trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đã ptriển lên một trình độ cao hơn, đó là phản ánh sinh học, thể
hiện qua các hình thức như sự kích thích ( ở thực vật), các phản xạ ( ở động vật. Đến động vật cao cấp có đầu
óc, sự phản ánh đạt đến trình độ tâm lý động vật, Tuy nhiên đó chưa phải là YT, mà sự phản ánh đó mang tính
bản năng do qui luật sinh học chi phối. YT chỉ nảy sinh ở giai đoạn ptriển cao nhất của TG vcgắn liền với sự
xuất hiện của con người và sự phản ánh cũng đạt đến trình độ cao nhất. YT là YT của con người, nằm trong con
người, ko thể tách rời con người. YT ra đời là kết quả sự ptriển lâu dai của thuộc tính phản ánh của VC, nội
dung của nó là thông tin về TG bên ngoài, về vật được phản ánh. YT là sự phản ánh TG bên ngoài vào trong bộ
óc người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có YT. Ko có sự tác đọng
của TG bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động YT ko thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người
cùng với TG bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của YT.
* Nguồn gốc XH: Để cho YT ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, ko thể thiếu được,
song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của YT là những tiền đề, nguồn gốc XH. YT ra đời cùng với
quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ XH. YT là sản phẩm của sự phát
triển XH, phụ thuộc vào XH và ngay từ đầu đã mang tính XH.
Quá trình hình thành YT ko phải nhờ sự tác động thuần tuý, mọt chiều của TG bên ngoài vào bộ óc người mà
chủ yếu thông qua hoạt dodọng thực tiễn của con người trong quá trình tác động cải tạo TG khách quan. Chính
thông qua hoạt động đó, con người đã chủ động tác động vào TG bên ngoài, buộc TG bên ngoài phait bộc lộ
những tính chất, thuộc tính, đặc điểm qui luật vận động của nó để con người nhận thức. Qua đó con người có
những tri thức, có những hiểu biết về TG bên ngoài. Trong những hoạt động thực tiễn của con người, TH Mác
xít đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò ý nghĩa tác dụng của hoạt động LĐ SX. Hoạt động này đen lại cho con người
cả 2 giá trị. Một là: tạo ra những sản phẩm VC để con ngườ thoả mãn những nhu cầu của sự tồn tại của mình…
Hai là: thông qua LĐ SX đã khám phá ra những bí mật cảu giói tự nhiên, có những kinh nghiệm trong qhệ với
giới tự nhiên. Đồng thời cũng qua quá trình đó các giác quan của ocn người ngày càng trở nên hoàn thiện. Tác
động sinh lý thần kinh của con người ngày càng trở nên có hiệu quả. Tức là con người ngày càng hoàn thiện
bản thân và điều đó có tác dụng quyết định hình thành nên YT của bản thân họ. Như vật qua LĐ con người dần
tích luỹ những hiểu biết, tri thức của mình về TG hiện thực, từ đó hình thành nên YT.
- Ngôn ngữ: Cũng chính trong quá trình LĐ ấy, ở con người xuất hiện nhu cầu phải trao đổi kinh nghiệm, tri
thức, thông tin cho nhau…từ nhu cầu đó làm nảy sinh hệ thống ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một trong những đặc
trưng cbản của con người để phân biệt với loài vật. Ngôn ngữ chính là cái voẻ VC của tư duy, nó vừa là phương
tiện để giao tiếp XH, vừa là công cụ để tư duy và động thời ptriển YT. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà những tri
10
thức cảu con người được tích luỹ truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, cũng như để khám phá hình thành
những tri thức mới. YT do vậy ko phải là hiện tượng của mỗi cá nhân riêng lẻ mà là một hiện tượng có tính XH.
Ănghen khẳng đinh: “ trước hết là LĐ và sau LĐ là ngôn ngữ, đólà 2 kích thích tố cho ra đời YT ”.
Tóm lại: YT ra đời từ 2 nguồn gốc tự nhiên và XH, nếu thiếu một trong hai nguồn gốc ấy thì YT ko thể ra đời
được. Tuy nhiên nguồn gốc XH là chủ yếu và mang tính quyết định.
Bản chất của YT:
TH M-L khẳng định: “bản chất của YT là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người một
cách năng động sang tạo”. Điểm xuất phát để làm rõ vấn đề này là phải thừa nhận YT là sự phản ánh, là cái
phản ánh, còn hiện thực khách quan là cái bị phản ánh. Ở trong mqhệ này, cái bị phản ánh tồn tại khách quan ở
bên ngoài con người, còn cái phản ánh- tức là YT- thì lại phụ thuộc vào con người, là YT của con người. Vì
vậy, YT là hình ảnh chủ quan của TG khách quan bên ngoài. Tuy nhiên YT ko phải là sự phản ánh tuỳ tiền,
xuyên tạc hiện thực, nó cũng phải là sự phản ánh thụ động giản đơn sao chép một cách máy móc hiện thực bên
ngoài. YT là của con người, mà con người là thực thể XH năng động stạo. Do đó, sự phản ánh của YT mang
tính năng động, stạo. YT có bản chất là sự phản ánh stạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn XH. Vì vậy, “YT
chẳng qua chỉ là VC được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”. Nói cách
khác, YT là hình ảnh chủ quan của TG KQ, là sự phản ánh năng động stạo HT KQ vào trong bộ óc con người.
Tính stạo của YT được thể hiện bên ngoài rất đa dạng, phong phú. Nó phản ánh lại hiện thực bên ngoài theo
nhu cầu thực tiễn của XH nhằm phục vụ lại lợi ích của con người. Nó có thể tạo ra những tri thức mới về SV,
có thể tưởng tượng ra những cái chưa có hoặc ko tồn tại trong thực tế. YT cũng có thể tiên đoán dự báo về
tương lai, có thể tạo ra được những ảo tưởng, XD nên những giả thuyết và những lý thuyết KH hết sức trừu
tượng và khái quát.
Do tính stạo của YT, quá trình của YT là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:
+ Một là: có sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sự trao đổi này có tính chất 2 chiều, có
chọn lọc, có định hướng.
+ Hai là: sự mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Về thực thể đây là quá trình mã
hoá các đối tượng VC thành các ý tưởng tinh thần phi VC.
+ Ba là: chuyển mô hình từ trong tư duy ra thành HT KQ, tức là quad trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua
hoạt động thực tiễn nhằm biến các ý tưởng, kế hoạch trong tư duy thành các dạng VC bên ngoài. . Trong giai
đoạn này, con người lữa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào HT KQ nhằm thực
hiện mục đích của mình.
Tuy nhiên, cần lưu ý tính stạo của YT ko có nghĩa là YT đẻ ra VC. Stạo của YT là stạo của sự phản ánh, theo
qui luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kêt quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Stạo và
phản ánh là 2 mặt thuộc bản chất của YT. YT – trong bất cứ trường hợp nào – cũng là sự phản ánh và chính
thực tiễn XH của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, stạo của bộ óc.
Trong hoạt động thực tiễn, một mặt chúng ta phải chống quan điểm chủ quan, duy ý chí, nhưng mặt khác
chúng ta phải phát huy tính năng động, tích cực khi kết hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách
quan, song ý thức chỉ phát huy vtrò tích cực khi kết hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan với đkiện khách quan,
YT phải phản ánh đúng qui luật khách quan. Đồng thời chúng ta phải chủ động dự báo tương lai trên csở phản
ánh đúng đắn hiện thực, phát hiện ra những vđề thuộc bản chất, những qui luật vận động của hiện thực, từ đó
hướng dẫn hoạt động của con người theo qluật.
Câu 6: quan niệm của TH DV biện chứng về kết cấu của YT
ÝT là sự phản ánh htkq vào trong bộ óc nguời 1 cách năng động, sang tạo.
Yt thuộc về hện tượng tinh thần và là 1 vđề hết sức phức tạp, là đ/tượng n/c của nhiều ngành khoa học khác
nhau như tâm lý học,sinh học,TH..
Trong l/vực TH trường phái triết học khác nhau cũng dưa ra những cách tiếp cận, lý giảikhác nhau xung quanh
vđề YT. TH Mác cho rằng ý thức là sự p/á của HTKQ và HTKQ hết sức đa dạng, phức tạp, nhiều vẻ. Vì vậy,
YT với tư cáh là sự phản ánhhtkq đó cũng rất đa dạng, phong phú và có kết cấu phức tạp, bao gồm những thành
tố có q/hệ với nhau theo những t/c, những kết cấu khác nhau. Tuỳ theo góc độ tiếp cận cũng như mục đích yêu
cầu nghiên cứu thì ý thức có thể phân chia theo những kết cấu khác nhau như sau:
a- Nếu tiếp cận từ góc độ các yếu tố hợp thành theo lát cắt chiều ngang thì kết cấu của YT bao gồm: Tri thức, tình
cảm, niềm tin và ý chí
Tri thức: là kết quả của quy trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư duy, tư
tuởng của c/người những thuộc tính, những q/luật của thế giới đó và diễn đạt chúng dưới h/thức ngôn ngữ hoặc
các kí hiệu. Tri thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, XH,c/người. Tri thức cũng có nhiều
11
-
cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính, lý tính, tri thức kinh nghiệm- lý luận, tri thức tiền khoa học- tri thức
kho học…
Tri thức là ph/thức tồn tại của YT, đồng thời là cách để YT thể hiện ra bên ngoài. Sự h/thành và p/triển của Yt
có liên quan mật thiết đến q/trình c/ngưòi tiếp nhận, tích luỹ những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh.
Tri thức về sự vật càng phong phú bao nhiêu thì YT về sự vật đó càng sâu sắc bấy nhiêu, càng gần với bản
chất,q/luật bấy nhiêu.YT mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì đó chỉ là sự trừu tượng trống
rỗng, không giúp ích cho con người trong hoạt động thực tiễn. Mác đã từng nhấn mạnh: “ Tri thức là ph/thức và
theo đó YT tồn tại và theo đó một cái gì đó nảy sinh ra đố với YT… Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với
YT chừng nào mà YT biết đuợc cái đó”.
