Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SKKN một số biện pháp bồi dưỡng HS yếu lớp 5 theo VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.28 KB, 8 trang )

PHỒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO CÀNG LONG

TRƯỜNG TH MỸ CẨM A

Chuyên đề
Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn toán lớp Năm
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn chuyên đề:
Hiện nay, vấn đề học sinh yếu, học sinh ngồi nhằm lớp đang được xã hội quan
tâm và luôn tìm ra giải pháp để khắc phục tình trạng này. Một trong những giải pháp
hữu hiệu nhất đó là tổ chức phụ đạo học sinh yếu. Vì thế, phụ đạo học sinh yếu là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo viên đứng lớp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, người giáo viên không chỉ dạy cho học sinh biết kiến thức mà giáo viên còn phải
biết tìm tòi lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh, giúp các em nắm vững những kiến thức cơ bản để học tốt môn Toán cũng
như kéo giảm tỉ lệ học sinh yếu. Với suy nghĩ trên, tôi quyết định chọn chuyên đề:
“Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu môn toán lớp Năm”
II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Chuyên đề tập trung nghiên cứu các giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn
Toán ở lớp 5 Trường Tiểu học Mỹ Cẩm A nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy.

B. Phần nội dung
I. Trực trạng:
1. Giáo viên
- Phân loại học sinh học yếu chưa chính xác ở từng mảng kiến thức để lựa chọn
biện pháp phụ đạo, giúp đỡ phù hợp.
- Phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên.
- Thời lượng một tiết học chỉ có 40 phút nhưng đối tượng học sinh yếu nhiều nên
giáo viên không đủ thời gian để quan tâm giúp đỡ sâu sát hết.
2. Học sinh


- Do học sinh mất căn bản từ lớp dưới nên sự tiếp thu bài một cách có hệ thống
của các em còn bị hạn chế.

1


- Ý thức học tập của học sinh Tiểu học chưa cao, một số em còn lơ là, không chú
ý đến lời hướng dẫn của giáo viên.
- Một số em có thói quen học vẹt, chưa khắc sâu kiến thức đã học.
- Một số em chưa tích cực tham gia vào hoạt đọng nhóm, còn trong chờ kết quả
cưa bạn.
- Hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chưa có điều kiện học tốt.
II. Các biện pháp thực hiện:
1. Tìm hiểu nguyên nhân và phân loại học sinh yếu ở từng mảng kiến thức
Trong hai tuần giảng dạy đầu năm, giáo viên tìm hiểu để nắm được tình hình
và số lượng học sinh yếu của lớp, sau đó tiến hành tìm hiểu nguyên nhân và phân
loại đối tượng học sinh để có kế hoạch phụ đạo thích hợp với từng đối tượng.
2. Lấp chỗ hổng kiến thức, kĩ năng cần đạt
Trong quá trình dạy, giáo viên phát hiện học sinh hỏng ở mảng kiến thức
nào thì trong khi các em làm bài hoặc khi sửa bài , giáo viên cần giảng và hướng dẫn
kĩ lại cho các em nắm chắc lại kiến thức mà các em đã quên. Ở đây, các em đa số
học yếu môn Toán là do hỏng các mảng kiến thức về kĩ năng tính toán nhất là tính
chia và giải toán có lời văn.
2.1. Kĩ năng chia:
Kĩ năng chia là tổng hợp các kĩ năng tính toán vì trong phép chia có cả phép
cộng, phép trừ, phép nhân và trong phép chia bước khó nhất có lẽ đó là nhẩm để tìm
thương. Để học sinh chia thành thạo và làm bài nhanh, cần cung cấp cho các em thủ
thuật tìm thương bằng cách che bớt chữ số ở số chia và số bị chia.
Ví dụ: 415 : 83
Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau:

- Lấy chữ số ở số bị chia (lấy 415)
- Che các chữ số ở số chia chỉ còn lại một chữ số (che từ phải sang trái) nếu
che ở số chia bao nhiêu chữ số thì che ở số bị chia bấy nhiêu chữ số (che 3 và 5)
- Tìm thương của phép chia 41 : 8 (được 5)
- Thử vào phép chia
415

