Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tiểu luận lí luận và công nghệ dạy học hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.65 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN HẾT MÔN HỌC PHẦN
LÍ LUẬN VÀ CÔNG NGHỆ DẠY HỌC HIỆN ĐẠI
“KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
CĂN BẢN TOÀN DIỆN GIÁO DỤC”
Học viên: Nguyễn Thị Thành
Lớp: Lý luận và phương pháp dạy học Vật lý

Hà Nội, 6/2016


PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
ĐIỂM

Bằng số

Bằng chữ

Hà Nội, ngày tháng 6 Năm 2016


Giảng viên


1. Đặt vấn đề
Đảng ta đã ra nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.Đổi mới căn bản hình thức và
phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực,
khách quan.
Trong chín giải pháp thì giải pháp thứ ba là về kiểm tra đánh giá.:Việc thi, kiểm tra
và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được
xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả
đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người
dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình
và của xã hội.
2. Nội dung
2.1. Đánh giá thực tiễn.
Thực trạng kiểm tra đánh giá ở các cấp phổ thông là theo định hướng nội
dung.Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu
thực chất.Kiểm tra đánh giá chưa gắn với mục tiêu giáo dục.Từ đó giáo dục cũng phát
triển lệch lạc không đạt được mục tiêu giáo dục.Một điểm bất cập nữa trong đánh giá
thành quả học tập của người học cũng cần phải nói đến đó là phần lớn các môn học
chỉ được đánh giá qua một điểm số - các bài kiểm tra. Kết quả là đo lường và đánh
giá thành quả học tập ít có tác dụng điều chỉnh quá trình dạy và học để nâng cao chất
lượng và chỉ nhằm xếp hạng kết quả học tập cho chính xác.
Do nhiều nguyên nhân trong đó có cả việc không nắm vững thang bậc chất
lượng của sản phẩm giáo dục nên phần lớn đề thi đánh giá tiếp thu môn học trong
nhà trường hiện nay chủ yếu nhằm đánh giá ở mức nhận thức thấp, tức là kiểm tra
thuộc kiến thức là chính (biết, hiểu và vận dụng) nên người học có thể quay cóp mà
không cần tư duy để trả lời (nói một cách khác là dạy và học đều không cần tư duy).
Điều đó lý giải vì sao tiêu cực trong thi cử nhiều, điểm số cao nhưng năng lực không

cao, sản phẩm giáo dục và đào tạo chất lượng còn thấp. Do đó, chúng ta cần nhanh
chóng đổi mới mục tiêu ra đề thi nhằm đánh giá năng lực nhận thức (mang tính chất
lượng) chứ không nên chỉ đánh giá thuộc kiến thức (mang tính số lượng) của người


học làm chính như hiện nay.Tóm lại là công tác kiểm tra đánh giá hiện nay ở trường
phổ thông làm chưa tốt ,còn tồn tại rất nhiều vấn đề yếu kém. Cần phải đổi mới ngay
công tác kiểm tra đánh giá.
2.2.Các mục tiêu , yêu cầu với kiểm tra , đánh giá với giáo dục trong các nhà trường
phổ thông.
Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu
chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối
hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học;
đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với
đánh giá của gia đình và của xã hội.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng
giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá
đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo
dục đại học.
Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết
quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo.
Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương,
từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ
đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đánh giá vì sự thành công của người học
Về giáo dưỡng chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học đến mức độ nào,
còn thiếu sót nào cần bổ khuyết.
Về mặt phát triển năng lực nhận thức giúp học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt

động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến
thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến
thức để giải quyết các tình huống thực tế.
Về mặt giáo dục học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập, có ý chí vươn
lên đạt những kết quả cao hơn, cũng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng cao ý
thứcc tự giác, khắc phụ tính chủ quan tự mãn.
Đối với giáo viên: Cung cấp cho giáo viên những thông tin "liên hệ ngược ngoài"
giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy.