Ngày nay vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển của k/tế xã hội càng trở nên rõ nét, loài nguời đang
bước vào nền kinh tế tri thức trong đó có sự sinh ra, sự phổ cập và ứng dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối
với việc phát triển kinh tế. Tất cả các nghành trong nền kinh tế áp dụng những thành tựu mới nhất của khoa học
công nghệ vào trong qúa trình sx. Vì vậy đầu tư vào tri thức, đầu tư cho khoa học trở thành yếu tố then chốt cho
sự phát triển kinh tế bền vững
Sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại cho con nguời sự hiểu biết về thế
giới mà còn đem lại những xúc cảm, tình cảm của họ về thế giới,về đ/tượng p/ánh. Tình cảm sự cảm động, rung
động của con ngưòi trong mqh giữa mình và thế giới xung quanh với xã hội, với nguời khác và đói với bản thân
mình. Tình cảm là một h/thái đặc biệt của sự p/ánh YT, nó p/ánh mqh giữa con người với con nguời,giữa con
nguời với thế giưới kỳ quan. Khi đuợc hình thành tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữu
vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của c/ngưòi.
Tình cảm có thể mang tính chủ động chứa đựng những xúc cảm tích cực và từ đó nó trở thành 1 động lực để
nâng cao năng lực sống, hoạt đông của con người. Nguợc lại tình cảm có thể mang tính thụ động chứa đựng
những cảm xúc tiêu cực và với trạng thái như vậy nó thường cản trở, ức chế hoạt động của con nguời.
Tri thức và tình cảm có quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo nên niềm tin, nâng cao ý chí để biến thành hành động
trong thực tiễn. Trong các yếu tố đó thì tri thức nhân tố cơ bản, côt lõi nhất. Không có tri thức thì niềm tin ý chí
sẽ trở nên mù quáng, tình cảm mà không dựa trên sự hiểu biết thì dễ mất phuơng hướng và không bền vững.
Nguợc lại tri thức phải biến thành 1t/cảm mãnh liệt, 1niềm tin thì mới đạt đến độ sâu sắc và thông qua đó mới
định hướng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người, nếu tri thức không hỗ trợ tình cảm để biến thành niềm
tin ý chí thôi thuc hành động thì tri thức cũng không phát huy được sức mạnh của mình.
Nếu tiếp cận từ góc độ nghiên cứu về chiều sâu của thế giới nội tâm của con người theo lát cắt chiều dọc của
YT bao gồm các yếu tố: Tưj ý thức, tiềm thức và vô thức.
Tự ý thức cung là YT, là 1 thành tố quan trọng của YT,nhưng là YT về bản thân mình trong quan hệ với YT về
thế giới bên ngoài. Thông qua tự ý thức mà con người tự đánh giá, nhìn nhận về bản thân mình như 1 thực thể
hoạt động có cảm giác, tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị thế trong XH.Q/tình tự ý thức diễn ra thông qua
mqh giữa bản thân với nguời khác, giữa bản thân với thế giới xung quanh đặt trong quá trình hoạt động thực
tiễn, sinh sống cảu bản thân. Như vậy tự ý thức cũng là ý thức huớng về nhận thức bản thân mình thông qua
quan hệ với thế giới bên ngoài, với XH. Chính sự giao thiệp xã hội và hoạt động thực tiễn XH của con nguời đã
đòi hỏi họ phải tự ý thức về mình để đánh giá nhận thức về bản thân rõ hơn chính xác hơn. Mặt khác tự ý thức
còn diễn ra thông qua những giá trị văn hoá mà bản thân đã sang tạo ra hoặc tiếp nhận.Văn hoá cũng chính là
gương soi để giúp con nguời tự ý thưc về bản thân. Trình độ tự ý thức là thuớc đo trình độ phát triển của nhân
cách, trình độ làm chủ bản thân và nhờ có tưj ý thức mà con nguời tự điều chỉnh hành vi cách ứng xử hoạt động
của mình theo quy tắc chuẩn mực của XH đuơng thời.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã tích luỹ đuợc từ truớc, nhưng gần như đã trở thành bản năng, kỹ
năng, nằm dưới tang sâu YT của chủ thể, là ý thưc dưới dạng tiềm năng.Tiềm năng có thể tự động gây nên các
hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể ko cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vtrò quan
trong trong đời sống cá nhân cũng như trong hoạt động tâm lý hàng ngày, nó góp phần làm giảm tải hoạt
dodọng của hệ thần kinh, của tư duy trong việc xử lý các tài liệu, dữ liệu, tin tức diễn ra hàng ngày, lặp lại mà
vẫn đảm bảo độ chính xác cao.
Vô thức: là những trạng thái tâm lý trong chiều sâu của YT, nó điều chỉnh hành vi, thái độ ứng xử của con
người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự ktra tính toán của lý trí.
Lực lượng vô thức liên quan đến những hoạt dộng xảy ra ở bên ngoài phạm vi lý trí của con người ko kiểm soát
đượcc chúng trong một phạm vi nào đó, trong một khoảng thời gian nào đó. Nó được biểu hiện ra bên ngoài
thành những hiện tượng khác nhau như bản năng, ham muốn, giấc mơ, sự thôi mien, sự lỡ lời…
Vô thức có vtrò và tác động nhất định trong đời sống của con người, nó giải toả những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng, nhất là những bản năng ko được phép bộc lộ ra ngoài, ko được thực hiện trong đời sống
12
công cộng. Nhờ nó mà con người cũng tránh được những tình trạng căng thẳng ko cần thiết về mặt thần kinh và
thực hiện được những chuẩn mực của XH một cách tự nhiên, ko có sự khiên cưỡng, bắt buộc.
Tuy nhiên, ko nên cường điệu hoá, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá vô thức, đặt vô thức đối lập với YT. Thực ra,
vô thức cũng nằm trong YT và chỉ xảy ra trong con người có YT và giữ vtrò chủ đạo dẫn dắt hoạt động của con
người là YT chứ ko phải vô thức. Nhờ có ý thức c/người mới điều khiển được tiềm thức và vô thức hướng tới
chân thiện mỹ.Vô thức sự thật chỉ là mắt khâu quan trọng trong cuộc sống có ý thức, là vô thức trong trạng thái
có ý thức của c/người XH.
Ý nghĩa: Thường xuyên nâng cao tri thức(học tập, n/c..)Xây dựng niềm tin, tình cảm đẹp, niềm tin,ý chí phải
dựa tên cơ sở tri thức. Muốn đấu tranh chống TP phỉa tìm hiểu về nó phải có niềm tin, lý tưởng hăng say, khắc
phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao; bồi dưỡng về tri thức về TP(ph/thức, thủ đoạn)cho quần
chúng để quần chúng tích cực tham gia vào công tác đấu tranh chống TP, đồng thời làm cho dân tin tưởng vào
đường lối, chính sách của đảng, tin vào CQCA. Tăng cường rèn luyện biến những hành vi tích cực thành thói
quen, diễn ra 1 cách tự động. Tự đánh giá ý thức bản thân thông qua tự phê bình va phê bình.
13
CHỦ ĐỀ 5: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Câu 7: Mối quan hệ giữa VC và YT? Ý nghĩa phương pháp luận của mlhệ này?
Quan hệ giữa vật chất và YT là vấn đề cơ cản của TH, mọi trường phái triết học đều quan tâm giải quyết vấn
đề này. Tuy nhiên, việc phân tích, lý giả làm rõ mqh giữa VC và YT ở mỗi truờng phái triết học là khác nhau
thậm chí đối lập nhau.CNDT cho rằng YT là cái có truứơc quyết định VC. Còn theo quan điểm của CNDV tầm
thường là YT cũng chỉ là 1 dạng VC mà thôi. Chỉ đến khi triết học Mac- Lênin ra đời thì quan hệ giữa VC và
YT mới được giải quyết 1 cách khao học và triệt để trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ đã đạt đuợc trong
lịch sử tư duy nhân loại, đồng thời klhái quát những thành tựu mà những ngành khoa học cụ thể đã đạt được.
Theo TH-ML : VC là 1phạm trù triết học dung để chỉ thực tại KQ đuợc đem lại cho con ngưòi trong cảm giác,
đuợc cảm giác của chúng ta sao lại, chép lại, p/ánh và tồn tai không phụ thuộc vào cảm giác.
Còn ý thức, theo quan điểm của TH-ML là sự phản ánh HTKQ vào trong bộ óc con người 1 cách năng động
sang tạo.
VC và YT không hoàn toàn tồn tại tách biệt nhau, ko cô lập hay tuyệt đối với nhau mà giữa chúng có mối
quan hệ BC
Theo quan điểm của TH Mác-xit, trong mqh giữa VC và YT thì VC là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ 2. VC
giữ vai trò quyết địng đói với ý thức. Sự khẳng định này dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:
Trước hết, xét về mặt thời gian:VC là cái có truớc, là cái vô cùng vô tận ko có khởi đầu. YT là cái có sau, chỉ
xuất hiện cùng với sự xuất hiện của c/ngưòi và loài nguời. Mà theo các ngành khoa học cụ thể: khảo cổ học,
nhân chủng học thì sự xuất hiện đo mới chỉ có truớc đây vài triệu năm. Đó là kết quả của q/trình tiến hoá rất lâu
đời của tự nhiên và là sản phẩm của những hoạt động XH của con nguời. Với tu cách là cái có sau thì YT ko
thể và ko bao giờ có thể đẻ ra được VC- VC là cái có trước từ lâu. Điều này chứng tỏ sự phi lý ko có căn cứ
khoa học của các quan điểm duy tâm, tôn giáo khi cho rằng ý thức có truớc,Vc có sau, YT sinh ra VC.
