Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đề cương môn Nhà nước và Pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.43 KB, 29 trang )

VẤN ĐỀ 1: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Mở bài:
Hệ thống CT là một phạm trù cơ bản của khoa học chính trị. Bởi vì nó là tổng
hợp các vấn đề của thực tiễn CT, của đời sống chính trị. Hơn nữa những vấn đề đó
không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh
thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với
các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí, vai trò nhất định; có “đầu ra” và
“đầu vào”; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất, … Trong mọi XH
có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống
thiết chế và tổ chức chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính tri. HTCT xuất
hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường lối chính trị
của giai cấp cầm quyền, do đó HTCT mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm
quyền. Trong CNXH, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự
của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý XH, quyết định nội dung hoạt động của
hệ thống CTXHCN.
2. Khái niện HTCT: Hệ thống CT là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế
chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng CT, các phong trào XH, các tổ
chức CT- XH,…) được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành
trên các nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
3. Thực trạng hoạt động của HTCTVN:
- Tính ưu việt: (SGT - T20)
Tập trung nguồn cao độ của đất nước phục vụ cho nhiệm vụ của mỗi giai
đọan cách mạng:
+ Trong đấu tranh giải phóng dân tộc đã tập trung nguồn lực cao độ của đất
nước phục vụ cho tiền tuyến với tinh thần tất cả để chiến thắng. HTCTVN đã động
viên sự hi sinh vô bờ bến của nhân dân cho thắng lợi của cách mạng, tạo được
những điều kiện cần thiết để kết hợp được sức mạnh của dân tộc và thời đại, đánh
thắng được hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, hoàn thành cách mạng giải phóng dân
tộc trên cả nước cùng đi lên CNXH.
+ Trong tập trung nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ XD đất nước
+ Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân


7% năm từ năm1996; nông nghiệp phát triển liên tục; công nghiệp tang bình
quaan13,5% hàng năm , hệ thống kết cấu hạ tầng của kinh tế phát triển, các chỉ tiêu
chủ yếu của phát triển kinh tế đều đạt hoặc vượt kế hoạch đã đề ra.
+ Văn hoá Xh có nhiều tiến bộ; đời sống ND tiếp tục được cải thiện; tình hình
CT - XH cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ


-

đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành chủ động,
tích cực và đạt kết quả tốt.
- Hạn chế, yếu kém: (SGT - T21)
Bên cạnh những thành tựu mà nguyên nhân gắn liền với hoạt động của hệ
thống chính trị, thì hệ thống chính trị Việt Nam cũng bộc lộ một số yếu kém.
Những yếu kém có thể nhìn thấy trong cả các vấn đề của hệ thống chính trị, từ tổ
chức bộ máy, chức năng đến quan hệ , cơ chế, nguyên tắc vận hành…
+ Trước hết nói về Cơ chế, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Cơ chế này bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và XH .vấn đề là
làm sao để cụ thể hoá nó và phân định chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt
động của các chủ thể, trong hệ thống chính trị. Đây vấn là một bài toán chưa có
đáp số cuối cùng. Vẫn còn tình trạng, Đảng bao biện làm thay, cơ quan Nhà nước
thụ động, chờ chủ trương, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng; công tác của Đảng lẫn lộn
với công tác nhà nước,
+ Chúng ta còn vận dụng chưa tốt Các phương thức (hay còn gọi là cơ chế)
thực thi quyền lực , chính trị( hành chính mệnh lệnh, thể chế, tư vấn và kiểm soát
quyền lực). Thông thường nhiều nơi thường chú ý vận dụng một loại cơ chế mà ít
phối hợp các cơ chế. Vì thế mà nhiều nơi bắt người xét xử trái pháp luật, để xảy ra
oan sai. Nhưng nhiều nơi thì thiếu kiên quyết, chỉ sử dụng vận động tuyên truyền
làm cho các vụ thi hành án dây dưa không hiệu quả. Nhiều nơi đã có quyết định

