Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

SKKN một số biện pháp dạy học môn mĩ thuật phát huy tính tích cực của phương pháp đan mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.63 KB, 55 trang )

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo, để hình thành nhân cách cho trẻ
phát triển toàn diện. Do vậy, việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh tiểu học là một trong
những yếu tố vô cùng cần thiết.
Thông qua môn Mĩ thuật, sẽ trang bị cho các em một số kiến thức, kĩ năng cơ bản
về hội họa, tiếp thu những tinh hoa của nền Mĩ thuật dân tộc. Từ đó, phát huy óc sáng
tạo và tính thẩm mĩ góp phần phát triển năng khiếu, phát hiện tài năng và bồi dưỡng
nhân tài cho thế hệ tương lai.
Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới theo dự án SAEPS là tích cực,
mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các phương pháp dạy học mới được triển khai trong dự án đã kích thích sự say mê,
hứng thú trong học tập, bồi dưỡng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy
và trí tưởng tượng của học sinh. Tuy nhiên vấn đề đồ dùng phục vụ môn học giải quyết
như thế nào để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh hay hình thức tổ chức lớp học ra
sao, cách thực hiện các quy trình sáng tạo vẫn là những băn khoăn lớn của mỗi giáo
viên chuyên trách khi giảng dạy. Chính từ những trăn trở này, chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật phát huy
tính tích cực của phương pháp Đan Mạch”.
II. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU :
- Chủ thể: “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật phát huy tính tích cực theo
phương pháp Đan Mạch”.
- Khách thể: Học sinh Trường Tiểu học Trần Bình Trọng Quận 5.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu là:
- Tìm hiểu quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học.
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản thường gặp, những tình huống, ưu điểm, hạn chế
qua quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học Trần Bình Trọng Quận 5.
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang



1


IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Các phương pháp cơ bản được sử dụng vào nghiên cứu đề tài bao gồm:
1. Sưu tầm tài liệu có liên quan: tài liệu tập huấn.
2. Phương pháp vấn đáp: thực hiện theo giáo trình.
3. Phương pháp quan sát: cho hs xem thêm về hình ảnh và video.
4. Phương pháp thực nghiệm: dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp mà
mình đề ra.
5. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nghiên cứu qua các văn bản, chương trình,
giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học môn Mĩ thuật.
6. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh.
- Dự dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn Mĩ thuật.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Để vấn đề nghiên cứu được thực hiện có hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra,
trước khi đi sâu vào giải quyết và tìm ra giải pháp, chúng tôi đã đề ra một số giả thuyết
và dự kiến tình huống như sau:
1. Nếu giáo viên thực hiện tốt việc áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới
thì hiệu quả giáo dục chắc chắn sẽ cao.
2. Những quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới của SAEPS kích thích sự tư
duy, sáng tạo của học sinh. Nếu giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt vào điều kiện
thực tế thì sẽ không còn gặp khó khăn gì.
3. Mĩ thuật là một bộ môn thuộc về năng khiếu của mỗi cá nhân, do đó cho dù
giáo viên có cố gắng thế nào cũng không thể nâng cao kết quả học tập của các em.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1. Những định hướng và mục tiêu giáo dục Mĩ thuật bậc Tiểu học.
2. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học.
3. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới (thuộc
dự án do Đan Mạch hỗ trợ).
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

2


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1.Khái quát tình hình chung về nhà trường.
2.Thực trạng việc dạy và học bộ môn Mĩ thuật trường Tiểu học Trần Bình
Trọng.
III. GIẢI PHÁP:
Giải pháp 1: Lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần
đổi mới theo phương pháp của SAEPS.
Giải pháp 2: Xây dựng các chủ đề học tập có nội dung gần gũi, quen thuộc và
phù hợp với khả năng nhận thức của các em.
Giải pháp 3: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả năng
nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Giải pháp 4 : Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập
cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò chơi.
Giải pháp 5: Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh
V. KẾT QUẢ SAU ÁP DỤNG GIẢI PHÁP:
Qua việc học tập theo phương pháp mới giúp cho học sinh có được những trải
nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát
triển sức sáng tạo và biểu đạt, vì vậy học sinh sẽ có được những hình ảnh và động lực
mang tính tinh thần. Hạn chế được cảm giác lo sợ vì không biết vẽ của các em. Học
sinh biết bảo vệ ý thức chủ quan của bản thân khi vẽ tranh, không bị ảnh hưởng bởi lời

chê bai của các bạn khác. Học sinh được bồi dưỡng rèn luyện óc quan sát, cách so sánh
sự vật hiện tượng, giúp các em tìm tòi thể hiện để vươn tới cái đẹp. Một điều không thể
không nhắc tới đó là học sinh yêu thích môn học hơn, vẽ một cách say sưa hơn, hứng
thú với nhiều sáng tạo, khiến cho tiết học trở nên thoải mái, nhẹ nhàng. Quan trọng hơn
cả là các em đã thấy tự tin khi vẽ, tạo được những câu chuyện ngộ nghĩnh mang hiệu
quả bất ngờ, đẹp mắt.
KẾT LUẬN
Những vấn đề mà chúng tôi đã nêu chắc chắn không tránh khỏi hạn chế và thiếu
xót. Song đó là những kinh nghiệm nhỏ mà chúng tôi đã rút ra được trong quá trình
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

3


nghiên cứu và dạy thử nghiệm. Chúng tôi rất mong được sự tham khảo, nhận xét, góp ý
bổ sung của đồng nghiệp, của cấp trên để giải pháp này được hoàn thiện hơn.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong công tác dạy và học, người thầy giáo có tâm huyết bao giờ cũng tập trung
vào việc đổi mới cách dạy và học bởi mục tiêu của người thầy luôn chú trọng vào đối
tượng người học, giúp người học hiểu và nhận thức ra vấn đề cần chuyển tải một cách
hiệu quả. Khổng Tử đã có câu nói rất hay: Thầy dạy không biết mỏi, trò học không biết
chán. Đạt được như vậy có nghĩa là người thầy đã đổi mới cách dạy - trò đã đổi mới
cách học.
Như chúng ta đã biết, trong mục tiêu giáo dục, chúng ta đã xác định giáo dục thẩm
mĩ có vai trò rất quan trọng. Nếu con người được giáo dục về thẩm mĩ đến nơi đến chốn
thì sẽ ngày càng hoàn thiện bản thân mình hơn và tiến đến chân thiện mỹ. Môn học Mĩ
thuật là một trong những môn học góp phần giáo dục thẩm mỹ cho học sinh một cách
tốt nhất, hiệu quả nhất. Đặc biệt là đối với trường tiểu học, môn Mĩ thuật giúp cho học