Xét về mặt nguông gốc: VC ko do ai sinh ra, nó có nguyên nhân từ trong bản thân nó, còn ý thức đuợc hình
thành tù những tiền đề nguồn gốc tụ nhiên và XH. Những tiền đề nguồn gốc này có liên quan mật thiết đối với
TGVC, xuất phát từ TGVC. Không có dạng VC có tổ chức cao là bộ óc con nguời. Ko có thuộc tính phổ biến
của mọi dạng VC là p/ánh thì ko có tiền đề làm xuất hiện YT. Hơn nũa, nếu ko có môi trường, ko có những
hoạt động mang tính VC của con người là lao động sx, ko có những vỏ VC mang nội dung thông tin là ngôn
ngữ thì YT ko thể hình thành và ra đời đươc. Tóm lại VC chính là nguồn gốc của YT, ko có TGVC thì ko thể
có những tiền đè hình thành nên YT được.
Xét về mặt nội dung: thì VC và cái đuợc p/ánh, còn YT chỉ là cái p/ánh, là hình ảnh chủ quan của TGKQ bên
ngoài. Dĩ nhiên nếu ko có cái bị p/ánh ko có TGKQ bên ngoài thì chẳng có cái để phản ánh, chảng có 1hình ảnh
chư quan,1 tri thức, 1cảm giác nào mô tả về nó cả. Về mặt thực chất nd của YT chỉ là những hình ảnh chủ quan
về TGKQ bên ngoài mà thôi. Những hình ảnh, những tri thức về TGVC đuợc hình thành trong bộ não con
nguời là k/quả của sự p/ánh sang tạo hiện tượng KQ thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Xét về sự vân động và phát triển: TGVC tồn tạ, vận động, phát triển theo những quy luật KQ vốn có của nó.
Còn ý thức biến đổi, phát triển phụ thuộc và sự vận động sự phát triển của TGVC, sự tác động của thế giới hiên
thực vào con người. Chính sự tác động thường xuyên, liên tục cuả TG bên ngoài, từ sự vận động và biến đổi ko
ngừng của tự nhiên và XH, từ trình độ ngày càng cao của hoạt động mang tính VC của con người là lao động sx
thì trình độ nhận thức của con người, tri thức của con người ngày càng đuợc tích luỹ, phát triển theo hướng từ
chưa biết đến biết, từ thấp đến cao, từ hiện tượng đến bản chất, từ ngẫu nhiên đến phát hiện theo quy luật.Như
vậy về thực chất tư duy của c/người vận động, p/triển cùng với sự v/đ,p/triển của hiện thực và chịu sự chi phối
của HTKQ.
Tóm lại, xét trên tất cả các lĩnh vực từ nguồn gốc hình thành nội dung, sự biến đổi, ở đâu chúng ta cũng thấy
vai trò quyết định thuộc về VC và do đó TH-ML k/định: VC là tính thư nhất ,YT là tính thứ 2, VC quyết định
YT.
Ý thức có tác động mạnh mẽ đối với TGVC. Trong khi nhấn mạnh vai trò quyết định thuộc về VC, TH ML đồng thời thừa nhận vai trò quan trọng của YT đối với VC. Đây cũng là sự thể hiện tính cách mạng và khoa
học cuat TH Mac-xit so với các nền TH duy vật trước đó. Truớc Mac các nhà duy vật đã mắc phải nhược điểm
là ko đánh giá đúng ý nghĩa tầm quan trọng của YT. Họ đã hoặc là đồng nhất ý thức với VC, hoặc là cho rằng
YT là 1 nhân tố thụ động và đây cũng chính là 1 điểm yếu, 1kẻ hở để CNDT lợi dụng tấn công CNDV. TH Mac
đã khắc phục những nhược điểm này khi k/định: YT do VC sinh ra và quyết định, song sau khi hình thành YT
có tính độc lập tưong đối và sang tạo nên có sự tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với TGVC, thông qua hoạt
đọng thực tiễn của con nguời.
Ý thức tác động đ/với VC theo cả 2 chiều huớng:Những YT đúng đắn khoa học, cách mạng ,p/ánh đúng bản
chất quy luật v/động của TGVC thì nó có tác động tích cực cho việc thúc đấy sự vân động,phát triển của
14
TGVC. Nguợc lại những YT, tư tưởng lạc hậu, phản khoa học, phản ánh xuyên tạc bản chất, quy luật vận động
của quy luật hiện tượng KQ thì nó sẽ t/động kìm hãm sự vận động, p/triển của TGVC.
Cần chú ý sự t/động của YT đối với VC bao giờ cũng thông qua con đuờng hoạt động thực tiễn của con nguời.
Bản thân YT tự nó ko trực tiếp làm thay đổi đuợc j trong TGVC. Vì vậy, nói đến vai trò của YT về thực chất là
nói đến vai trò của c/ngưòi, tính chủ đọng sang tạo của c/người.YT chỉ đạo hoạt động cuat c/người, h/thàh ở họ
mục tiêu, kế hoạch, phuơng pháp..Từ đó h/thành nên ý chí quyết tâm, thúc đẩy những hoạt động thực tiễn của
con nguời
sự t/đ trở lại của YT đối với VC, cho dù là rất to lớn, bao giờ cũng diễn ra trên cơ sở VC là tính thứ nhất, YT là
tính thứ hai. Trong bất kỳ truờng hợp nào thì YT cũng chỉ là sự p/ánh đối với TGVC và sự sang tạo cuả YT là
sang tạo trong q/trình p/ánh, trong khuôn khổ của sự p/ánh và đuợc định huớng bởi những nhu cầu thực tiễn.
YT muốn t/đ trở lại VC phải bằng lực luợng VC, thông qua hoạt động thực tiễn có tính VC của c/người và ko
có 1 t/hợp nào YT quyết định VC cả
N/c mqh VC và YT có ý nghĩa phuơng pháp luận sâu sắc đ/với hoạt động thực tiễn của chúng ta.
- trước hết trọng hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần XD và quán triệt quan điểm khách quan, chống chủ quan
duy ý chí, phải xuất phát từ thực tế khách quan và lấy thực tế khách quan làm căn cứ, làm csở cho mọi hoạt
động của mình. Lê-nin nhấn mạnh: ko được lấy ý chí chủ quan của mình để định ra chính sách, ko được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt
cho thực tế thì sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí và nhất định sẽ thất bại trong hoạt động thực tiễn. Trên thực
tế ở VN nước ta trước tkì đổi mới, chúng ta đã phạm những sai lầm chủ quan duy ý chí. Tại ĐH7 ĐCS VN đã
khẳng định: “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm qui luật khách quan”
Từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong hoạt động thực tiễn cách mạng, Cương lĩnh của Đảng đã rút ra
bài học là: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trong qui luật khách quan”. Tới
ĐH IX tổng kết 15 năm đổi mới Đảng ta đã chỉ rõ một trong 4 bài học là: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì
lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn luôn stạo”.
Đ/với công tác công an, điều tra khám phá đúng bản chất của SV-HT chúng ta cần phải tôn trọng thực tế
khách quan. Và tôn trọng thực tế khách quan phải được quán triệt từ điểm khỏi đầu cho đến khi kết thúc, quán
triệt ngay từ khi nhận tin đến khi khám nghiệm hiện trường, đến điều tra…muốn khám phá đúng thực tế khách
quan đòi hỏi người cán bộ cảnh sát, công an phải có tri thức, phải ko ngứng học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn.
- phát huy tính năng động, stạo của YT, tính tích cực chủ quan trong hoạt động cải biến Tg khách quan của con
người, chống xu hướng của CNDV tầm thường bảo thủ, trì trệ. Vai trò tích cực của YT ko phải là ở chỗ nó trực
tiếp tạo ra hay làm thay đổi TG VC mà là nhận thức đúng đắn TG VC. Từ đó hình thành mục đích, phương
hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình. Sức mạnh của YT con người ko phải ở
chỗ tách rời điều kiện VC, thoát ly khỏi hiện thực mà là biết dựa vào những điều kiện VC đã có phản ánh đúng
qui luật khách quan để cải tạo TG khách quan một cách chủ động stạo của YT, phát huy vtrò nhân tố con người
trong hoạt động là vđề có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng.
Tại ĐH VIII ĐCS VN khẳng định: “trong tkì đổi mới phải lấy việc phát huy nguồn lực của con người làm ytố
cbản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường để
phát huy tài trí của con người VN, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghoè nàn và lạc hậu”.
Tại ĐH IX Đảng tiếp tục nhấn mạnh: phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người VN, coi
phát triển GD và đtạo, KH và CN là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, phát huy nguòn lực con
người là ytố cbản để ptriển XH, tăng trưởng ktế nhanh và bền vững.
15
CHỦ ĐỀ 6: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỚI TÍNH CÁCH LÀ KHOA HỌC VỀ MÔÍ LIÊN HỆ
PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN
Câu 8: nguyên lý về mqhệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận? ( csở lý luận và yêu cầu quan điểm
toàn diện )
Nguyên lý về mlhệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cbản của P.BCDV. nguyên lý này nhằm làm sang tỏ
vđề các SV- HT trong TG KQ tồn tại trong trạng thái ntn, chúng có mqh ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại
biệt lập tách rời nhau.
trước Mác, quan điểm của CNDV siêu hình xem xét, nhìn nhận SV HT trong trang thái tồn tại biệt lập tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng ko có sự phụ thuộc, ko có sự ràng buộc và qui định lẫn nhau, nếu có
thì cũng chỉ là những qui định hời hợt bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. họ ko thấy được sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa chúng và do đó ko cắt nghĩa được sự vận động, biến đổi của chúng.
ngược lại, TH Mác khẳng định các SV HT tồn tại trong sự rang buộc, liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau. Theo TH
Mác, mlhệ là 1 phạm trù cảu P.BCDV dùng để chỉ sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, rang buộc chế ước nhau,
qui định và chuyển hoá cho nhau của các SV HT hay giữa các mặt, các thuộc tính bên trong của SV HT trong
TG KQ.