của Nhà nước quy hoạch, đền bù giải phong mặt bằng nhưng nhân dân không
chấp hành, xung đột kéo dài qua năm nay qua năm khác mà vẫn không xử lý dứt
điểm.
+ Còn chưa thực hiện đúng các nguyên tắc của hoạt động của hệ thống chính
trị…..
+ Chưa vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ……
+ Còn quan niệm giản đơn về quyền lực thống nhất có phân công, kiểm soát
giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp tư pháp.
- Những yếu kém nêu trên do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chính:
1. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa
tốt, ký luật kỷ cương chưa nghiêm.
2. Một số quản điểm chủ trương chưa rõ; chưa có sự nhận thức thống nhất và
chưa được thông suốt ở các cấp các ngành.
3. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
4. Công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập
Các cơ quan Nhà nước có nhiều yếu kém bất cập.


-

-

+ Cho đến nay, QH nước ta đã thông qua được năm bản Hiến pháp, khoảng
300 đạo luật (kể cả pháp lệnh) tốc độ làm luật ngày các cao, nhưng nhìn chung vẫn
chưa đáp ưng nhu cầu phát triển đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN. Trách nhiệm trình các dự án luật vẫn chủ yếu thuộc về Chính phủ,
hệ thống luật còn chưa hoàn chỉnh chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, chất
lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh nhiều
lần và phải có hướng dẫn của chính phủ mới thực thi được, mặt khác các VB

hướng dẫn lại rất chậm.
+ Do QH không chuyên trách nên đại biểu kiêm nhiệm nhiều, tiêu chuẩn đại
biểu chưa thật rõ, chưa đạt đến chuẩn mực nghị viên (nghị sỹ) còn gặp nhiều khó
khăn giữa tiêu chuẩn và cơ cấu. Do kiêm nhiệm, các đại biểu không có nhiều thời
gian tiếp xúc với cử tri và thực hiện chức năng giám sát, điều kiện cho hoạt động
của đại biểu còn khó khăn.
+ Hoạt động của QH có thời ký còn hình thức, hiện nay đã đi vào thực chất
hơn, các hoạt động chất vấn, tranh luật dân chủ hơn, ND có thể theo dõi các phiên
họp qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Chính phủ nước ta là một chính phủ thực hiên sự quản lý Nhà nước trong
một điều kiện hầu như không kế thừa được gì từ bộ máy hành chính cũ (thực dân phong kiến) . Hơn nữa lại trải qua 30 năm điều hành chiến tranh, một thời gian dài
theo cơ chế quan lieu, bao cấp, động viên tinh thần…. Mặc dù những phương pháp
đó trong thời chiến đã tỏ ra hiệu quả, nhưng trong thời bình, xây dựng và phát triển
kinh tế các biện pháp đó đã gây khó khăn cản trởcho việc thực thi pháp luật và
quản lý hành chính nhà nước , cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền
+ Mặt yếu kém của cơ quan hành pháp nước ta là bộ máy công chức…..
Hệ thống tư pháp còn yếu kém
+ Hiện nay các toà án nước ta còn được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp giữa
thẩm quyền xét xử và tổ chức hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên….
+ Năng lực xét xử còn yếu, xét xử sai luật, bắt sai, xử sai còn khá nhiều….
+Thẩm quyền xét xử còn trùng lặp giữa toà án cấp tỉnh và cấp trung ương…
+ Sự yếu kém của ngành tư pháp là một cản trở lớn trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân của nước ta…
Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ND cũng chưa ngang tầm với
chức năng, vai trò và tiềm năng của nó.
4. Liên hệ:
* Giới thiệu khái quát về hệ thống chính trị ở cơ sở
Xã tôi công tác là xã nằm tiếp giáp với thị trấn Chờ, cách trung tâm huyện lỵ
Yên Phong 3 km. Phía Bắc và Tây Bắc giáp các xã Tam Giang, Hòa Tiến; phía
Đông giáp Thị trấn Chờ; phía Nam giáp xã Văn Môn; phía Nam và Tây Nam