Đối với cán bộ quản lí giáo dục: Cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục những thông
tin về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo kịp thời,
uốn nắn được những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.Khi đánh giá cần phải tuân thủ những yêu cầu sau:
Đánh giá phải xuất phát từ mục tiêu dạy học.
Công cụ đánh giá phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định.
Đánh giá phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công khai.
Đánh giá phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ đánh giá.
Những nguyên tắc mang tính tổng quát:
- Đánh giá là quá trình tiến hành, có hệ thống để xác định phạm vi đạt được của các
mục tiêu đề ra. Vậy, phải xác định rõ mục tiêu đánh giá là gì.
- Khi đánh giá phải chọn mục tiêu đánh giá rõ ràng, các mục tiêu phải được biểu hiện
dưới dạng những điều có thể quan sát được.
- Giáo viên cần phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử dụng
chúng có hiệu quả.
- Khi đánh giá giáo viên phải biết nó là phương tiện để di đến mục đích, chứ bản thân
không phải là mục đích. Mục đích đánh giá là để có nhưng quyết định đúng đắn, tối
ưu nhất cho quá trình dạy học.
- Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của học sinh, nghĩa là trước tiên phải
chú ý đến việc học tập của học sinh. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập của học

sinh, cuối cùng mới đánh giá bằng điểm số.
- Đánh giá bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai sót của
mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trao đổi thêm kiến
thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát hiện ra
những sai sót trong quá trình dạy và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy sao cho
phù hợp với học sinh.
- Trong đánh giá nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau nhằm tăng
độ tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để kiểm tra đánh giá giúp học sinh
định hướng khi trả lời.


- Phải dựa trên những cơ sở của phương phá dạy học mà xem xét kết quả của một câu
trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết định về mặt
sư phạm.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu hỏi yêu
cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.
- Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra đánh giá phải diễn ra trong hoàn cảnh
thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một cách chắc
chắn được.
- Nên luôn nghi ngờ về tính khách quan và mức độ chính xác của bộ câu hỏi để từ đó
chúng ta có thêr đưa ra kết quả tối ưu nhất.
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh cần dựa vào mục tiêu môn học, mục đích
học tập và mối quan hệ giữa mục tiêu của môn học, mục đích học tập và đánh giá kết
quả học tập.
Mục tiêu của môn học là những gì học sinh cần phải đạt được sau khi học xong môn
học, nó bao gồm các thành tố:

- Hệ thống các kiến thức khoa học gồm cả các phương pháp nhận thức;
- Hệ thông kỹ năng kỹ xảo;
- Khả năng vận dụng kiên thức vào thực tế;
- Thái độ, tình cảm đối với nghề nghiệp, đối với xã hội.
Mục đích học tập là những gì học sinh cần có được sau khi đã học xong một đơn vị
kiến thức, một quy tắc nào đó. Mục đích học tập có thể bao gồm các phần sau đây:
- Lĩnh hội tri thức của nhân loại nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về tự nhiên và xã
hội;
- Trang bị kiến thức để đáp ứng nhu cầu về thi tuyển, nghề nghiệp và nhu cầu cuộc
sống;
- Thu thập những kinh nghiệm sáng tạo để có thể độc lập nghiên cứu và hoạt động
sau này.
Giữa mục tiêu của môn học, mục đích học tập và đánh giá kết quả học tập có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mục tiêu của môn học và mục đích học tập được xác
định đúng đắn thì chúng hỗ trợ cho nhau trong việc đánh giá, đạt được yêu cầu đề ra
của công việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Mục tiêu của môn học và mục
đích học tập là cơ sở cho việc xác định nội dung chương trình, phương pháp và quy
trình dạy học và học tập. Đồng thời nó cung là cơ sở để chọn phương pháp và quy