sinh được giáo dục thẩm mĩ từ rất sớm, được trải nghiệm phát triển sự sáng tạo và khả
năng biểu đạt. Có thể nói, dạy học Mĩ thuật trong nhà trường không nhằm đào tạo các
em trở thành hoạ sỹ mà thông qua các hoạt động tạo hình để khơi gợi và phát huy khiếu
thẩm mỹ vốn có ở học sinh, gây hứng thú cho học sinh trước cái đẹp tiến tới hình thành
thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình trong cuộc sống hằng ngày.
Thông thường, việc dạy học Mĩ thuật trong trường tiểu học ở Việt Nam dạy theo
phân phối chương trình với các phân môn độc lập như vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ
tranh, thường thức mĩ thuật và tập nặn tạo dáng. Với môn học này học sinh chỉ cần một
quyển vở tập vẽ, bút chì, hộp màu hoặc đất nặn. Điều này cũng giới hạn phần nào sự
hứng thú và sáng tạo của học sinh. Việc phân phối các phân môn xen kẽ nhau chủ yếu
nhằm mục đích để học sinh không cảm thấy nhàm chán khi học nên sự liên kết giữa bài
trước với bài sau thường lỏng lẻo, đôi khi không liên quan. Việc này hạn chế sự liên
tưởng, vận dụng kiến thức cũ vào bài học mới và khó tích hợp kiến thức liên môn.
So với phương pháp truyền thống, dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan
Mạch có nhiều ưu điểm trong việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, tiết học rất
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

4


thoải mái, sinh động. Phương pháp này không chỉ đơn giản là cung cấp tri thức, hướng
dẫn thực hành, mà còn phát triển các năng lực toàn diện cho học sinh như: năng lực trải
nghiệm, biểu đạt, phân tích - giải thích, trình bày, giao tiếp - đánh giá, tạo cơ hội cho
học sinh thực hành, ứng dụng trong học tập và cuộc sống. Trên cơ sở lý thuyết giáo dục
và giảng dạy Mĩ thuật, giáo viên sẽ tổ chức dạy cho các em học Mĩ thuật qua các hoạt
động Vẽ cùng nhau, Vẽ theo nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây
dựng cốt truyện... Thông qua các hoạt động tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy được năng
khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp, tiến tới hình thành
thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trong cuộc sống. Đây là một chương trình giáo dục Mĩ

thuật Tiểu học năng động, phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc
biệt là kỹ năng sống, một sự thay đổi lớn cả về phương pháp lẫn mục tiêu giáo dục của
bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học. Ngoài việc thay đổi nội dung phân phối chương trình, sự
thay đổi hình thức tổ chức lớp học phần lớn được thông qua hoạt động nhóm thì vấn đề
để học sinh tiếp thu được kiến thức, phát triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ
thuật là một trong những vấn đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được
những khó khăn, vướng mắc. Vì theo phương pháp mới, mỗi chủ đề sẽ thực hiện bằng
nhiều quy trình mĩ thuật khác nhau, giáo viên hoàn toàn không hướng dẫn học sinh thực
hành mà chủ yếu do học sinh tự tìm hiểu vấn đề, đề ra cách giải quyết nên câu hỏi đặt ra
là: Học sinh lớp Một có khả năng tư duy và sáng tạo ra câu chuyện được kể bằng ngôn
ngữ mĩ thuật? Hầu hết các giáo viên dạy Mĩ thuật Tiểu học đều cho rằng minh họa
hướng dẫn từng bước để học sinh vẽ còn chưa hiệu quả huống gì là để tự các em vẽ
theo cảm nhận và sự hiểu biết của bản thân.
Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới theo dự án SAEPS là tích cực,
mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các phương pháp dạy học mới được triển khai trong dự án đã kích thích sự say mê,
hứng thú trong học tập, bồi dưỡng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy
và trí tưởng tượng của học sinh. Tuy nhiên vấn đề đồ dùng phục vụ môn học giải quyết
như thế nào để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh hay hình thức tổ chức lớp học ra
sao, cách thực hiện các quy trình sáng tạo vẫn là những băn khoăn lớn của mỗi giáo
viên chuyên trách khi giảng dạy. Chính từ những trăn trở này, chúng tôi đã tiến hành
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

5


nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật phát huy
tính tích cực của phương pháp Đan Mạch”.
II. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU :

- Chủ thể: Một số biện pháp dạy học môn Mĩ thuật cho học sinh theo phương
pháp Đan Mạch.
- Khách thể: Học sinh trường Tiểu học Trần Bình Trọng.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu là:
- Tìm hiểu quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học.
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản thường gặp, những tình huống, ưu điểm, hạn chế
qua quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở Trường Tiểu học Trần Bình Trọng.
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Các phương pháp cơ bản được sử dụng vào nghiên cứu đề tài bao gồm:
1. Sưu tầm tài liệu có liên quan: Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài,
không thể phủ nhận vai trò quan trọng của công tác tham khảo tài liệu. Tài liệu có từ
nhiều nguồn khác nhau như: sách, báo, tạp chí, kinh nghiệm từ đồng nghiệp…Đặc biệt
là sử dụng Internet: đây là một công cụ thuận tiện để tiếp cận nhanh và dễ dàng đến một
lượng thông tin khổng lồ và phong phú. Nhưng khi tham khảo cần phải có kiến thức và
kinh nghiệm để sàng lọc những thông tin (vì không phải thông tin nào cũng là đúng) thì
mới tìm được nguồn thông tin phù hợp, chính xác với nhu cầu một cách nhanh chóng,
hiệu quả.
2. Phương pháp vấn đáp: Là phương pháp mà giáo viên sẽ dùng một hệ thống
câu hỏi để học sinh trả lời bằng miệng nhằm thu được những thông tin nói lên nhận
thức hoặc thái độ của cá nhân đối với vấn đề học bộ môn Mĩ thuật theo phương pháp
mới (phương pháp Đan Mạch).
3. Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin về quá
trình giáo dục trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động dạy – học cho ta những tài liệu
về thực tiễn để có thể nắm bắt một cách hiệu quả và chính xác. Thông qua quá trình
quan sát, giáo viên ghi nhận lại tình hình học tập của học sinh, những vấn đề nảy sinh
trong quá trình giảng dạy nhằm tìm ra biện pháp giải quyết thích hợp nhất.
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang


6


4. Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên thực hiện giảng dạy ở các khối lớp.
5. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng
và tổng hợp các kết quả thu được qua quá trình nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của
giải pháp.
6. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh, dự
dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn Mĩ thuật, thực hành giảng dạy
theo phương pháp mới.
V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Để vấn đề nghiên cứu được thực hiện có hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra,
trước khi đi sâu vào giải quyết và tìm ra giải pháp, chúng tôi đã đề ra một số giả thuyết
và dự kiến tình huống như sau:
1. Nếu giáo viên thực hiện tốt việc áp dụng phương pháp dạy học Mĩ thuật mới
thì hiệu quả giáo dục chắc chắn sẽ cao.
2. Những quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới của SAEPS kích thích sự tư
duy, sáng tạo của học sinh. Nếu giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt vào điều kiện
thực tế thì sẽ không còn gặp khó khăn gì.
3. Mĩ thuật là một bộ môn thuộc về năng khiếu của mỗi cá nhân, do đó cho dù
giáo viên có cố gắng thế nào cũng không thể nâng cao kết quả học tập của các em.