CNDV BC khẳng định: Csở của mlhệ giữa các SV HT là thuộc tính thống nhất VC của TG. Các SV HT dù đa
dạng và khác nhau đến mấy thì chúng cỉ là những dạng tồn tị khác nhau cảu một TG duy nhất là VC mà thôi.
Ngay bản thân YT vốn ko phải là VC nhưng cũng chỉ là thuộc tính của một dạng VC có tổ chức cao nhất là bộ
óc con người, nội dung của YT có mlhệ chặt chẽ với TG bên ngoài. Quan điểm này đã bác bỏ quan điểm của
CNDT cho rằng csở cảu sự lhệ, tác động qua lại giữa các SV HT là các lực lượng siêu tự nhiên, ở YT, ở ý niệm
tuyệt đối.
mlhệ giữa các SV HT là khách quan vốn có của bản thân chúng, đồng thời mlhệ còn mang tính phổ biến và
tính phổ biến ấy được thể hiện ở những vđề sau đây:
xét về mặt ko gian: mỗi SV HT là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại ko phải trong trạng thái biệt lập
tách rời tuyết đối với các SV HT khác. ngược lại, trong sự tồn tại của mình, chúng có tác động ảnh hưởng lẫn
nhau, vừa tác động và vừa nhận sự tác động của những SV HT khác. Chúng vừa tách biệt, vừa phụ thuộc nhau,
chế ước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. đó là hai mặt của quá trình tồn tại, vận động và ptriển
của bản thân mỗi SV HT.Ănghen đã khẳng định: “tất cả TG mà chúng ta có thể nghiên cứu là một hệ thống,
một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thể ấy có mqhệ với nhau đã có nghĩa là
các vật thể này tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
trong đời sống XH ngày nay ko có một quốc gia, dân tộc nào mà ko có mqhệ, liên hệ với quốc gia dân tộc khác
về mọi mặt của đời sống XH. Đây chính là sự tồn tại, ptriển cho mỗi quốc gia, dtộc. trên TG đã và đang xuất
hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá của mọi mặt của đời sống XH. Các quốc gia dtộc ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau đến con đường ptriển của mình.
Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của SV HT: mỗi SV HT đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ
phận khác nhau và các nhân tố đó, bộ phận đó ko tồn tại riêng lẻ, tách rời nhau hoặc hỗn độn với nhau mà
chúng được tổ chức, sắp xép theo một logic nhất định, trật tự nhất định, một kiểu tính chất nhất định để tạo
thành một chỉnh thể. Các mặt, các ytố trong chỉnh thể đó vừa có chức năng riêng của mình, vừa tạo đkiện cho
những mặt, những ytố khác, nghĩa là chúng có sự ảnh hưởng, ràng buộc táca động lẫn nhau. sự biến đổi của
một bộ phận, một mặt nào đó trong cấu trúc của SV HT sẽ ảnh hưởng đến các bộ phận khác và đvới cả chỉnh
thể.
Xét về mặt thời gian: mỗi một SV HT nói riêng và cả TG nói chung trong sự tồn tại ptriển của mình đều phải
trải qua các giai đoạn, các tkì khác nhau, tự phát sinh, tồn tại, phát triển và chuyển hoá thành cái khác. Các giai
đoạn đó ko tách rời nhau, có lhệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này là mở đầu cho giai đoạn
khác tiếp theo. điều này thể hiện rõ trong mlhệ giữa quá khứ- hiện tại – tương lai (hiện tại chẳng qua là bước
tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp ch tương lại).
TL: xét trên các phương diện vĩ mô và vi mô, ko gian và thời gian, ở đâu chúng ta cuãng thấy mlhệ là lan tràn,
bao trùm, là xuyên thấu. vì vậy, TH M-L khẳng định mlhệ của các SV HT là phổ biến.
Tính phổ biến của mlhệ giữa các SV HT còn được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và phức tạp của các
mqhệ. Khi nghiên cứu HT KQ có thể phân chia mlhệ thành từng loại khác nhau, tuỳ theo tinhd chất phức tạp
hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vtrò trự tiếp hay gián tiếp… khái quát lại, TH M-L
phân chia mlhệ thành những nhóm chính sau đây: mlhệ bên trong- bên ngoài, chủ yếu- thứ yếu, chung – riêng,
trực tiếp- gián tiếp, bản chất- ko bản chất, ngẫu nhiên- tất nhiên… trong đó nhấn mạnh những mlhệ bên trong,
trực tiếp, bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vtrò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của SV
HT.
16
Triết học Mác xít, đồng thời cũng thừa nhận rằng các mlhệ khác nhau có khả năng chuyển hoá cho nhau, thay
đổi vtrí của nhau và điều đó diễn ra có thể là do sự thay đổi phạm vi bao quát SV HT hoặc có thể do kết quả
vận động khách quan của SV HT đó.
từ việc nghiên cứu mlhệ phổ biến cần phải xây dựng và quán triệt quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động thực tiễn.
trước hết, về mặt nhận thức khi nghiên cứu SV HT phải đặt nó trong mlhệ tác động qua lại với những SV HT
khác và cần phải phát hiện ra những mlhệ giữa các bộ phận, ytố, các thuộc tính, các giai đoạn khác nhau của
bản thân sự vật. Lê-nin khẳng định: “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả các mlhệ và qhệ gián tiếp của sự vật đó”.Tuy nhiên, quan điểm toàn diện không có nghĩa là
cào bằng, tràn lan mà phải thấy được vị trí của từng mối quan hệ, từng mặt từng yếu tố trong tổng thể của
chúng, làm nổi bật cái cơ bản , cái quan trọng nhất của SV HT đó.Có như vậy chúng ta mới nắm được bản chất
của SV.
Mặt khác, để nhận thức đúng SV HT cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con
người. Ứng mỗi con người, mỗi giai đoạn và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ
phản ánh được một số lượng hữu hạn các mlhệ. Vì vậy tri thức về các SV HT chỉ là tương đối, ko đầy đủ, ko
trọn vẹn và cần phải được thường xuyên bổ sung thêm (tránh tuyệt đối hoá những tri thức đã có về SV)
Quan điểm toàn diện về sự vật đòi hỏi cta phải phát hiện ra không chỉ là mlhệ mà còn phải biết xác định phân
loại t/chất, vai trò, vị trí của mỗi loại liên hệ đối với sự phát triển của sự vật. Cần chống cả hai khuynh hướng
sai lầm phiếm diện một chiều, cũng như đánh giá ngang bằng vị trí của các mlhệ.
Về mặt thực tiễn: Quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo SVHT cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của
SVHT, cũng như mối liên hệ giữa SVHT khác. Muốn vậy cần phải xd, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các
biện pháp, phương tiện để tác động nhằm giải quyết những mối liên hệ tương ứng. Mặt khác, quan điểm toàn
diện phải đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần kết hợp chính sách dàn đều chính sách có trọng điểm, vừa chú ý
giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho
việc giải quyết những vấn đề khác.
Đối với VN, trong sự nghiệp đổi mới hiển nay, Đảng CS VN xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh vực
đời sống xã hội, chủ trương tăng trưởng kinh tếđi liền với t/hiện công bằng XH, giải quyết những vấn đề xã
hội , đẩy mạnh CNH-HDH, đi đôi với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa chủ động hộ nhập kinh tế quốc
tế, vừa giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ đại biểu ANQP… trong đó xác định phát triển ktế là trọng tâm.
Câu 9: Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận?
Trong BPCDV, nguyên lý về mlhệ phổ biến gắn liền với nguyên lý về sự phát triển. Sự liên hệ, t/đ qua lại của
các SVHT tất yếu dẫn tới sự v/đ, phát triển của chúng. Nhiệm vụ quan trọng của BPCDV là nghiên cứu toàn
diện, bao quát sự v/đ, p/triển k/quan ấy của thế giới, tìm ra b/chất và những q/luật phổ biến của q/trình đó.
Theo TH M-L, phát triển là phạm trù triết học dung để chỉ q/trình v/đ tiến lên từ thấp đến cao, từ dơn giản đến
phức, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Quan điểm của CNDT xem sự phát triển như là kết quả của những ý niệm của các lực lượng siêu tự nhiên hoặc
của ý muốn chủ quan con người. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình xem sự p/triển đơn giản là sự tăng
lên hay giảm đi về mặt lượng, họ không quan tâm đến sự sinh thành, sự ra đời của cái mới, chất mới. Họ cho sự
p/triển tiến lên liên tục không có bước quanh co và nguồm gốc của sự p/triển là do bên ngoài.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm BC xem xét sự pt là 1 qtrình tiến lên từ thấp đến cao, qtrình
đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ.
TH Macxít k/định pt là 1 trường hợp đặc biệt của sự vđộng. Nói đến pt là nói đến sự vđ. Tuy nhiên không phải
mọi sự vđ dều là sự pt mà chỉ có qtrình vđ bíên đổi nào làm nảy sinh ra những nhân tố mới, những tính qui định
mới cao hơn về chất mà nhờ đó làm tăng cường tính phức tạp của sự vật, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương
thức tồn tại của vđ của sự vật cùng những chức năng vốn có của nó ngày càng được hoàn thiện hơn thì mới
được gọi là pt. Như vậy sự pt chỉ khái quát xu hướng chung của vđ là xu hướn đi lên sự vật mới, cái mới ra đời
thay thế cái cũ và đó là trường hợp đặc biệt của vđ.