giáp huyện Đông Anh - Hà Nội. Yên Phụ có hệ thống giao thông đường bộ rất
thuận tiện. Con đường tỉnh lộ 286 (trước đây gọi là đường 16) đi từ Bắc Ninh tới
Phù Lỗ (Hà Nội) chạy qua trung tâm xã. Phía Bắc của xã có đường cao tốc 18 chạy
qua nối liền Yên Phụ với khu chế xuất Sóc Sơn và Sân bay Quốc tế Nội Bài (Hà
Nội). Phía Đông có con đường liên xã ĐX1 nối liền Yên Phụ với Văn Môn và các
xã khác trong huyện. Hiện nay còn có đường cao tốc 3B chạy qua.
Phía Tây của xã có đường liên huyện ĐH6 thông sang Đông Anh và vùng
ngoại ô Hà Nội. Yên Phụ có hệ thống giao thông đường bộ rất thuận tiện. Con
đường tỉnh lộ 286 (trước đây gọi là đường 16) đi từ Bắc Ninh tới Phù Lỗ (Hà Nội)
chạy qua trung tâm xã. Phía Bắc của xã có đường cao tốc 18 chạy qua nối liền Yên
Phụ với khu chế xuất Sóc Sơn và Sân bay Quốc tế Nội Bài (Hà Nội). Phía Đông có
con đường liên xã ĐX1 nối liền Yên Phụ với Văn Môn và các xã khác trong
huyện. Hiện nay còn có đường cao tốc 3B chạy qua.
Phía Tây của xã có đường liên huyện ĐH6 thông sang Đông Anh và vùng
ngoại ô Hà Nội.
Dân số toàn xã có 10.707 người với 2.285 hộ. Xã có diện tích 5,63 km², trong
đó đất canh tác nông nghiệp là 362,36 ha. Bình quân diện tích theo đầu người là
390 m2.

-

* Những kết quả đạt được trong hoạt động của hệ thống chính trị ở địa
phương
+ Hệ thống chính trị cấp xã là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống cả
nước, góp phần to lớn trong sự nghiệpđấu tranh, giải phóng dân tộc, XD và đổi
mới đất nước. Nhờ có sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của tổ chức bộ máy ở các
cấp xã mà hoạt động dân cư và các tổ chức trên địa bàn đi vào nề nếp, kỷ cương,
giảm nhẹ nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, giám sát của cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên

nghiệp linh hoạt và tậm tâm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở làm tăng thêm
uy tín của hệ thống chính trị. Kinh tế-XH từng bước phát triển và ổn định, đời sống
của nhân dân trên địa bàn xã được cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu
người đạt sấp sỉ 35 triệu đồng (giá hiện hành)/người/ năm.
Có thể nói hệ thống chính trị ở cơ sở đã từng bước được định hình và không
ngừng đổi mới theo hướng ngày càng phù hợp hơn đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
ngày càng nhiều, càng khó khăn, phức tạp hơn. Cụ thể:
Hệ thống chính quyền, MTTQ và các đoàn thể ND cấp xã được củng cố kiện toàn,
chất lượng hoạt động được nâng lên.


-

-

-

-

-

Hoạt động của chính quyền có nhiều đổi mới, tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được tăng
cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT - XH trên địa bàn xã.
Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể ND cấp xã đã có nhiều đổi mới theo hướng
“đa dạng, thiết thực, gần dân”.
Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
được tập trung chỉ đạo đạt kết quả bước đầu.
Công tác XD, chỉnh đốn Đảng, gắn với triển khai cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức HCM” được tổ chức thực hiện đồng bộ và đạt được kết
quả quan trọng.