Nhóm hs lớp 5/4 thực hiện bài học với chủ đề “Cửa hàng đồ lưu niệm”
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

7


PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Những định hướng và mục tiêu giáo dục Mĩ thuật bậc Tiểu học:
Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Đồng thời còn nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp cho học sinh những cơ
sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách một con
người, chuẩn bị tốt cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao
động để học sinh tiếp tục học lên trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và
nguyện vọng bằng những hình thức thích hợp”. Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ
trong trường Tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo dục
khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh. Chính vì vậy
việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hoá thẩm mĩ phổ thông là hết
sức cần thiết.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo được sự hỗ trợ của Chính phủ Đan Mạch, đã triển khai Dự
án Hỗ trợ giáo dục Mĩ thuật cấp tiểu học (SAEPS) thử nghiệm tại các trường tiểu học ở
một số tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền trên cả nước.
Năm học 2014 - 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai phương pháp
dạy - học Mĩ thuật mới sử dụng những quy trình dạy - học Mĩ thuật của SAEPS ở tất cả
trường tiểu học trên toàn quốc. Theo đó, năm học 2015 – 2016 Bộ Giáo dục & đào tạo
tiếp tục chỉ đạo các trường: Tiếp tục triển khai thử nghiệm dạy học mĩ thuật theo
phương pháp mới tại các trường Tiểu học.
2. Đặc điểm tâm lý học sinh Tiểu học:

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang


8


Đối tượng của cấp tiểu học là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học là một
thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển
về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao
động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em
ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã
hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó,
học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân
trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà
trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng
tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ
định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ
rất nhanh và quên cũng nhanh.
Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học thì tri giác của học sinh tiểu học phản ánh những
thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác
động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn
trong thế giới. Tri giác còn giúp cho trẻ điều chỉnh hoạt động một cách hợp lý. Trong sự
phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy
cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng dẫn các em biết xem xét, biết
lắng nghe.
Bên cạnh sự phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu,
khả năng điều chỉnh chú ý có ý chí chưa mạnh. Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học là
phương tiện quan trọng để tổ chức sự chú ý cho học sinh. Nhu cầu hứng thú có thể kích
thích và duy trì chú ý không chủ định cho nên giáo viên cần tìm cách làm cho giờ học
hấp dẫn để lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích lũy vốn kinh
nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Đối với học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan –

hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – logíc. Tư duy của trẻ em mới
đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện
tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

9


còn thể hiện ở các lớp đầu cấp và sau đó chuyển dần sang tính khái quát ở các lớp cuối
cấp. Trong quá trình dạy học và giáo dục, giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này. Vì vậy,
trong dạy học lớp, giáo viên cần đảm bảo tính trực quan thể hiện qua dùng người thực,
việc thực, qua dạy học hợp tác hành động để phát triển tư duy cho học sinh. Giáo viên
cần hướng dẫn học sinh phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa, khả năng phán đoán và suy luận qua hoạt động với thầy, với bạn.
3. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới
(thuộc dự án do Đan Mạch hỗ trợ).
Giáo dục Mĩ thuật Tiểu học là một phần quan trọng trong nỗ lực của Đại sứ quán
Đan Mạch nhằm hỗ trợ quá trình dân chủ và đa nguyên tại Việt Nam. “Các em học sinh
khi tới trường giống như những cây non có rễ cứng cáp và đầy tiềm năng. Giáo viên chỉ
đóng vai trò là những người thúc đẩy, biết cần phải thêm chất xúc tác gì vào nước tưới
để giúp những cây non đó phát triển”, đó là thông điệp bà Kirsren Fugl, chuyên gia tư
vấn Đan Mạch đã nêu tại các buổi tập huấn cho giáo viên khi thực hiện phương pháp
mới của dự án. Dự án này nhằm truyền cảm hứng cho giáo viên dạy Mĩ thuật để hỗ trợ
học sinh phát triển khả năng tiếp thu thẩm mĩ và sáng tạo, bằng cách khuyến khích các
em trải nghiệm, sáng tạo, bày tỏ, hợp tác và giao tiếp với nhau qua các hoạt động mĩ
thuật thực tế. Thông qua hoạt động thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách biểu đạt,
phân tích, đánh giá, lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực ở
cá nhân. Cùng lúc với việc phát triển những năng lực này, học sinh cũng có thể phát
triển các giác quan, các kĩ năng sống, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, các

năng lực hợp tác, khả năng tự học và tự đánh giá.
* Về mục tiêu: Mục tiêu chính của phương pháp này nhằm giúp học sinh hình
thành và phát triển các năng lực:
+ Năng lực trải nghiệm: Cho các em được làm việc với những chủ đề liên quan
đến kinh nghiệm đã có của bản thân.
+ Năng lực kỹ năng và kỹ thuật thông qua các hoạt động : Vẽ cùng nhau, chân
dung biểu đạt, vẽ theo nhạc, tạo hình từ vật tìm được, xây dựng cốt truyện(xây dựng bối
cảnh câu chuyện).
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

10


+ Năng lực biểu đạt: Có nghĩa là học sinh ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để diễn
đạt sự trải nghiệm và thái độ của bản thân.
+ Năng lực phân tích và trình bày: Thông qua các hoạt động trình bày về tác
phẩm của mình, tham gia giải thích, phân tích, nhận xét về nghệ thuật, kỹ thuật thể hiện
tác phẩm.
+ Năng lực giao tiếp và đánh giá: Học sinh tham gia giao tiếp, thảo luận và đánh
giá tất cả các hoạt động trong tiết Mĩ thuật, đánh giá những gì đã làm được, có như
mong muốn hay không?...
* Nội dung chƣơng trình: Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là giáo
viên có thể chủ động theo từng nội dung tiết dạy mà kết hợp nhiều kỹ thuật trong một
bài dạy. Nội dung chương trình giáo dục Mĩ thuật theo phương pháp mới không theo
trình tự các bài như chương trình hiện hành, mà giáo viên căn cứ vào đó để xây dựng
các chủ đề cho phù hợp. Mỗi chủ đề tạo thành một quy trình mỹ thuật tương tác và tích
hợp giữa 5 nội dung: Vẽ theo mẫu, Vẽ trang trí, Vẽ tranh, Tập nặn tạo dáng, Thường
thức Mỹ thuật. Mỗi chủ đề sẽ lồng ghép giáo dục nhiều mục tiêu và được thực hiện ít
nhất là 2 tiết, nhiều nhất là 5 tiết hoặc cũng có thể hơn.