Trong hiện thực kquan sự pt được t/hiện theo cách khác nhau, tuỳ thuộc vào những h/thức tồn tại cụ thể
của các dạng vật chất. Đối với gới vô cơ, sự pt thể hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất ở sự
tác động qua lại giữa chúng làm xuất hiện những VC phức tạp hơn. đối với giới hữu cơ sự pt thể hiện ở khả
năng thích nghi của cơ thể, khả ngăng tiến hoá, khả năng hoàn thiện, qtrình trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với tốc độ ngày càng cao hơn, làm xuất hiện những giống nòi mới.
Trong XH thì sự pt thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiện, cải tạo XH, nâng cao đời sống mọi mặt của
con người, giải phóng con người, tạo đkiện cho c người pt toàn diện nhân cách của mình. Trong tư duy sự pt
thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầ đủ, chính xác b/chất của quy luật vđộng của hiện thực. Đối
17
với mỗi con người sự pt thể hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần phù hợp với sự biến
đổi của môi trường sống của chính con người.
Sự pt diến ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó bao hàm cả những bbước thụt lùi tương đối.
Đó là một qtrình tích luỹ về lượng đẻ thay đổi về chất, là kết quả đấu tranh đẻ gquyết mâu thuẫn giữa các mặt
đối lập, là trải qua nhiều lần phủ định. Vì vậy, con đường của sự pt ko phải là thẳng tắp, cũng ko phải là vòng
trong khép kín mà diển ra theo chiều “xoắn ốc”, nghĩa là trong quá trình pt dường như có sự quay trở lại điểm
xuất phát ban đầu nhưng ở trình độ cao hơn. Lê-nin đã từng khẳng định rằng: “Nếu hình dung sự pt của toàn
TG như con đường thẳng tắp ko có những bước quanh co, những sự thụt lùi, đôi khi ra xa so với xu hướng chủ
đạo là ko thực tế, ko biện chứng”.
Nguồn gốc của sự pt: nằm ngay trong bản thân svật do những mâu thuẫn của svật qui định. Sự ptriển là kết quả
của cuộc đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bên trong của svật. Vì vậy, cũng như vận động nói chung, sự
ptriển là quá trình tự thân ptriển. TH Mác-xít khẳng định: Pt là quá trình tự thân của SV HT, mang tính khách
quan, độc lập với YT con người. Sai lầm của CNDT về vđề này là đi tìm nguồn gốc của sự ptriển trong lực
lượng siêu tự nhiên hay cho rằng YT con người quyết định tất cả. Còn nhược điểm của CNDV siêu hình trước
Mác là lại ở chỗ đi tìm sự ptriển từ sự tác động bên ngoài hoặc cho rằng sự ptriển chỉ là sự tăng lên về mặt số
lượng. Lê-nin đã từng so sánh: “hai quan niệm cơ bản của sự pt (sự tiến hoá): sự pt coi như giảm đi và tăng lên,
như là lặp lại và sự pt coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập…Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo
nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của “sự tự vđ”
của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt” của sự “gián đoạn
của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Sự pt diễn ra không ngừng trong tự nhiên, Xh và tư duy. Nếu xét trong 1 không gian hẹp, thời gian ngắn
và ở những trường hợp cụ thể thì có những v/động tuần hoàn, v/động đi xuống thụt lùi và v/đ đi lên. Song nếu
xét cả quá trình v/đ với không gian rộng lớn, thời gian liên tục và 1 tổng thể của thế giới HTKQ thì pt đi lên là
khuynh hướng chủ đạo. Vì vậy TH M-L k/định: “pt là khuynh hướng chung của sự vđ của TGKQ”.
Nghiên cứu nguyên lý về sự pt có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc đối với chúng ta trong hoạt động
thực tiễn. Trước hết, hoạt động nhận thức và thực tiễn cần xd và quán triệt quan điểm pt, chống quan điểm bảo
thủ, trì trệ, định kiến. Yêu cầu cơ bản của quan điểm pt là khi xem xét nghiên cứu SVHT hay một đ/tượng nào
đó cần phải đặt nó trong trạng thái vđ, pt vạch ra xu hướng biến đổi và chuyển hoá của chúng. Lênin viết:
“Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự pt, trong sự tự vđ, sự biến đổi của nó”.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần xây dựng quan điểm lsử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi khi
chúng ta nhận thức về SV và tác động vào SV phải chú ý đ/kiện, h/cảnh l/sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong
đó SV sinh ra, tồn tại và pt. Một luận điểm, một giải pháp có thể là đúng đắn, là chân lý trong đ/kiện này,
nhưng sẽ không đúng thậm chí là sai lầm trong đ/kiện khác. Vì vậy, phân tích tình hành cụ thể, đề ra những giải
pháp cụ thể, từng công việc cụ thể…Đó là nguyên tắc, b/chất sống của chủ nghĩa M-L.
Bên cạnh đó, từ sự nhìn nhận 1 cách khoa học về sự pt, chúng ta cần phải có thái độ lạc quan cách
mạng, tin tưởng vào sự chiến thắng tất yếu của cái mới. Đồng thời nhận thức rõ pt là q/trình biện chứng đầy
mâu thuẫn, sự chiến thắng của cái mới là vô cùng khó khăn, phức tạp và có thể phải trả giá, trên con đường tiến
tới cái mới có cả sự vấp ngã, mất mát.
Sự pt biện chứng của các quá trình hiện thực và của tư duy được thực hiện bằng con đường thông qua
tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đỏi về chất, thông qua phủ định của phủ định. Do vậy, việc v/dụng quan
điểm pt vào hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo SV còn đòi hỏi chúng ta cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của
chính sự vật tạo đk cho sự vật giải quyết mâu thuẫn của mình. Song cũng cần chống bảo thủ, trì trệ, không dám
đổi mới hoặc nóng vội chủ quan đốt cháy giai đoạn.
Đối với VN chúng ta trong những năm gần đây trước những năm gần đây trước những khó khăn của đất
nước, một số người muốn ND ta từ bỏ con đường XHCN hoặc lùi lại giai đoạn CM DCND. Quan điểm này là
sai lầm. Việc kiên trì con đường XHCN là sự lựa chọn duy nhất đứng đắn, đây là sự lựa chọn của l/sử nó đã dứt
khoát từ năm 1930 trong cương lĩnh của Đảng.
Đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay đang có những biến đổi phức tạp, sự nghiệp đổi mới đã được
chính thức phát động và triển khai trên quy mô toàn quốc từ sau ĐH VI của đảng trhán 12 năm 1986. Về thực
chất sự nghiệp đổi mới ở VN là nhằm t/hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh.
Theo định hướng XHCN. Q/trình đổi mới diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH và thực sự đó là quá
trình phức tạp khó khăn lâu dài, là q/trình giải quyết những mâu thuẫn, nhằm đưa lại sự pt của VN theo hướng
CNH – HĐH: Thực sự đổi mới ở VN là quá trình pt đưa nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một trình độ
CNH – HĐH văn minh. Động lực của sự pt, của sự nghiệp đổi mới là nguồn nội lực trong đó có sự tranh thủ
ngoại lực từ bên ngoài nhằm đưa đất nước pt hơn nữa theo định hướng XHCN.
18
CHỦ ĐỀ 7: NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Câu10: Thế nào là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Q/luật m/thuẫn)?
Bằng việc kế thừa những thành quả tư tưởng BC về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thức tế lịch sử của loài
người. Các nhà kinh điển của CN Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật
trong chính sự vật đó. Sự phát triển của bất cứ sự vật, hiện tượng nào đều trải qua quá trình của 3 quy luật cơ
bản của phép Biện chứng Duy Vật. Sau đây chúng ta xem xét quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Q/luật này vạch rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển của các Sự vật hiện tượng
trong Thế Giới Khách Quan. Việc nắm vững nội dung quy luật này là điều kiện, cơ sở để có thể nhận thức đúng
đắn, sâu sắc những phạm trù, những quy luật khác của phép biện chứng. Vì vậy trong toàn bộ phép Biện Chứng
Duy Vật, quy luật này được đánh giá là hạt nhân. Lê Nin từng nhấn mạnh: “ Có thể định nghĩa vắn tắt phép
Biện Chứng là học thưyết về sự thống nhất của các mặt đối lập và như thể là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng”.
Nội dung cơ bản của quy luật được thể hiện thông qua những phạm trù cơ bản và mối liên hệ giữa những phạm
trù đó như các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập, cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái chiều nhau và tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong hiện thực khách quan tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng các mặt đối lập và sự tồn tại của chúng
là khách quan và phổ biến. Song, cần chú ý rằng nói đến mặt đối lập là đương nhiên nói đến sự khác nhau.
Song không phải tất cả sự khác nhau đều là những mặt đối lập, chỉ có sự khác nhau có khuynh hướng vận động
trái chiều nhau, phủ định nhau, chuyển hoá cho nhau thì mới gọi là những mặt đối lập. Cũng không được nhầm
lẫn mặt đối lập với mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn, bao giờ cũng gồm ít nhất hai mặt đối lập. Song không phải mỗi
mặt đối lập đều tạo thành mấu thuẫn, chỉ có những mặt đối lập nằm trong một chỉnh thể, một sự vật và giữa
chúng có mối lien hệ khăng khít, rang buộc với nhau thì mới tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn là sự
lien hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi phải có nhau của các mặt đối lập. Sự tồn
tại của các mặt đối lập này phải lấy sự tồn tại của các mặt đối lập kia làm tiền đề cho mình. Tuy hai mặt đối lập
có xu hướng bài trừ, phủ định nhau nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng đồng thời tồn tại trong một sự vật
hiện tượng. Vì vậy, nói sự thống nhất giữa các mặt đối lập trước hết là nói đến tính không thể tách rời nhau của
hai mặt đó ( Trong tự nhiên có lực hút – lực đẩy, đồng hoá – dị hoá ).
Mặt khác, giữa hai mặt đối lập bao giờ cũng có tồn tại những nhân tố giống nhau. Vì vậy, nói thống nhất của
các mặt đối lập, còn bao hám sự đồng nhất của các mặt đó trên một số yếu tố. Chính nhờ vào tính chất, đặc
điểm này mà các mặt đối lập đến một lúc nào đó có khả năng chuyển hoá được cho nhau.