83

00

5
2


2.2. Đối với bài toán có nội dung hình học
Ở nội dung này các em thường yếu về nhận dạng các yếu tố của hình và
không thuộc qui tắc tính ở các dạng hình đã học. Để giúp các em nhận dạng được các
yếu tố của hình đã cho, giáo viên cần đặt mô hình ở các vị trí khác nhau cho học sinh
tìm, nhận dạng các yếu tố của hình.
Ví dụ: Dạy bài hình thang, giáo viên đặt mô hình theo các vị trí sau:

Khi hướng dẫn các em học thuộc qui tắc, giáo viên nên cho học sinh hiểu và nắm
vững qui tắc đã hình thành và khi nêu qui tắc cần cho học sinh phát biểu bằng lời cụ
thể hơn.
Chẳng hạn: Muốn tính diện tích xung quanh hình lập phương ta lấy cạnh nhân
với cạnh rồi nhân với 4. Thay vì ở SGK: “Muốn tính diện tích xung quanh hình lập
phương ta lấy diện tích một mặt nhân với 4”.
2.3. Đối với giải toán có lời văn
Để giải được bài toán có lời văn, giáo viên cần nắm vững và hướng dẫn học

sinh đi đủ các bước của qui trình giải toán có lời văn. Cụ thể như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu bài toán
- Bước 2: Lập kế hoạch bài giải
- Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải
- Bước 4: Nhìn lại bài toán
 Ví dụ: Một người thợ dệt ngày thứ nhất dệt được 28,4m vải, ngày thứ
hai dệt nhiều hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt nhiều hơn ngày thứ hai
1,5m vải. Hỏi cả ba ngày người đó dệt bao nhiêu mét vải ?
Bước 1: Tìm hiểu bài toán
- Sau khi cho HS đọc đề bài toán, GV đặt hệ thống câu hỏi sau:
+ Bài toán cho biết gì ? (ngày thứ I dệt được 28,4m vải, ngày thứ II dệt nhiều
hơn ngày thứ nhất 2,2m vải, ngày thứ ba dệt nhiều hơn ngày thứ hai 1,5m vải)
3


+ Bài toán hỏi gì ? (cả ba ngày người đó dệt bao nhiêu mét vải)
- GV kết hợp vẽ sơ đồ đoạn thẳng lên bảng
Ngày thứ I:

28,4m
2,2m

Ngày thứ II:

…m?
1,5m

Ngày thứ III:

- Tiếp tục phân tích bài toán bằng cách đi ngược phần cần tìm đến phần đã cho.

+ Để tính được ba ngày dệt được bao nhiêu mét vải, em phải biết gì ? (biết
mỗi ngày dệt bao nhiêu mét vải)
+ Muốn tính được ngày thứ III dệt được bao nhiêu mét vải, em phải biết gì ?
(số mét vải ngày thứ II dệt được)
+ Tính số mét vải ngày thứ II dệt được ta làm sao? (lấy số mét vải ngày thứ I
dệt được cộng với số mét vải ngày thứ II dệt nhiều hơn ngày thứ I)
+ Vậy tính số mét vải ngày thứ III dệt, ta làm sao? (lấy số mét vải ngày thứ II
dệt được cộng với số mét vải ngày thứ III dệt nhiều hơn ngày thứ II)
+ Có được số mét vải dệt của mỗi ngày, ta làm thế nào để tìm số mét vải
của cả ba ngày ?(tính tổng số mét vải của ba ngày dật được)
Bước 2: Lập kế hoạch bài giải
- Sau đó đưa ra hướng giải là phải đi tìm dữ kiện nào trước, dữ kiện nào sau,
lời giải như thế nào cho hợp lí và làm phép tính gì?
+ Tìm số mét vải của ngày thứ II dệt.
+ Tìm số mét vải của ngày thứ III dệt.
+ Tìm số mét vải của ba ngày dệt.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải
Bài giải
Ngày thứ hai dệt được số mét vải là :
28,4 + 2,2 = 30,6 (m)
Ngày thứ ba dệt được số mét vải là :
30,6 + 1,5 = 32,1 (m)
Cả ba ngày dệt được số mét vải là :
28,4 + 30,6 + 32,1 = 91,1 (m)
Đáp số : 91,1m
4