trình đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đánh giá kết quả học tập dựa trên tiêu chí
của mục tiêu dạy học sẽ nhận được thông tin phản hồi chính xác nhằm bổ sung, hoàn
thiện quá trình giáo dục.
Quy trình đánh giá kết quả học tập gồm các bước:
- Căn cứ vào mục tiêu dạy học và mục đích học tập để xác định mục tiêu đánh giá;
- Lượng hóa các mục tiêu dạy học để đặt ra các mức độ cần đạt về kiến thức, kỹ năng,
thái độ... nhằm xác định nội dung và các tiêu chí đánh giá;
- Lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu, nội dung đã đề ra trên cơ sở
các đặc điểm của đối tượng được đo lượng, thẩm định và trên cơ sở hoàn cảnh xã hội;
- Soạn thảo công cụ: Viết câu hỏi, đặt bài toán dựa trên mục tiêu đề ra và nội dung

cần đánh giá;
- Sắp xếp câu hỏi, bài toán tù dễ đến khó, chú ý đến tính tương đương của các đề (nếu
có nhiều đề) và duyệt lại đáp án;
- Tiến hành đo lường;
- Phân tích kết quả, đánh giá độ tin cậy và độ giá trị của bài thi;
- Điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện công cụ đánh giá bài thi.
Theo Guber và Stuffebeam, quy trình đánh giá kết quả học tập gồm các bước sau đây:
- Xác định mục tiêu đánh giá để xây dựng bộ câu hỏi;
- Thu thập số liệu;
- Tổ chức, sắp xếp và phân loại số liệu;
- Phân tích số liệu;
- Báo cáo kết quả để rút ra các kết luận cần thiết.
Đánh giá trong giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó mang tính
tổng hợp nhiều yếu tố. Vì vậy để đánh giá chính xác một học sinh, một lớp, hay một
khóa học, điều đàu tiện người giáo viên phải làm là xây dựng quy trình, lựa chọn một
phương pháp cũng như thu thập các thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Như vậy,
quy trình đánh giá có thể bao gồm bốn bước: đo, lượng giá, đánh giá vầ ra quyết định.
Đo: Kết quả bài kiểm tra của mỗi học sinh được ghi nhận bằng điểm số. Điểm số là
những kí hiệu gián tiếp phản ánh trình độ của mỗi học sinh về mặt định tính, nhưng
nó không có ý nghĩa về mặt định lượng.
Lượng giá: Dựa vào các số đo để đưa ra những tính toán về ước lượng, về trình độ
kiến thức, kĩ năng kĩ xảo của một học sinh. Lượng giá là một bước trung gian giữa đo
và đánh giá, có thể lượng giá theo chuẩn lượng giá theo tiêu chí.


Đánh giá: Bước này đòi hỏi giáo viên phải đưa ra những nhận định phán đoán về thực
chất trình độ của một học sinh trước vấn đề được kiểm tra, đồng thời đề xuất những
định hướng bổ khuyết, sai sót hoặc phát huy hiệu quả.
Quyết định: Đây là bước cuối cùng của quá trình đánh giá, giáo viên sẽ đưa ra những
biện pháp cụ thể để giúp học sinh tiến bộ

- Công khai hóa nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh và tập thể
lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra sự
tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập.
- Giúp chho giáo viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của
mình, tự hoàn thiện hoạt động dạy, phân đấu không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy học.
Như vậy, đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng,
điều chỉnh hoạt động của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định ra thực trạng
và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
2.3.Đề xuất một số định hướng cải tiến
Đánh giá vì sự phát triển của người học . Hiện nay mục tiêu giáo dục là phát triển
phẩm chất , năng lực của người học. Nhưng kiểm tra đánh giá thì thiên về kiến thức
của người học, người học sau khi học xong thì không có những phẩm chất năng lực
cần thiết, mà mục đích chỉ là để có tấm bằng tốt nghiệp. Theo nghị quyết 29 thì đối
với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập
suốt đời. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ
thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ
thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất
lượng.Nhưng vì tập trung vào kì thi tuyển sinh vào cấp học cao hơn mà nhiều nhà
trường chỉ chú trọng một số môn học mà sao nhãng những môn còn lại.Nên mới sinh
ra khái niệm không chính thức là “môn chính” , “môn phụ”.Những môn học thiên về
kĩ năng sống .hoặc các môn năng khiếu bị cắt xén hoặc xem nhẹ.
Đánh giá thực là một hình thức đánh giá trong đó người học được yêu cầu thực hiện
những nhiệm vụ thực sự diễn ra trong cuộc sống, đòi hỏi phải vận dụng một cách có ý
nghĩa những kiến thức, kĩ năng thiết yếu. Thực tế ngày nay học sinh rất yếu ở khả
năng thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn mà chỉ giỏi làm các bài tập ở trên giấy mà

thôi.Ví dụ học sinh có học động cơ điện nhưng lại không biết sửa quạt điện bị hỏng.