* Các quy trình mĩ thuật: Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy Mĩ thuật,
giáo viên sẽ tổ chức dạy cho các em học Mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ cùng nhau, Vẽ
theo nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây dựng cốt truyện... Thông
qua các hoạt động tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy được năng khiếu thẩm mỹ vốn có ở
trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp, tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của học
sinh trong cuộc sống. Hoạt động giáo dục Mĩ thuật còn góp phần đem lại nhận thức
mới, niềm vui, hứng thú và sáng tạo học tập cho trẻ. Việc sử dụng nền nhạc trong các
hoạt động Mĩ thuật cũng tạo cho học sinh hứng thú, không khí lớp học vui vẻ, thân
thiện.

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

11


H/s lớp 3 tham gia tiết học theo quy trình “Vẽ theo nhạc”
* Hình thức tổ chức của lớp học: Hình thức tổ chức lớp học chủ yếu là thực
hành theo nhóm, cần không gian rộng để học sinh có thể vận động và di chuyển. Có nơi
trưng bày tranh, sản phẩm để học sinh dễ dàng quan sát, nhận xét, đánh giá.

SƠ ĐỒ HÌNH THÀNH CÁC NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
Theo phương pháp mới
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1.Khái quát tình hình chung về nhà trường:
Trường Tiểu học Trần Bình Trọng là một trong những đơn vị dẫn đầu trong Quận
về chất lượng giáo dục, trong những năm qua trường đã luôn nhận được sự quan tâm
chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu Nhà trường. Trường hiện có : 05 tổ chuyên môn và
01 tổ Văn phòng.
* Về cơ sở vật chất:


Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

12


Nhìn chung về tình hình cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo đầy đủ, đáp ứng
được mục tiêu giáo dục cũng như đáp ứng được nhu cầu giảng dạy nghiên cứu của giáo
viên và nhu cầu học tập của học sinh theo chương trình đổi mới hiện nay.
- Trường có 29 lớp học được trang bị bàn ghế, đèn phát sáng và quạt máy theo
đúng tiêu chuẩn quy định.
* Về đội ngũ giáo viên và học sinh:
- Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên: 61, trong đó có 2 giáo viên chuyên
Mĩ thuật.
- Đại đa số giáo viên đều nhiệt tình công tác, tích cực tham gia các phong trào thi
đua và có tinh thần cầu tiến.
- Tổng số học sinh : 1134 học sinh.
* Về chất lƣợng giáo dục:
Ban giám hiệu nhà trường luôn làm tốt công tác tập trung mọi điều kiện để nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng đội
ngũ, làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, tham mưu xây dựng cơ sở vật chất cho nhà
trường, đổi mới, sáng tạo trong công tác quản lí, chỉ đạo chuyên môn và nhà trường.
Thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, đảm bảo dân chủ, kỉ cương, tình thương, trách
nhiệm. Bên cạnh đó, ban Giám hiệu nhà trường luôn chú trọng triển khai có hiệu quả
các cuộc vận động, các phong trào thi đua của Ngành, của Công đoàn.
2.Thực trạng việc dạy và học bộ môn Mĩ thuật trường Tiểu học Trần Bình
Trọng:
Hiện nay ở các trường Tiểu học hầu hết đã có đủ giáo viên được đào tạo chuyên
dạy môn Mĩ thuật. Có thể nói năng lực giáo viên không còn là vấn đề phải bàn cãi. Do

vậy chất lượng giảng dạy luôn được giáo viên quan tâm, đầu tư đúng mức. Tuy nhiên
việc dạy bộ môn Mĩ thuật vẫn còn rất nhiều bất cập do nhiều yếu tố khác nhau, chưa đạt
được kết quả như mục tiêu giáo dục đề ra.
Qua 2 đợt tập huấn do Sở Giáo dục và phòng Giáo dục tổ chức, đại đa số giáo
viên đều nắm được các bước thực hiện một quy trình mĩ thuật, các giáo viên tham gia
dạy thí điểm cũng được Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện về thời gian, công việc,
phối kết hợp với các thầy cô trong tổ để có thể dự giờ lẫn nhau, giúp giáo viên có thể
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

13


trải nghiệm phương pháp mới cùng các đồng nghiệp. Qua quá trình tập huấn và dạy thử
nghiệm, chúng tôi nhận thấy tính ưu việt của dự án là lấy học sinh làm trung tâm, đồng
thời xây dựng quy trình tương tác và tích hợp các phân môn cho từng nội dung học tập,
nhưng áp dụng vào giảng dạy như thế nào thì hầu hết còn rất mơ hồ. Khi tiến hành áp
dụng, cũng như nhiều giáo viên chuyên trách khác không tránh được những khó khăn
vướng mắc, lúng túng khi thực hiện. Về nội dung các chủ đề giáo viên có thể xây dựng
dựa trên chương trình hiện hành nhưng khó khăn lớn là việc tổ chức các quy trình. Nếu
thực hiện tại lớp thì không thể tổ chức được do phải sắp xếp lại bàn ghế, trong khi thời
lượng tiết dạy chỉ có 35 phút.

Bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều điểm giáo viên băn

khoăn, lúng túng, không biết thực hiện như thế nào cho đúng tinh thần đổi mới, cho đạt
hiệu quả. Ví dụ như:
- Khi giáo viên được dự giờ, thao giảng, hội giảng…có nhất thiết phải thực hiện
đầy đủ các bước như khi dạy theo phương pháp trước đây? Bởi có khi tiết được dự giờ
là tiết thực hiện tiếp quy trình mà các em đang thực hiện.