Bước 4: Nhìn lại bài toán
Đây là bước rất quan trọng, không thể thiếu được trong dạy và học toán, bước

này giúp cho học sinh kiểm tra, rà soát lại bài giải và cũng ở bước này học sinh sẽ
phát hiện được cách giải khác. Thế nên giáo viên cần rèn cho học sinh có thói quen
thực hiện bước này trong giải toán có lời văn cũng như làm toán.
Đồng thời để tránh học sinh học vẹt, không khắc sâu kiến thức, khi sửa bài hoặc
cho học sinh đọc bài làm, giáo viên cần cho học sinh giải thích cách làm bài để kịp
thời uốn nắn ý thức học tập cũng như hướng dẫn kĩ lại kiến thức mà các em chưa nắm
vững.
3. Luyện tập vừa sức
- Với thời lượng 40 phút trong một tiết toán thì giáo khó mà có thời gian để
kèm học yếu có hiệu quả. Vì thế giáo viên cần tăng cường phụ đạo các em ở buổi hai.
Ở buổi này, giáo viên mới có thời gian quan tâm học sinh yếu nhiều hơn. Để học sinh
tích cực tham gia học tập và giờ phụ đạo có hiệu quả cao, giáo viên nên chọn các
dạng bài tập phải vừa sức với các em. Bài tập có thể dơn giản cũng có thể cùng dạng
đã học nhưng các số trong bài nhỏ hơn, làm sao cho các nhớ cách làm, cách giải bài
toán.
- Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần quan sát, theo dõi từng hoạt động của các
em để có sự hỗ trợ kịp thời cho các em hoàn thành bài tập. Ngoài ra, giáo viên cần
rèn cho học sinh kĩ năng học tập hay nói đúng hơn là phương pháp học toán, các em
phải nắm được lí thuyết (học thuộc qui tắc) rồi mới làm bài tập. Đồng thời kết hợp
kiểm tra thường xuyên nhằm rèn thói quen các em học bài và chuẩn bị bài trước ở
nhà.
4. Tạo hứng thú học tập cho học sinh
- Học sinh chưa có ý thức học tập tốt thường các em lười học và thụ động
dẫn đến tiếp thu bài kém. Vì thế trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần phải nắm vững và
phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt các phương pháp dạy học mới và sử dụng thuần thục
các kĩ thuật dạy học tích cực cũng như chuẩn bị tốt đồ dùng trực quan để lôi cuốn học
sinh tham gia học tập tích cực. Đồng thời giáo viên cũng nên liên hệ nhiều kiến thức

5



vào thực tế để các em thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn Toán trong
cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Qua bài số đo thời gian, học sinh biết tính số ngày trong mỗi tháng bằng
cách chỉ vào nắm tay...
- Đối với những dạng bài tập củng cố kiến thức, giáo viên cần tổ chức trò
chơi học tập để kích thích sự hứng thú học tập ở các em như trò chơi “Bắn tên”, trò
chơi “Hái hoa dân chủ”, …
- Qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, tôi thấy giáo viên càng nóng tính
với học sinh tiếp thu bài chậm thì các em càng hốt hoảng và không làm bài được. Vì
vậy trong giờ học, giáo viên nên tạo không khí lớp học thoải mái, vui tươi, luôn tôn
trọng ý kiến của học sinh, tạo điều kiện tốt nhất để học sinh phát huy khả năng của
mình. Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên phải đánh giá
đúng thực chất và công bằng, khuyến khích, động viên kịp thời, đúng lúc khi các em
có biểu hiện tiến bộ, tránh nóng nảy hoặc dùng lời nói chạm lòng tự ái của học sinh.
Khi chấm chữa bài ở tập các em, giáo viên nên cân nhắc kĩ ở lời nhận xét sao cho
khích lệ tinh thần học tập của các em.
Ví dụ: Cách làm bài của học sinh đúng nhưng kết quả sai, giáo viên ghi: “Em
hiểu bài nhưng tính toán còn sai. Cần tính toán kĩ hơn (Cần soát lại bài kĩ hơn).” Còn
nếu làm sai cả bài, giáo viên ghi: “Em đọc đề bài chưa kĩ nên đã làm sai. Cố gắng đọc
kĩ đề bài hơn”. Nếu những em học chậm mà hôm nào em làm bài đúng, giáo viên nên
khen : “Em đã hiểu bài và thực hành tốt, rất đáng khen.”
5. Tổ chức tốt phong trào “ Đôi bạn cùng tiến”
Để các em gần gũi và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, xây dựng tập thể lớp đoàn
kết, vững mạnh. Ở lớp, giáo viên tập cho các em có thói quen giúp đỡ nhau khi cần
thiết nên chọn các em gần nhà nhau thành một nhóm để các em nhắc nhở, kiểm tra
bài vở lẫn nhau. Đặc biệt khi chia tổ, giáo viên chia đều học sinh học chậm ở mỗi tổ
để thi đua giữa các tổ sẽ có sự công bằng, qua đó còn giúp các em học chậm trong tổ
này sẽ thi đua với các em học chậm ở tổ khác.
6. Phối hợp với phụ huynh học sinh