CNTB và CNXH tuy khác nhau về bản chất nhưng giống nhau về kinh tế, đều chịu sự chi phối của các quy luật
kinh tế. CNXH cũng cần giá trị thặng dư như CNTB nhưng điểm khác biệt ở đây là cách sử dụng giá trị thặng
dư đó. Sự giống nhau của hai c/độ này là cuộc đấu tranh chống TP, do đó cần phải só sự hợp tác trong lĩnh vực
phòng ngừa, đấu tranh chống TP.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được thể hiện trong trạng thái t/đ ngang nhau, cân bằng nhau giữa các
mặt đối lập khi mà thế và lực của từng mặt đối lập chưa đủ mạnh để chiếm thế áp đảo tuyệt đối, chi phối
chuyển hoá hoặc phủ định mặt kia. Điều này tạo nên trạng thái cân bằng tạm thời giữa các mặt đối lập, làm cho
sự vật nằm trong trạng thái ổn định tương đối.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là cuộc đấu tranh theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất của các mặt đối lập, cũng như mối
quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Tuỳ thuộc vào lĩnh vực mà trong đó các mặt đối lập tồn tại, tuỳ thuộc vào
điều kiện mà ở đó diễn ra cuộc đấu tranh, không nên hiểu đơn giản đấu tranh chỉ là sự thủ tiêu nhau. Thực ra sự
thủ tiêu chỉ là một trong những hình thức đấu tranh mà thôi. Ngoài hình thức đó, đấu tranh giữa các mặt đối lập
còn thể hiện sự ảnh hưởng lẫn nhau, biến đổi cho nhau, chế ước lẫn nhau, kìm hãm nhau, thúc đẩy chuyển hoá
cho nhau.
hiện nay chúng ta đã đổi mới trong tư duy về đấu tranh. Trước đây chúng ta nôn nóng xoá bỏ kinh tế Tư bản,
nhưng hiện nay chúng ta đã sử dụng kinh tế Tư bản (tư bản tư nhân, tư bản nhà nước). để xây dựng Chủ Nghĩa
Xã Hội.
Giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có mối quan hệ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ chặt chẽ
với trạng thái đứng im, với sự ổn định tạm thời của Sự vật. Còn đấu tranh có quan hệ gắn bó với trạng thái vận
động, phát triển không ngừng của Sự vật. Do đó, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, sự đấu
tranh giữa chúng là tuyệt đối. Lê nin khẳng định: Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện, là tạm thời,
19
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự vận động,
sự phát triển là tuyệt đối.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện cho cuộc đấu tranh giữa chúng, nó tạo môi trường, địa bàn để
các mặt đối lập triển khai cuộc đấu tranh, không có thống nhất thì không thể có đấu tranh. Chính sự thống nhất
tạo điều kiện để sự vật thể hiện nó đang còn là nó và chưa phải là cái khác và chỉ trong điều kiện như thế thì
cuộc đấu tranh mới có thể diễn ra.
Sự vận động, phát triển của sự vật bao giờ cũng là kết quả của sự kết hợp giữa tính ổn định và tính biến đổi. Sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy định sự ổn định và biến đổi của nó. Do vậy, mâu thuẫn và
cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật.
Chủ nghĩa Mác quan niệm đấu tranh là động lực của sự phát triển.
Tóm lại: Nội dung thực chất của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là mọi sự vật hiện tượng
đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành nhũng mâu thuẫn trong bản thân nó, những
mâu thuẫn này phát triển đến độ gay gắt và khi có điều kiện chin muồi thì hai mặt đối lập chuyển hoá cho nhau
dẫn tới sự mất đi cái cũ và sự ra đời của cái mới. Sự thống nhất cũng bị phá vỡ, sự thống nhất mới được thiết
lập và lại xuất hiện những cuộc đấu tranh giữa những mặt đối lập mới. Chính sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập đã trở thành xung lực nội tại, tạo nên nguồn gốc và động lực cho sự phát triển trong thế giới
khách quan.
Liên hệ: N/c quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc đối với
hoạt động thực tiễn của chúng ta.
Trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, việc nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập cho ta
biết được mâu thuẫn của nó và biết được nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các
mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm cho những mặt đó
biến đổi; đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng giai đoạn; xem xét sự
giống nhau và khác nhau của chúng.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định
trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức; phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu
thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu
thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng không được để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra
một cách tự phát; phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chin muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh. Đối với mâu thuẫn khác nhau phải có cách giải quyết
khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, với nhiệm vụ lớn nhất là xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu là nhu cầu phát triển đất nước và sự phá hoại của các thế lực thù địch.
Việc giải quyết………….
Câu 11: Mâu thuẫn là gì? Nêu các loại mâu thuẫn? vận dụng mâu thuẫn này phân tích mâu thuẫn ở trên
thế giới và ở Việt Nam? Phương thức giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dung đẻ chỉ sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối
lập trong một chỉnh thể tạo thành sự vật - hiện tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng mang tính khách quan và phổ
biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật hiện tượng thuộc tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó tồn tại
trong mọi giai đoạn khác nhau từ phát sinh, phát triển cho đến chuyển hoá của các sự vật - hiện tượng. Tuy
nhiên, trong mỗi một lĩnh vực, mỗi một giai đoạn, một đối tượng vật chất khác nhau thì mâu thuẫn được biểu
hiện một cách khác nhau. Tính phong phú, đa dạng của mâu thuẫn được quy định một cách khách quan bởi các
đặc điểm của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn, bởi những điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại của các
mặt đối lập được thể hiện, bởi trình độ t/c của hệ thống (SV) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Triết học Mác xít đánh giá cao vai trò, vị trí của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển và khẳng định
rằng mâu thuẫn chính là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Mâu thuẫn có nhiều loại khác nhau và tuỳ theo góc độ nghiên cứu, đánh giá, đặc điểm tính chất cũng như vai
trò ý nghĩa của chúng mà có thể phân chia mâu thuẫn theo những dạng chính sau đây:
•
Nếu căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật thì mâu thuẫu bao gồm hai loại bên
trong – bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật hay
trong cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự
vật đó với các sự vật khác. Sự phân loại mâu thuẫn bên trong và bên ngoài chỉ mang ý nghĩa tương đối, tuỳ
20
thuộc vào phạm vi xem xét, giải quyết. Có thể cùng một mâu thuẫn nhưng trong mối quan hệ này nó là mâu
thuẫn bên trong nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là mâu thuẫn bên ngoài và ngược lại.
Hai loại mâu thuẫn này có vị trí, ý nghĩa khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Trong
đó mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động trong sự tác động lẫn nhau, vì thế, việc giải quyết mâu thuẫn
bên trong không tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài và việc giải quyết nâu thuẫn bên ngoài tạo điều
kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Chẳng hạn, VN là thành viên của tổ chức ASEAN, đây là một tổ chức đồng thuận nhưng trong đó cũng có sự
khác biệt. Trong 10 nước ASEAN chỉ có VN là có ĐCS cầm quyền, vì thế VN và ASEAN vừa hợp tác, vừa đấu
tranh. VN tham gia ASEAN để phát triển đất nước, giải quyết mối quan hệ bên ngoài để giải quyết mâu thuẫn
bên trong. ASEAN vừa hội tụ lẫn nhau, vừa mâu thuẫn với nhau. Trước lợi ích chung thì ASEAN gắn kết với
nhau nhưng trước lợi ích riêng của quốc gia, dân tộc thì lại có xu hướng tách rời nhau, thể hiện như các nước
ASEAN đều sửa đổi Luật đầu tư để thu hút đầu tư vào nước mình.
•
Nếu căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia thành
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn qui định bản chất của sự vật,
quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật và khi
nó được giải quyết thì sự vật có sự thay đổi về chất. Mâu thuẫn không co bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật, quy định sự vận động, phát triển một mặt nào đó của sự vật mà không quy định
bản chất của sự vật, Việc giải quyết mâu thuẫn này không làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
•
Nếu căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất
định thì mâu thuẫn được phân chia thành hai loại mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu
là mâu thuẫn nổi lên hang đầu trong một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn
khác trong giai đoạn đó. Việc giải quyết mâu thuẫn này ở trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển
sang giai đoạn mới. Thực ra giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ
với nhau. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản trong từng giai đoạn và
việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là những bước, những nấc thang trong quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ
bản. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật
nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà nó bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Việc giải quyết mâu thuẫn thứ yếu
góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
•
Nếu căn cứ tính chất của các lợi ích đối lập trong xã hội thì có các mâu thuẫn xã hội và các mâu thuẫn
này được phân chia thành 2 loại mâu thuẫn đối kháng - mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là
mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là
mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích
không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Cần chú ý, mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng chỉ xuất hiện
trong xã hội loài người, việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp, phương thức đối kháng,
việc giải quyết mâu thuẫn không đối kháng phải bằng phương pháp, phương thức giáo dục, thuyết phục… Mọi
ý định dùng phương pháp giải quyết loại mâu thuẫn này vào việc giải quyết mâu thuẫn có bản chất khác đều sai
lầm. Trong cả 2 trường hợp đó, mâu thuẫn không những không được giải quyết mà thường trở nên trầm trọng
them.
•
Khi đánh giá tính chất của thời đại, (trong VK ĐH LX) Đảng ta xác định trên thế giới có 4 loại mâu
thuẫn sau:
_ Mâu thuẫn giữa CNXH mâu thuẫn với CNTB đây là mâu thuẫn cơ bản, bao trùm, xuyên suốt cả thời kỳ quá
độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 10 nga.