- Nếu trường có phòng chức năng để dạy Mĩ thuật thì không sao, nhưng đối với
nhiều trường không có thì sắp xếp bàn ghế như thế nào để áp dụng như đúng phương
pháp mới mà vẫn đảm bảo về mặt thời lượng 35 phút cho 1 tiết?
Vậy thực tế quá trình giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học sinh ở trường Tiểu học
Trần Bình Trọng diễn ra như thế nào? Có đạt mục tiêu giáo dục môn học như dự án hỗ
trợ giáo dục Tiểu học (SAEPS) đã đề ra hay không?
Như đã nêu ở trên, dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới sẽ rèn luyện cho học
sinh rất nhiều kỹ năng, phát huy được trí tưởng tượng của các em. Các hoạt động học
tập trên lớp hoàn toàn do học sinh chủ động: chủ động hợp tác, chủ động tư duy sáng
tạo, chủ động phân tích đánh giá…Nếu dạy theo phương pháp cũ, giáo viên chỉ cần
chuẩn bị một số tranh, ảnh hoặc mẫu vật…dùng cho một tiết dạy là đủ. Khi lên lớp cứ
theo trình tự các hoạt động ở các tiết là xong. Nhưng khi dạy theo phương pháp mới đòi
hỏi giáo viên phải có kế hoạch dạy học xuyên suốt và liên kết giữa các tiết trong cùng
một chủ đề, không tiết nào giống tiết nào.Việc thay đổi hoàn toàn cả về nội dung
chương trình lẫn phương pháp, hình thức tổ chức lớp học cũng đã gây nhiều tranh luận
giữa các giáo viên chuyên trách và các thầy cô ở Bộ về trong buổi tập huấn. Nhiều ý
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

14


kiến cho rằng hay thì có hay nhưng không phù hợp điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường, điều kiện kinh tế của gia đình học sinh…do phải có phòng chức năng riêng, học
sinh phải chuẩn bị nhiều vật dụng để phục vụ cho việc học (mà vấn đề đồ dùng học tập
này ở Đan Mạch là do nhà trường đầu tư, có sẵn tại lớp).
Qua thực tế giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học sinh tiểu học, bản thân chúng tôi
cũng gặp không ít khó khăn về vấn đề đồ dùng học tập này. Mỗi em được trang bị một
hộp màu sáp, một vở vẽ khổ A4, 1 bịt giấy màu. Nếu thực hiện quy trình Vẽ cùng nhau,
Vẽ biểu cảm thì không có gì đáng bàn, nhưng còn các quy trình khác thì sao? Dây kẽm,

giấy bồi, keo, các vật dụng khác…thì phải làm thế nào để có? Yêu cầu phụ huynh mua
cho các em là điều còn khó hơn khi yêu cầu phụ huynh đóng các loại quỹ. Lý do:phần
lớn phụ huynh cho rằng Mĩ thuật là môn phụ nên con em họ học được gì, học như thế
nào cũng chẳng đáng quan tâm. Chính vì vậy, hầu hết các chủ đề đều áp dụng quy trình
Vẽ cùng nhau hoặc Vẽ biểu cảm, Vẽ theo nhạc, Xây dựng cốt truyện là chính, còn các
quy trình khác không thể thực hiện được vì lý do trên.
Mặt khác đối với học sinh lớp nhỏ, nhận thức của các em chủ yếu là nhận thức
cảm tính. Các em vẽ hình thường còn quá nhỏ, không tự tin khi thể hiện (khi vẽ biểu
đạt, tạo ngân hàng hình ảnh), bố cục trống trải (khi vẽ cùng nhau), tạo hình bằng đất
nặn, xé dán hình chưa phong phú dẫn đến sản phẩm đạt được không đẹp mắt, khó biểu
đạt nội dung chủ đề. Mặt khác do chất liệu bút chì dễ tẩy xoá nên nhiều học sinh quá
lạm dụng tẩy, làm cho bài vẽ bị bẩn, thường bị rách giấy, hình vẽ thiếu tự nhiên. Các
bài vẽ, các sản phẩm của học sinh còn mang tính sao chép, na ná giống nhau, chưa có
nhiều sáng tạo hay ý tưởng đột phá. Khi vẽ màu thường đơn điệu, không có đậm nhạt,
vẽ màu không gọn. Trong khi có thể nói các em rất thích học Mĩ thuật, thích vẽ, thích
xem tranh, thích được sáng tạo nhưng các giờ học vẫn đại đa số vẫn chưa thực sự thoải
mái, chưa thật sự là “không gian của sự sáng tạo”. Các em vẽ thường bị gò bó, công
thức, đôi khi rập khuôn, sự suy nghĩ, tìm tòi chưa được giải phóng, hiện tượng bắt
chước, lặp lại từ cách vẽ hình, vẽ màu, cách tìm chủ đề cho vẫn còn chung
chung...Nhưng nếu giáo viên thiếu quan sát hay quản lý lớp là các em thường nói
chuyện riêng, đùa giỡn,làm ảnh hưởng đến lớp học bên cạnh. Có thể tóm tắt một số
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

15


thuận lợi và khó khăn khi áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy bộ môn Mĩ thuật
cho học sinh tiểu học như sau:
a. Thuận lợi:

* Về phía giáo viên:
- Giáo viên dạy Mĩ thuật luôn được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt là
Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên áp dụng
phương pháp mới vào giảng dạy, luôn tạo mọi điều kiện để giáo viên an tâm công tác và
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm và năng lực chuyên
môn.
- Cơ sở vật chất của nhà trường khá khang trang, sạch đẹp.
- Nội dung chương trình Mĩ thuật Tiểu học có một số bài không phù hợp vì mang
yếu tố đặc thù vùng miền, nhưng theo phương pháp mới thì giáo viên có thể xây dựng
kế hoạch dạy học cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương, khả năng nhận thức của
học sinh mà không quá phụ thuộc vào khuôn khổ của chương trình hiện hành.
* Về phía học sinh:
- Các hoạt động của mỗi chủ đề nối tiếp liền mạch nhau, làm cho học sinh luôn
cảm thấy hào hứng khi được khám phá, sáng tạo với nhiều trải nghiệm. Mặt khác, các
em được thỏa thích với những sáng tạo, được trao đổi, học hỏi từ bạn rất nhiều. Thông
qua hoạt động mỹ thuật thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách biểu đạt, phân tích,
đánh giá, tự lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực cá nhân.
Chính bản thân các em sẽ tự tin trình bày những ý kiến cá nhân trước tập thể.
- Có thể nói việc giảng dạy bộ môn Mĩ thuật tương đối nhàn nhã, học sinh rất
yêu thích môn học vì là một giờ học không gò bó, không có nhiều áp lực. Đó chính là
một lợi thế, không phải môn học nào cũng có được.
b. Khó khăn:
Tuy nhiên qua quá trình áp dụng (bắt đầu từ học kì 2 của năm học 2013- 2014),
chúng tôi nhận thấy còn gặp một số khó khăn sau:
* Về phía giáo viên:

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang


16


- Trang thiết bị phục vụ môn học chưa được đầu tư thoả đáng, chưa đủ đáp ứng
nhu cầu cho dạy - học Mĩ thuật, sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo rất hiếm.
- Khi dạy theo phương pháp của Đan Mạch đòi hỏi giáo viên phải có kế hoạch
dạy học xuyên suốt và liên kết giữa các tiết trong cùng một chủ đề. Xây dựng nội dung
các chủ đề như thế nào cho đảm bảm mục tiêu giáo dục và theo thời khóa biểu của nhà
trường. Nếu chủ đề quá xa lạ hoặc quá khó sẽ không tạo được hứng thú học tập cho các
em và ngược lại nếu quá dễ thì sẽ gây tâm lý nhàm chán cho học sinh. Bên cạnh đó giáo
viên vẫn còn lung túng nhiều trong việc lựa chọn và vận dụng các quy trình làm sao cho
phù hợp với chủ đề thì mới đạt hiệu quả và mục tiêu giáo dục của bài học.
* Về học sinh:
- Đối với học sinh Tiểu học giáo viên phải hướng dẫn vẽ từng bước chi tiết có khi
các em còn chưa thực hiện được huống gì là theo phương pháp mới các em phải tự tìm
ra cách thể hiện, cách vẽ, cách dựng câu chuyện… thông qua những trải nghiệm trên
lớp. Hơn nữa nếu là học sinh lớp nhỏ thì vấn đề này càng đáng lo ngại, bởi lẽ không
phải học sinh nào cũng sẵn sàng sáng tạo khi mà bản thân chưa hiểu, chưa nắm được
cách vẽ, cách thể hiện qua các đường nét, màu sắc…để đạt yêu cầu bài học. Học sinh
chưa phát huy được sự sáng tạo, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động trên lớp.
- Khi áp dụng phương pháp mới thì hình thức tổ chức lớp học thay đổi, chủ yếu
là thực hành theo nhóm, giáo viên sẽ mất nhiều thời gian cho việc sắp xếp, ổn định chỗ
ngồi cho học sinh (trước khi Vào tiết học phải mất hai mươi phút để kéo sắp xếp bàn
sao cho phù hợp với nội dung của chủ đề giảng dạy), rất khó khăn trong việc quản lý
trật tự lớp học. Hoạt động theo nhóm nhiều lợi thế nhưng nếu không được tổ chức một
cách khoa học thì vấn đề trật tự lớp học sẽ vượt ra khỏi tầm kiểm soát của giáo viên. Vì
học nhóm, các em ngồi đối diện nhau hoặc thành vòng tròn nên hay nói chuyện, đùa
giỡn trong giờ học. Hầu hết giáo viên dạy bộ môn cho học sinh lớp Một đều gặp khó
khăn trong việc giảng dạy. Nề nếp lớp chưa ổn định, học sinh không quen ngồi lâu
trong khuôn khổ. Giữ trật tự đã khó, để các em tham gia vào hoạt động học tập theo

hướng dẫn của giáo viên còn khó hơn.
- Bảy quy trình dạy – học mĩ thuật chủ yếu là đề cao khả năng tự học của học
sinh, nhưng để thực hiện được một quy trình các em phải chuẩn bị rất nhiều vật dụng
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

17


như : giấy A0, A4, giấy bồi, kẽm, băng keo, hộp giấy, vật dụng tìm được…Điều này
quả là khó khăn cho cả giáo viên và học sinh, vì bản thân các em chưa thể tự chuẩn bị
được mà phải có sự hỗ trợ từ phía phụ huynh. Với “vị trí” của môn học như hiện nay thì
sự nhiệt tình của phụ huynh có được như mong muốn? Nhiều em hoàn cảnh khó khăn
có được hộp màu và vở vẽ đã là may mắn. Mặt khác, học sinh lớp nhỏ rất khó khăn
trong việc sử dụng kéo, chưa biết cách cầm kéo (ở quy trình Vẽ theo nhạc) hay nặn đất
sét. Khi thực hiện giảng dạy theo những quy trình này, giáo viên thường mất rất nhiều
thời gian để hướng dẫn, hỗ trợ các em, thậm chí hết tiết học mà nhiều em vẫn chưa hoàn
thành được sản phẩm.
Kết luận: Phải giảng dạy Mĩ thuật cho học sinh tiểu học và áp dụng phương pháp
của Đan Mạch như thế nào cho phù hợp và đạt mục tiêu giáo dục? Như lời bà Kirsren
Fugl, chuyên gia tư vấn Đan Mạch đã nêu tại các buổi tập huấn cho giáo viên khi thực
hiện phương pháp mới của dự án “Các em học sinh khi tới trường giống như những cây
non có rễ cứng cáp và đầy tiềm năng. Giáo viên chỉ đóng vai trò là những người thúc
đẩy, biết cần phải thêm chất xúc tác gì vào nước tưới để giúp những cây non đó phát
triển”. Cũng chính từ thông điệp này, qua quá trình giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học
sinh tiểu học, chúng tôi đã nghiên cứu, thực hiện và rút ra một số giải pháp cơ bản giúp
giáo viên phần nào thực hiện có hiệu quả việc đổi mới.
III. GIẢI PHÁP:
Giải pháp 1: Lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh
thần đổi mới theo phương pháp của SAEPS.

* Mục đích: Lập kế hoạch dạy chi tiết từng hoạt động giúp giáo viên chủ động và
ứng phó kịp thời, đúng đắn các tình huống sư phạm có thể xảy ra trên lớp.
* Biện pháp thực hiện: Khi dạy học dưới bất cứ phương pháp nào đều yêu cầu
giáo viên phải lập được kế hoạch dạy học hoàn chỉnh. Đó không chỉ là đơn thuần thực
hiện cho đúng nhiệm vụ khi lên lớp mà nó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của mỗi
giáo viên đối với học sinh. Có thể nói việc lập kế hoạch giảng dạy tốt là đã thành công
một nửa của quá trình dạy học. Giáo viên là người điều khiển quá trình và tạo điều kiện
cho học sinh phát triển tư duy bằng các câu hỏi mở và khuyến khích các em chia sẻ
những kinh nghiệm sẵn có của mình. Điều này tạo ra nền tảng cần thiết để giúp các em
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