Để làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh, giáo viên cần thực
hiện các công việc sau:
6


- Liên lạc với phụ huynh kịp thời để trao đổi việc học tập của học sinh, đồng thời
nhắc nhở phụ huynh quan tâm, động viên cho con em mình trong quá trình học tập để
từ đó phụ huynh cùng giáo viên có kế hoạch rèn cho các em tiến bộ.
- Giáo viên hướng dẫn cho phụ huynh cách quản lý giờ giấc, việc học tập và
phương pháp hướng dẫn con em học tập ở nhà. Vì hiện nay có một số phụ huynh luôn
gò ép con em mình, sự áp đặt quá tải đó đôi lúc dẫn đến chất lượng học tập không
cao.
- Giáo viên phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh để thông báo kết quả, sự
phấn đấu của con em mình.
 Ngoài ra, với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, giáo viên cần quan tâm đến
các em nhiều hơn, cần gần gũi để tâm tình và thăm hỏi về hoàn cảnh gia đình các em
để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Khi có quà của các nhà tài trợ tặng, giáo viên nên xét
chọn các em này để động viên tinh thần học tập của các em.
III. Kết quả:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, kết quả học tập của học sinh cả lớp
cũng như học sinh chậm tiến bộ rất có khả quan, các em đã hứng thú, tích cực trong
giờ học, các em không còn lười học và luôn có ý thức học tập tốt. Đặc biệt ,các em đã
biết mạnh dạn thắc mắc với giáo viên khi chưa hiểu bài hay không làm bài được. Bản
thân đã từng bước thành công trong các tiết dạy cũng như chất lượng giáo dục các em
chậm tiến đã được khắc phục dần.
C. Kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm:
- Học sinh bị hỏng kiến thức, các em sẽ khó tiếp thu bài mới dẫn đến các em
lười học. Thế nên trong giờ lên lớp, giáo viên nên quan tâm đối tượng này nhiều hơn.
Giáo viên vừa dạy kiến thức mới, vừa ôn lại kiến thức cũ cho các em, tránh để các em

ngoài lề tiết học.
- Trong giảng dạy, giáo viên nên hướng dẫn chậm, kĩ và tỉ mỉ ở bước hình thành
kiến thức mới nhất là những dạng toán mới hoặc khó.
- Trong quá trình điiều chỉnh tài liệu học cần cân nhắc mục tiêu từng bài nhằm
tạo điều kiện cho các em yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Chú ý phân hóa đối
tượng học sinh trong trong từng hoạt động, trong từng bài tập, dành cho học sinh yếu
7


câu hỏi dễ hay những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em tham gia học tập,
tham gia trình bày ý kiến của mình trước lớp, giúp các em tự tin và tìm được vị trí
của mình trong tập thể.
II. Kết luận:
Tóm lại, việc phụ đạo học sinh yếu là một công việc lâu dài và phải được tiến
hành thường xuyên. Vì thế, giáo viên cần kiên trì, tận tình giúp đỡ để các em tiến bộ,
có như thế chúng ta mới kéo giảm được tỉ lệ học sinh yếu, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục.
Mỹ Cẩm , ngày 15 tháng 12 năm 2016
Người thực hiện
Nguyễn Thanh Dân

8



×