Học sinh học về sét là dòng điện trong chất khí nhưng lại không biết cách phòng
chống sét.Học sinh học môn Văn mà không biết viết lá đơn,không biết trình bày một
vấn đề khi cần thiết.
Đánh giá tính sáng tạo của người học. Học sinh ngày nay chỉ học như vẹt là chính,
chủ yếu học thuộc hoặc làm nhiều mà quen chứ không sáng tạo không có tính mới mẻ
, đa dạng và có tính đột phá về mặt ý tưởng cũng như hành động.Học sinh hầu như
không sáng tạo ra các máy móc thiết bị cho các tình huống trong cuộc sống mà chỉ
chờ người khác làm thay.
Đánh giá cả quá trình của người học chứ không chỉ chú trọng vào vài kì thi. Giáo
dục hiện nay quá chú trọng vào các kì thi căng thẳng gây sức ép cho học sinh , phụ
huynh và cả xã hội.
Mục đích của đánh giá ở là để cải thiện việc học, có tính ”khuyến khích và hỗ
trợ.Chứ không chỉ đánh giá để xếp loại và dựa vào đó thưởng , phạt. Quá trình tìm
kiếm và lý giải các thông tin để người học và người dạy sử dụng nhằm xác định
người học đang ở đâu trên con đường học tập của mình và nhờ đó người dạy và người
học cần phải điều chỉnh hoạt động học dạy và hoạt động học như thế nào để người
học đi đến đích một cách tốt nhất. Đánh giá chẩn đoán là hoạt động diễn ra trước
hoạt động giảng dạy, để xác định được mức độ sẵn sàng để học những kiến thức và
kỹ năng mới của người học, cũng như nắm được những thông tin về sự hứng thú,
thiên hướng học tập của người học; Đánh giá quá trình là hoạt động diễn ra thường
xuyên và liên tục ngay trong quá trình dạy và học môn học để đánh giá hoạt động học
tập của người học đang diễn ra như thế nào. Tác dụng của hoạt động KTĐG vì hoạt
động học tập là: người dạy và người học sử dụng để xác định người học đã thu được
những kiến thức và kỹ năng gì trong những kiến thức và kỹ năng đã được xác định
trong mục tiêu mong đợi-chuẩn đầu ra của môn học, nhờ đó người dạy có thể lập kế
hoạch cho hoạt động giảng dạy và tư vấn tới từng người học để đề ra hoạt động học
tập phù hợp, hiệu quả, nhanh chóng đạt chuẩn đầu ra; người dạy sử dụng để theo dõi

sự tiến bộ của người học trên lộ trình hướng tới đạt được mục tiêu mong đợi, nhờ đó
người dạy có thể điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình và hoạt động học của
người học sao cho đáp ứng nhu cầu của người học đạt chuẩn đầu ra của môn học.
3.Kết luận sư phạm
3.1.Kiểm tra đánh giá là một hoạt động quan trọng trong giáo dục.
Kiểm tra đánh giá vừa là mục tiêu vừa là động lực trong giáo dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tiến hành đổi mới giáo dục qua công tác kiểm tra đánh
giá.Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì mà còn
dạy học như thế nào. Đổi mới phương phá dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính
chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi


phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương pháp dạy học cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học. Kiểm tra đánh giá có
vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của kiểm tra đánh giá
là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo duc. Nếu kiểm
tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to lơn trong
việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu bức
thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế,
chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng
tạo trong học tập.
3.2. Một số quan điểm về vấn đề kiểm tra đánh giá.
Đổi mới căn bản tòa diện giáo dục và đào tạo là nhu cầu bức thiết của cuộc sống.
Trong đó có việc đổi mới kiểm tra đánh giá là một trong các khâu quan trọng vì
người Việt Nam có tâm lí thi gì thì học đấy. Hiện nay các đề thi quá coi trọng kiến
thức hàn lâm mà chưa đánh giá được năng lực phẩm chất người học. Người học hiện
nay chủ yếu là học thuộc và luyện các dạng bài có sẵn cho thành thạo để có kết quả
cao trong các kì thi. Người học hiện nay cũng chỉ quan tâm đến các kì thi ở một số
thời điểm nhất định. Vậy ngành giáo dục trước tiên phải đổi mới đề thi sao cho đánh
giá được năng lực của người học mà không phải học vẹt.

Cần đánh giá quá trình học của người học để giúp cho người học tiến bộ.Học sinh
có kết quả thấp cần được gia đình và nhà trường động viên chứ không trách phạt hay
phê bình. Sao cho người học phải tiến bộ sau một quá trình dạy học trong đó có vai
trò của kiểm tra đánh giá.
Cần đào tạo đội ngũ chuyên nghiệp về kiểm tra đánh giá, không để kiêm nhiệm và
thiếu chuyên nghiệp như hiện nay.Đội ngũ khảo thí phải có đến cấp trường chứ
không phải chỉ có đén cấp sở như hiện nay.
Cần tuyên truyền sâu rộng về vai trò của kiểm tra đánh giá. Trước tiên là các nhà
quản lí , giáo viên, học sinh , gia đình học sinh và cả xã hội hiểu đúng về vai trò của
kiểm tra đánh giá trong giáo dục.
Cần học tập các nước giáo dục phát triển trong công tác kiểm tra đánh giá
Cần có những nghị quyết ,chính sách riêng cho kiểm tra đánh giá.
Cần tổ chức nghiêm túc, trung thực , khoa học, công bằng hơn các kì thi tuyển sinh
cũng như kì thi THPT quốc gia
Cần đầu tư máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng các yêu cầu đổi mới về kiểm tra đánh
giá
4. Danh mục tài liệu tham khảo.


1. Các kĩ thuật đánh gía trong lớp học ,kinh nghiệm quốc tế và đề xuất áp dụng cho
bậc phổ thông ở Việt Nam hiện nay.Nhóm tác giả thực hiện PGS.TS. Lê Kim
Long .,PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa, TS. Nguyễn Thị Ngọc Bích, ThS. Sái Công
Hồng, ThS. Đào Thị Hoa Mai,TS. Lê Thái Hưng.
2.Tập bài giảng Đo lường và Đánh giá trong Giáo dục, Trường Đại học Giáo dục.
3.Mai Văn Hưng, Lê Thái Hưng, Đỗ Hoàng Mai (2015), Đánh giá năng lực giải quyết
vấn đề của học sinh qua môn Sinh học 10, Tạp chí Giáo dục, Số 365, Kì 1 tháng 9 –
2015.
4.Lê Thái Hưng, Trần Quốc Khánh (2016), Xây dựng và chia sẻ tiêu chí đánh giá kết
quả học tập nhằm nâng cao hiệu quả dạy học và kiểm tra, đánh giá ở trung học phổ
thông, Tạp chí Giáo dục & Xã hội, số 60 (121) tháng 3 năm 2016.

5.Lê Thái Hưng, Lê Thị Hoàng Hà, Dương Thị Anh (2016), Năng lực hợp tác giải
quyết vấn đề trong dạy học và đánh giá bậc trung học ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý
Giáo dục, Số 80 tháng 1 – 2016.
6.Lê Thái Hưng, Nguyễn Văn Tuân, Dương Thị Anh (2015), Xây dựng ngân hàng
câu hỏi đánh giá kết quả học tập môn Vật lý học kỳ 1 Lớp 12: Vận dụng IRT và phần
mềm CONQUEST, Tạp chí Quản lý Giáo dục, số 79, tháng 12 – 2015.

.




×