_ Mâu thuẫn giữa giai cấp TS với giai cấp CN cùng các tầng lớp NDLĐ khác trong lòng các nứơc TB.
_ Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với CNĐQ . Hiện nay mâu thuẫn này đang đựơc chuyển
thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển, bị lệ thuộc với các nước TB phát triển trên thế giới.
_ Mâu thuẫn giữa các nước TBCN với nhau.
Tại Đại hội 9 Đảng CSVN đã khẳng định các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại tà phát triển có phần sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn
diễn ra gay gắt. CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể
khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của
LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước
đang phát triển. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con
đưòng phát triển của mình. CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng
và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của
lịch sử, loài người nhất định tiến tới CNXH.
21
Đối với VN, trước đổi mới Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là
mâu thuẫn giữa hai con đường XHCN và TBCN. Điều đó đến nay về cơ bản vẫn là chính các. Tuy nhiên sự
khái quát đó chưa thật đầy đủ tính đặc thù của những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước đang trong thời kỳ
quá độ. Tại ĐH 7 trong cương lĩnh XD đất nứơc đã khẳng định: “Để thực hiện mục tiêu dân giầu, nứơc mạnh
theo con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải biến cơ bản tình trạng kinh tế, xã hội kém phát triển,
chiến thắng những lực lượng cản trở việc thuẹc hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống đối
độc lập dân tộc và CNXH.” Tới ĐH 9 có sự bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn cơ bản, đồng thời nhận
thức và giải quyết những mặt khác nhau của những mâu thuẫn đó trong những chặng đường trước mắt của thời
kỳ quá độ.
Hiện nay ở VN có các loại mâu thuẫn sau:
_Loại mâu thuẫn giữa hai khuynh hưóng, giữa hai con đường là TBCN và XHCN. Con đường đi lên CNXH
của VN là bỏ qua chế độ TBCN vì vậy mâu thuẫn giữa CNXH và CNRB được biểu hiện ở VN thành mâu thuẫn
giữa hai khả năng: phát triển đi lên CNTB hay đi lên CNXH. Đấu tranh giải quyết mâu thuẫn ở VN do vậy là
đấu tranh giữa hai con đường nhằm đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
_ Loại mâu thuẫn biểu hiện giữa trạng thái KT – XH kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giầu,
nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh. Hiện nay, mâu thuẫn giữa mục tiêu dân giàu, nứơc mạnh, XH
công bằng, dân chủ, văn minh, đi lên CNXH và khả năng còn hạn chế của nền kinh tế cộng với âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch trong cà ngoài nước là mâu thuẫn chủ yếu cần tập trung giải quyết.
_ Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
_ Loại mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH và biểu hiện cụ thể là mâu
thuẫn giữa mặt nhận thức những quy luật, những điều kiện và khả năng khách quan, giữa yêu cầu phải nhận
thức với một bên là nhận thức của Đảng và nhà nước trong quá trình lãnh đạo và quản lý đất nước.
Để giải quyết mâu thuẫn trên ở Việt nam hiện nay cần tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp theo mội dung mà Đại
hội lần 9 của Đảng cộng sản Việt nam đã xác định như sau: “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển; thực hiện công
bằng xã hội, trống áp bức, bất công; đâua tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực,
sai trái; Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”.
Trong đâú tranh giải quyết mâu thuẫn chúng ta có thể và cần phải sử dụng kết hợp linh hoạt các hình thức, biện
pháp đấu tranh, vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, bằng chính trị quân sự, kinh tế và ngoại giao, bằng đối thoại và đối
đầu, hợp tác và cạnh tranh; mở cửa và bảo vệ bản sắc dân tộc; bỏ qua và kế thừa, sử dụng kinh tế cơ bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu 12. quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất? ý nghĩa pp luận của quy luật
này?
Phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển, sự phát triển của bất cứ sự vật, hiện tượng nào đều trải qua quá
trình của ba quy luật. Sau đây chúng ta xem xét quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch rõ cách thức của sự vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng thông qua sự tác động qua lại giữa lượng và chất của chúng.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhảutong
sự vật hiện tượng. Trong quá trình phát triển, tư tưởng TH của nhân loại cũng đã xuất hiện nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trứơc hết và
chủ yếu vào thế giới quan và phương pháp luận của các nhà triết học hay của các trường phái triết học quy định.
Chỉ khi phép biện chứng duy vật ra đời mới đem lại quyết định đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan hệ
qua lại giữa chúng, từ đó khái quát thành quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại.
_ Chất là một phạm trù chiết học, dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính khác nhau và mỗi thuộc tính đó cũng có những đặc trưng về chất của riêng
mình, vì vậy, mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Do đó, có thể nói mỗi sự vật bao gồm nhiều chất khác nhau.
Tuy nhiên, với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ thì các thuộc tính của
sự vật có vị trí khác nhau, trong đó có những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp
những thuộc tính cơ bản tạo thnhf chất căn bản của sự vật. Mặc dù ở mỗi sự vật có nhiều chất khác nhau nhưng
chỉ có một chất căn bản là đặc trưng cho nó, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quyết định sự tồn tại
hay mất đi của sự vật.
22
Chất của sự vật, không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành nên nó mà còn bởi cấu trúc bên
trong của sự vật, bởi phương thức liên kết, sắp xếp các yếu tố cấu thành sự vật đó. Vì vậy, sự thay đổi về chất
của sự vật không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành nên nó mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi vè phương
thức tổ chức, sắp xếp, phương thức liên kết các yếu tố đó với nhau.
VD: Kim cương và than chì; cùng một thập thể đó nếu để như cũ thì hoạt động đó trì trệ. Nếu đổi mới công tác
chỉ đạo điều hành, phương thúc, cách thức sắp xếp tổ chức, phương pháp làm việc thì nó tạo nên sức mạnh của
đơn vị đó. Và cũng như vậy, nếu cho cán bộ học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng tạo nên sự thay
đổi về chất.
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của sự vật.
Lượng nói lên kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, số lượng ít hay nhiều, cao hay thấp, đậm hay nhạt...
Trong tự nhiên và xã hội, lượng có thể được biểu thị bằng những con số cụ thể, chúng ta có thể xác định cụ thể,
chính xác bằng những công cụ đo lường. Nhưng cũng có những trường hợp lượng được biếu thị dưới dạng trừu
tượng và chỉ được xác định trên cơ sở những căn cứ có tính tượng đối. Có những trường hợp lượng là nhân tố
quyết định bên trong của sự vật. Nhưng cũng có những trường hợp lượng chỉ nói lên nhân tố bên ngoài của sự
vật. Vì vậy, sự biểu thị của lượng là hết sức đa dạng, nếu một sự vật có nhiều chất thì tương tự như vậy, sự vật
đó cũng có nhiều lượng và lượng của sự vật cũng mang tính khách quan.
Tuy nhiên, sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối
quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan
hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
_ Bất kỳ sự vật nào cũng có chất và lượng, chúng quy định lẫn nhau, không thể tách rời, mỗi một chất bất lỳ
bao giờ cũng có lượng tương ứng với nó. Không có chất và lượng thuần tuý tách khỏi nhau. Trong quá trình tồn
tại và vận động của sự vật thì chất và lượng cũng có sự biến đổi. Tuy nhiên sự biến đổi về lượng và chất không
diễn ra độc lập tách rời nhau, trái lại gắn bó chặt chẽ với nhau, sự biến đổi của mặt này sẽ tác động làm ảnh
hưởng đến sự biến đổi của mặt kia và ngược lại. Chúng ta cần chú ý rằng không phải một sự thay đổi nào về
lượng cũng trực tiếp và ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Lượng có thể biến đổi trong một
phạm vi giới hạn nhất định mà chưa làm cho chất thay đổi. Chỉ khi vượt qua phạm vi giới hạn đó thì mới có sự
biến đổi về chất, phạm vi giới hạn đó được gọi là Độ.
_ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng của sự vật chưa
làm thay đổi căn bản về chất của sự vật đó.
Trong giới hạn của Độ, về cơ bản chất và lượng thống nhất với nhau mà sự vật còn là nó mà chưa chuyển
thành cái khác.
_ Về mặt tốc độ thì lượng thay đổi trước và nhanh hơn chất, sự vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng
được bắt đầu từ những sự biến đổi về lượng và quá trình này diễn ra một cách tiện tiến theo chiều hướng tăng
dần, hoặc giảm dần và khi sự thay đổi đó sẽ đạt tới điểm giới hạn cuối cùng mà tại đó lượng tiếp tục biến đổi thì
sẽ xảy ra sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn cuối cùng đó được gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm cho chất của
sự vật thay đổi. Bất kỳ độ nào cũng đựoc giới hạn bởi hai điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ
dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành độ mới và điểm nút mới. Quá
trình đó diễn ra liên tiếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
Sự thay đổi về chất không giống như sự thay đổi về lượng. Nó không diễn ra một cách tiệm tiến đân dần mà
thường được thực hiện thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về
lượng trước đó gây ra.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu cho một giai đoạn tiếp theo.
Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục vủa sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát
triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Bất kỳ một sự thay đổi căn bản nào về chất của sự vật cũng đều chỉ được thực hiện thông qua bước nhảy. Nếu
chỉ bằng phạm trù về tính tiệm tiến thì chúng ta không thể giải thích sự xuất hiện chất mới, sự ra đời sự vật mới.
Lênin nhấn mạnh: “Tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”.