18


kiến tạo được quy trình học tập của mình bằng cách liên hệ những điều đã biết với
những điều sẽ học. Khi lập kế hoạch giáo viên phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp
để điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp và sát với khả năng tiếp thu của học sinh. Kế hoạch
cho từng hoạt động hoặc cho toàn bộ quy trình theo phương pháp Đan Mạch có thể
ngắn, dài và kết nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với nhau, kết thúc hoạt
động này sẽ là mở đầu cho hoạt động tiếp theo… Cụ thể khi xây dựng kế hoạch dạy học
theo phương pháp mới, giáo viên cần phải chú ý tới:
- Mục tiêu bài học: Mỗi bài học, tiết học đều có mục tiêu chung là hướng tới
hình thành cho học sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt
bằng lời nói, học sinh tưởng tượng và sáng tạo được một câu chuyện bằng ngôn ngữ mĩ
thuật. Tuy nhiên, giáo viên vẫn cần xác định rõ mục tiêu cụ thể của bài học đó là học
sinh hiểu được gì? Thực hiện như thế nào và làm được gì? Ví dụ nếu là chủ đề Ngôi nhà
của em:
Mục tiêu là: Giúp học sinh phát triển được khả năng quan sát và phát hiện về hình khối
đơn giản xung quanh mình. Học sinh xử dụng được các hình khối để tạo nên các hình

dáng đơn giản, cụ thể về ngôi nhà và khung cảnh xung quanh. Học sinh phát huy khả
năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng lời nói.
- Nội dung chủ đề: Nội dung các chủ đề phải vừa sức học sinh, phù hợp với tâm
lý lứa tuổi của các em.
- Điều kiện tiên quyết: Đó là những yêu cầu thiết yếu để quá tình giảng dạy có
hiệu quả, bao gồm: Tạo điều kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý khả năng,
phong cách học của từng học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học sinh và chiến
lược học tập;xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền cảm hứng cho các em.
- Môi trường học tập: Học tại lớp, môi trường học tập thoải mái sẽ hỗ trợ rất
nhiều cho quá trình dạy và học.
- Quá trình học: Mỗi quá trình học là một sâu chuỗi các hoạt động diễn ra.
- Đáng giá: Đánh giá từng giai đoạn và đánh giá cả quá trình thực hiện.
Ví dụ: Kế hoạch bài học theo chủ đề ở khối lớp 5:
Tuần thực hiện : 2

Từ ngày: 29/08/2016 đến 02/0/2016

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

19


Tích hợp các bài 2; bài 6; bài 10 và bài 18 (4 tiết)

(Bài 2)
I. MỤC TIÊU:
- Kiến thức: Học sinh hiểu sơ lược về vai trò và ý nghĩa của màu sắc trong trang trí;
nhận biết được các họa tiết trang trí đối xứng qua trục; hiểu cách trang trí đối xứng qua trục;
hiểu được sự giống nhau và khác nhau giữa trang trí hình chữ nhật và trang trí hình vuông,

hình tròn.
- Kĩ năng: Học sinh biết cách sử dụng màu trong các bài trang trí; biết phối hợp các nét
thẳng để vẽ, tạo hình đơn giản; vẽ được họa tiết trang trí đối xứng qua trục; vẽ được bài trang
trí cơ bản bằng họa tiết đối xứng; biết trang trí đường diềm, hình chữ nhật và vận dụng được
trong trang trí đồ vật.
- Thái độ: Học sinh phát huy trí tưởng tượng sáng tạo và biết vận dụng linh hoạt cách
trang trí đối xứng trong đời sống.
II. ĐỒ DÙNG DẠY - HỌC:
- Giáo viên: Đoạn nhạc, tranh, ảnh, phiếu nhóm, bút dạ, bút sáp chì màu, …
- Học sinh: Bút chì, giấy vẽ, bút màu, vở thực hành Mĩ thuật, …
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC CHỦ YẾU:
Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

1. Hoạt động khởi động (2 phút):
- Giáo viên yêu cầu Trưởng ban văn nghệ bắt - Trưởng ban văn nghệ bắt nhịp bài hát cho
nhịp bài hát đầu tiết.

cả lớp cùng hát đầu tiết.

- Giáo viên kiểm tra đồ dùng học tập.

- Cả lớp để đồ dùng học tập lên bàn.

- Giáo viên giới thiệu chủ đề “Hộp màu của - Học sinh lắng nghe, cảm nhận.
em”.
2. Các hoạt động chính:
2.1. Hoạt động 1: Trải nghiệm (3 phút)
* Mục tiêu: Học sinh hiểu sơ lược về vai trò và

ý nghĩa của màu sắc trong trang trí; nhận biết
được các họa tiết trang trí đối xứng qua trục.

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

20


* Cách tiến hành:
- Giáo viên gợi ý để học sinh nêu tên các màu - Học sinh luân phiên kể tên các màu mà
mà mình biết.

mình biết như xanh, đỏ, vàng, tím, …

- Giáo viên trình chiếu (hoặc gắn lên bảng) - Học sinh quan sát và nhận xét.
tranh các họa tiết trang trí đối xứng qua trục để
học sinh nhận diện, nhận xét.
2.2. Hoạt động 2: Kĩ năng sáng tạo (25-28
phút)
* Mục tiêu: Học sinh tạo được các màu da
cam, xanh lá cây.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên yêu cầu học sinh dùng vở thực - Học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo
hành Mĩ thuật để thực hiện các yêu cầu của các viên:
bài 2; bài 6; bài 10 và bài 18.

+ Các nhóm học sinh trung bình, yếu: thực
hiện bài 2 hoặc bài 10.
+ Các nhóm học sinh khá: thực hiện bài 6 và

bài 10.
+ Các nhóm học sinh giỏi: thực hiện bài 10
và bài 18.

- Giáo viên khuyến khích nhóm học sinh giỏi - Học sinh giỏi sau khi làm xong có thể giúp
sau khi làm xong có thể giúp đỡ những bạn đỡ những bạn khác
khác.
- Giáo viên nhận xét.

- Lớp nhận xét.

3. Hoạt động nối tiếp (5 phút):
- Giáo viên nhận xét tiết học, liên hệ thực tế.

- Học sinh lắng nghe.

- Nếu các nhóm chưa làm kịp, giáo viên yêu
cầu thực hiện tiếp vào tiết sau.
- Yêu cầu học sinh dọn dẹp, vệ sinh lớp học.

- Học sinh dọn dẹp, vệ sinh lớp học.

Môn Mĩ thuật là môn dành thời gian chủ yếu cho học sinh thực hành, do vậy giáo
viên cần thiết kế tổ chức các hoạt động trải nghiệm phong phú, đa dạng nhưng không
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