Sự thay đổi về chất của sự vật diễn ra hết sức đa dạng với nhiều hình thức, nhiều bước nhảy khác nhau, được
quyết định bởi bản thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy. Tuỳ theo tính
chất, đặc điểm của bước nhảy, có thể phân loại như sau:
Xét về mặt thời gian của sự thực hiện thay đổi về chất thì có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Trong
đó, bước nhảy đột biến là bước nhảy làm biến đổi một cách nhanh chóng về chất ở tất cả các bộ phận cấu thành
23
lên sự vật. Chẳng hạn như những vụ nổ hạt nhân, những phản ứng hạt nhân. Bước nhảy dần dần là quá trình
thay đổi về chất của sự vật thông qua sự tích luỹ những chất mới và loại bỏ dần dần những chất cũ. Chẳng hạn
quá trình chuyển hoá vượn thành người diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm. Cần chú ý: bước nhảy dần dần khác
sự thay đổi dần dần về lượng ở chỗ sự thay đổi về lượng diễn ra trong khuôn khổ của chất đang có nhưng bước
nhảy dần dần lại là sự chuyển hoá từ chất mày sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục.
Xét về quy mô thực hiện bước nhảy, có thể chia thành bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. bước nhảy toàn
bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất một cách toàn diện trên tất cả các mặt, các yếu tố của sự vật. Bước nhảy
cục bộ là loại bước nhảy chỉ làm thay đổi về chất một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật.
Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, cấu trúc... thì bước nhảy theo con đường từ những thay đổi về chất
cục bộ dẫn đến thay đổi về chất toàn bộ (quá độ lên CNXH).
Nếu xem xét sự thay đổi về chất trên lĩnh vực xã hội thì có thể phân chia thành thay đổi mang tính cách mạng
và thay đổi mang tính tiến hoá. Cách mạng là sự thay đổi mà trong quá trình đó chất của sự vật biến đổi căn
bản, không phụ thuộc vào sự cải tạo đó diễn ra như thế nào. Tiến hoá là sự thay đổi về lượng cùng với những sự
biến đổi nhất định về chất nhưng là chất không căn bản. Cần chú ý: cách mạng là khái niệm hẹp hơn bước nhảy
bởi vì nó chỉ là sự cải tạo, thay đổi chất căn bản và sự thay đổi đó mang tính tiến bộ chuyển hoá lên nấc thang
phát triển cao hơn, còn nếu sự thay đổi đó mà làm cho xã hội có bước thụt lùi thì đó là phản cách mạng.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút và chất mới ra đời, nó lại có sự tác
động trở lại đối với sự biến đổi của lượng, nó làm cho lượng thay đổi ở quy mô, mức độ, nhịp điệu páht triển
của nó.
Tóm lại là những phân tích trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống
nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất thông qua những bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại đến sự biến đổi của lượng mới.
Quá trình đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
Nói chung quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của chúng ta.
Trước hết, về mặt nhận thức, để có một tri thức đầy đủ về sự vật thì phải nhận thức cả về lượng và chất của nó.
Những nhận thức ban đầu về chất của sự vật chỉ trở nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm, khi đạt tới tri thức
về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Ví sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau cho nên trong hoạt động thực
tiễn phải đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của mỗi một loại thay đổi của chất và lượng đối với sự phát
triển, kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến
hoá sang những thay đổi mang tính cách mạng.
Xem xét tiến hoá và cáh mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng là một trong những nguyên tắc phương
pháp luận. Hiểu đúng đắn mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại hữu
huyanh cũng như chủ nghĩa tả huynh.
Thứ hai, trong thực tiễn, việc nắm vững nội dung của quy luật cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có
vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới hiện nay đặt ra. Theo tính
chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới có ý nghĩa như là một quá trình cách mạng. Việc thực hiện
thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra những bước nhảy về chất ở đó, và
tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo
ra bước nhảy về chất của toàn xã hội nói chung.
như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới chỉ có thể là kết quả của quá
trình thay đổi về lượng thích hợp. Vì vậy, bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra sự tổn
thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nứơc.
Câu 13. Quy luật phủ định của phủ định? ý nghĩa phương pháp luận?
Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới khách quan đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt
vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và
phát triển của sự vật. Không như vậy, sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là phủ
định.
Trong lịch sử triết học, tuỳ theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết
học có quan điểm khác nhau về sự phủ định. Có quan điểm cho rằng, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu
như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ. (Pitago cho rằng sự phát triển của xã hội phải trải qua một chu kỳ là
78 vạn năm). Những người theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của các cũ, sự
phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của phủ định
ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó.
24
Theo triết học Mác-Lênin, sự phủ định là sự thay thế một sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động
và phát triển. Sự thay thế này được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất có thể do sức mạnh từ bên ngoài tác
động vào làm cho sự vật bị phá huỷ, bị biến dạng trở thành sự vật khác. Cách thứ hai, sự thay đổi được thể hiện
thông qua việc giải quyết mâu thuẫn nội tại bên trong sự vật, thông qua quá trình tích luỹ về lượng của bản thân
sự vật làm cho sự vật đó tự phủ định mình chuyển hoá thành cái khác.
Triết học Mác-xít nhấn mạnh và quyết tâm đến dạng phủ định thứ hai và chỉ rõ đó là sự phủ định BC.
PĐBC là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, Sự phát triển tự thân, nó là một khâu trong
quá trình dẫn tới sự ra đời của một sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
PĐBC có hai dặc trưng (đặc điểm) cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan của PĐBC thể hiện ở chỗ nguyên nhân của sự PĐ nằm ngay trong bản thân sự vật, nó kết quả
của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ vào việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát
triển, vì thế PĐBC là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Mặt khác, mỗi
sự vật lại có phương thức PĐ riêng tuỳ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng, điều này có
nghĩa là PĐBC không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người, trên cơ sở nắm vững quy luật
phát triển của sự vật, chỉ có thể tác động vào quá trình đó làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm mà thôi.
Sự kế thừa của PĐBC thể hiện ở chỗ, nó duy trì một số yếu tố, một số đặc trưng của cái bị phủ định. PĐBC là
tự thân phủ định, là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn
toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ. Cái mới xuất hiện không phải từ hư vô mà nó là
sự phát triển tiếp tục của cái cũ, từ cái cũ, trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và
chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với
hiện thực. như vậy, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt
tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện tại. Đây là điểm khác
biệt cơ bản nhất giữa phủ định biẹn chứng và phủ định siêu hình, nó làm cho sự phủ định không tạo ra sự cắt
đứt với quá khứ. Lênin khẳng định:”Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy
nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và
cái bane chất trong phép biện chứng mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự
phát triển, với sự duy trì của cái khẳng định.”
Những người theo quan điểm siêu hình đã xem xét phủ định đơn giản chỉ là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm
dứt sự liên hệ vận động, phát triển của bản thân sự vật, họ không thấy được tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới
được chuẩn bị từ trong cái cũ. Mặt khác khi nói đến kế thừa thì họ lại hiểu nó như là sự giữ lại nguyên xi toàn
bộ, không có cải tạo lọc bỏ. Họ lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào trong cái mới, một cách giản đơn áp đặt máy
móc.
Ngược lại, PĐBC không chỉ là sự khắc phục cái cũ mà còn là sưk liên kết giữa cái cũ với cái mới, giữa sự
khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện tại. Vì vậy, PĐBC trở thành vongd khâu tất yếu của mối liên hệ
và sự phát triển.
Trong một lần đến thăm VN, Lý Quang Diệu đã nói rằng: : Đừng sợ nghèo, trong thời đại ngày nay dân tộc nào
rồi cũng hiện đại hoá được, chỉ sợ HĐH rồi không giữ được bản sắc của dân tộc”. Trong thời kỳ cải cách ruộng
đất chúng ta đã cải cách với khẩu hiệu “đào tận gốc, trốc tận rễ địa chủ, cường hào, phong kiến”, chúng ta đã
phá huỷ rất nhiều các giá trị văn hoá trong các đình làng, đền, chùa, miếu... Chúng ta lầm tưởng dần đó là tàn
dư của chế độ phong kiến. Thực ra đó là giá trị văn hoá truyền thống, bản sắc của dân tộc Việt nam. quá khứ
không bao giờ biến mất hoàn toàn, trong dòng chảy vô tận của thời gian những nhân tố quá khứ sẽ để lại những
dấu ấn nhất định ở hiện tại. Những nhân tố của qua khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiện tại, tạo nên sợi dây
sinh động liên hệ giữa quá khứ với hiện tại. Vì vậy ta phải biết gạn đục, khơi trong, lưu giữ những nhân tố tích
cực của quá khứ và cải tạo biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.
PĐBC mới nói lên một giai đoạn một nấc thang trong quá trình phát triển. Để cho sự vật mới ra đời thì phải trải
qua nhiều lần phản đối biện chứng và đến đó, tức là sự vật mới ra đời, thì một chu trình phát triển mới được
thực hiện hoàn toàn. Như vậy, phản đối biện chứng phải diễn ra ít nhất 2 lần và mỗi lần phủ định đó lại có 1 đặc
điểm, tính chất riêng. Phản đối biện chứng lần 1 làm cho sự vật cũ chuyển hoá thành cái đối lập với mình, đây
là bước trung gian của quá trình phát triển. Kết quả của lần phủ định này chưa làm xuất hiện cái mới hoàn chỉnh
và trong kết quả ấy đã hàm chứa những nhân tố cho sự phủ định tiếp theo. Cần lưu ý, kết quả của nó có thể dẫn
đến sự tiến bộ hay cái mới xuất hiện, nhung cũng có thể là bước thụt lùi tạm thời so với cái ban đầu. Phủ định
lần 2 ( tức là phủ định của ohủ định), mới dẫn đến sự ra đời của cái mới một cách trọn vẹn. Về hình thức, kết
quả của lần phủ định này dường như có sự quay trở lại với điểm xuất phát ban đầu nhưng không phải lặp lại
nguyên xi như cái ban đầu mà trên một cơ sở mới trình độ mới cao hơn. Ở trong nó có sự kế thừa những yếu tố
tích cực của cả cái xuất phát ban đầu và của cả cái trung gian. Vì vậy cái mới xuất hiện, với tư cách là kết quả
của phủ định lần 2 có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn so với cái xuất phát ban đầu và cái trung gian.
25