21



quá dài, mất nhiều thời gian. Tuyệt đối không đưa ra tranh vẽ, sản phẩm làm mẫu để
học sinh quan sát trước khi thực hành mà phải để học sinh chủ động tích cực tìm hiểu
và tham gia vào quá trình tranh luận, thảo luận, bàn bạc khi làm việc cùng các bạn. Để
thực hiện việc lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần đổi
mới theo phương pháp của SAEPS, giáo viên cần tiến hành như sau:
a. Dự kiến các hoạt động dạy-học diễn ra theo trình tự hợp lý và nối tiếp
nhau.
Mỗi tiết dạy, mỗi giai đoạn của một quy trình đều có những hoạt động và mục
tiêu giáo dục khác nhau, do đó đòi hỏi giáo viên phải xây dựng và đề ra những nội dung
công việc cụ thể, hình thức học tập, cách thực hiện... Ví dụ ở tiết 1: Hướng dẫn học sinh
tìm hiểu chủ đề ( chủ đề Vườn cây của em ) trình tự các hoạt động như sau:
- Tổ chức trò chơi: Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ cây.
Học sinh dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải ngừng tay. Đội nào
có học sinh vẽ nhanh, vẽ được nhiều hình cây nhất là đội thắng cuộc.
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét phần thi đua của các đội.
- GV giới thiệu chủ đề:
+ Cảnh vật xung quanh chúng ta thường có những gì? (cây cối, hoa lá, nhà
cửa,…).
+ Để giúp các em thấy được vẻ đẹp của cảnh vật xung quanh chúng ta và vẽ
được những bức tranh thật đẹp, hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề: Vườn
cây của em.
- Giáo viên cho học sinh quan sát một số ảnh vườn cây, gợi ý học sinh trả lời:
+ Trong tranh, ảnh này có những cây gì?
+ Em hãy kể những loại cây mà em biết, tên cây, hình dáng, đặc điểm.
+ Em sẽ chọn những cây gì để vẽ tranh.
- Giáo viên tóm tắt :
+ Vườn cây có nhiều loại cây hoặc có một loại cây (Dừa hoặc na, mít, soài...).
+ Loại cây có hoa, có quả.
- Học sinh thảo luận nhóm đôi: Kể cho bạn nghe về hình loại cây mà mình thích.
- Một số học sinh kể trước lớp..

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

22


- GV kết luận: Vẽ tranh chủ đề về Vườn cây em có thể vẽ được rất nhiều các hình
ảnh khác nhau. Có thể là vườn cây, vườn hoa,..trong đó có thêm hình ảnh các con vật,
người cho bức tranh thêm sinh động.
- Gợi ý học sinh cách vẽ:
+ Vẽ tranh vườn cây em sẽ vẽ những gì?
+ Vẽ cây, em vẽ bộ phận nào trước?
- Một số học sinh lên bảng tập vẽ.
- Giáo viên và học sinh cùng nhận xét, rút ra cách vẽ.
- Học sinh hát một bài kết hợp vận động để kết thúc tiết học.
b.Dự kiến cách giới thiệu bài phong phú, đa dạng để lôi cuốn học sinh tham
gia tích cực vào tiết học.
Nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần ngắn gọn, cứ nêu ngay tên bài là
xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo dục của việc này. Nếu làm phép thử
nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới thiệu bài trực tiếp và giới thiệu bài gián tiếp
sẽ thấy rõ ngay hiệu quả như thế nào.
Ví dụ khi giới thiệu chủ đề Em và những con vật nuôi:
+ Cách 1:
- Giới thiệu trực tiếp: Hôm này cô và các em cùng tìm hiểu về chủ đề Em và những
con vật nuôi.
- Hiệu quả: Học sinh nắm được tên bài học. Không khí lớp học không thay đổi, học
sinh chăm chú nghe nhưng chưa nắm được thêm bất cứ kiến thức gì ngoài tên bài.
+ Cách 2:
- Giới thiệu gián tiếp: Giáo viên tổ chức trò chơi ô chữ đoán tên con vật (chú ý chỉ
nêu tên và hình con vật nuôi), gợi ý học sinh tìm chữ. Khi học sinh đoán đúng thì hình

con vật được lật ra. Kết thúc trò chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là những con vật quen
thuộc. Để giúp các em có thể tạo hình được những con vật nuôi mà mình thích, hôm
nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề Em và những con vật nuôi.
- Hiệu quả: học sinh nắm được tên bài học, biết được những con vật nào là vật nuôi,
không khí lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được tham gia trò chơi. Vậy nên
giáo viên cần chú ý giới thiệu bài thông qua nhiều hình thức như: thông qua trò chơi, kể
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

23


một câu chuyện nhỏ, một tình huống hay đóng vai, tạo dáng, trải nghiệm thực tế…vừa
tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa cung cấp kiện thức một cách dễ hiểu nhất.
Chính vì vậy khi giới thiệu bài, giáo viên nên tạo không khí phấn khởi cho giờ học,
thu hút sự chú ý, gây tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, không nên “đi ngay” vào
nội dung.
c. Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm.
Học sinh thích học thông qua các họat động nên giáo viên không nên sử dụng
hình thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý thuyết gắn với
thực hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ dễ dàng tiếp thu kiến
thức và nhớ lâu bền. Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh được phát triển không ngừng và
có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát, trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể
hiện con người, con vật, đồ vật về hình dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được
kích thích thông qua các khả năng của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác
như: những thành viên trong gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết,
với con vật yêu thích, đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với
sự vật, hiện tượng xung quanh thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở,
truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần học
sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau về hình

dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật, biểu tượng người
khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng, tùy theo từng chủ đề mà
giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học sinh nhớ lại kiến thức, những
kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ hội chia sẻ những gì các em đã biết
khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học
sinh sẽ có được những kiến thức thực tế để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò,
trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe
kể chuyện, chia sẻ những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh,
hoặc tổ chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học.
Ví dụ: Ở chủ đề Em và những con vật nuôi giáo viên nên tổ chức cho học sinh kể
về con vật em thích nhất (hình dáng, màu sắc, đặc điểm nổi bật…). Hay chủ đề Em tự
giới thiệu giáo viên tổ chức cho học sinh tạo dáng sẽ thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo
Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

24


dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng cao hiểu biết về những tình huống
sự kiện từ đời sống hàng ngày của các em. Học sinh tự tạo lại các dáng hoạt động từ
những tình huống trong hoạt động chơi, làm việc hoặc học tập. Các em dễ dàng nắm bắt
được hình dáng, tư thế của người khi hoạt động để vẽ.

(Học sinh lớp 3/6 thực hiện làm dáng hoạt động để tạo ngân hàng hình ảnh.)
d. Tổ chức hình thức học tập theo quy trình hiệu quả nhất.
Mỗi quy trình theo phương pháp Đan mạch đều có mục tiêu giáo dục khác nhau
để giúp học sinh có thể phát triển khả năng tự học. Khi lựa chọn quy trình cần chú ý sắp
xếp trình tự các bước sao cho có sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp, nội dung và hình
thức tổ chức lớp học. Vì nếu lựa chọn quy trình không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng
học sinh học tập chán nản, thiếu ý tưởng sáng tạo. Ví dụ: nếu là chủ đề con vật thì chỉ

nên vận dụng quy trình tạo hình 3D (nặn) hoặc Vẽ cùng nhau, còn quy trình Tạo hình từ
vật tìm được là không thể thực hiện được.

Giáo viên: Võ Thị Thùy Trang
Trang

25


×