Công tác XD Đảng và tình hình Đảng bộ đã có chuyển biến tích cực.
Công tác chính trị, tư tưởng được chú trọng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ ở địa
phương.
Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục đổi mới và được chọn làm khâu đột phá chuyển
biến tích cực trên các lĩnh vực: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực
hiện chính sách cán bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát được triển khai có hiệu quả.
Công tác dân vận có sự chuyển biến tiến bộ đặc biệt là công tác bình đẳng giới, tôn
giáo được quan tâm, chỉ đạo.
Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng mở
rộng theo hướng dân chủ, sát cơ sở.
Việc thực hiện dân chủ trong Đảng bộ và đời sống XH có nhiều tiến bộ.
* Hạn chế:
Tuy có sự phân định chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức
nhưng thực tế hoạt động vẫn chứng tỏ đang có nhiều sự trùng lặp, hoặc thiếu rõ
ràng, nhất là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền, giữa công tác dân
vận của chính quyền với hoạt động của các đoàn thể.
Bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, có xu hướng quan liêu, xa dân.
Trách nhiệm quyền năng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị chưa được
xác định, quy định một cách rõ ràng, cụ thể làm triệt tiêu, hoặc giảm vai trò sự
sáng tạo và suy nghĩ giám làm, giám chịu của cá nhân người lãnh đạo.
Đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, trình độ, học vấn, không ít cán bộ cơ sở suy
thoái đạo đức, phẩm chất và lối sống.
Chế độ đãi ngộ cho cấn bộ cấp xã chưa hợp lý, còn nhiều bất cập.
* Nguyên nhân hạn chế:
- Nguyên nhân khách quan: khối lượng công việc ở cơ sở là khá lớn, một số
văn bản pháp luật ban hành chậm, thiếu đồng bộ, không ít nội dung còn chồng chéo.
- Nguyên nhân chủ quan: công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện của cơ
sở còn hạn chế, thiếu năng động, quyết liệt.
* Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị

cấp cơ sở:


Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an
ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, xin đề xuất một số giải pháp
nhằm đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ
sở. Cụ thể:
Một là, các đảng bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn cầnnâng cao nhận thức và
thực hiện đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đảng lãnh
đạo phải bằng chủ trương, định hướng, không bao biện làm thay công việc của
chính quyền; phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm trong việc
thực hiện đường lối của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ,
trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của
Đảng; đa dạng hóa các nội dung sinh hoạt của các tổ chức cơ sở đảng. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và
quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Hai là, đối với chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn, cần có mô hình tổ
chức hợp lý, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Không tổ chức HĐND ở
phường theo kết quả thực hiện thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước; đồng
thời, xác định rõ mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn đối với xã,
phường, thị trấn để có cơ chế quản lý phù hợp với đối tượng quản lý. Phát huy
mạnh mẽ vai trò của cơ quan hành chính trong việc mở rộng và thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra.Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở phải hướng vào mục tiêu phục
vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp
đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức cơ sở có phong cách
"trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói,

nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy vai trò tự quản trong cộng đồng dân cư của tổ
chức thôn, buôn, khu phố.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hoá các hình
thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Phát huy vai trò tham gia xây dựng chính
quyền, giám sát các hoạt động của chính quyền, nhất là đối với các phường không
tổ chức HĐND; nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức thành viên.Mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ
vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để nhân dân tham gia, giám sát các hoạt động


của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân một cách thiết thực;
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là ở những nơi có đông đồng bào có
đạo, đồng bào dân tộc ít người. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế,
quy định và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong nội bộ
nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày trở thành “điểm nóng”.
Bốn là, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị cấp
cơ sở. Có cơ chế tuyển dụng những trí thức trẻ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính
trị, đạo đức, năng lực chuyên môn vào các cơ quan của Đảng, chính quyền và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là vùng
biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Thực hiện tốt công tác
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong các tổ chức của hệ
thống chính trị cơ sở; đồng thời đi đôi với việc đổi mới nội dung, chương trình đào
tạo phù hợp với chức danh, công việc của cán bộ, công chức cơ sở.
Năm là, đối với những cơ sở yếu kém, phức tạp, có biểu hiện vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân và có nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo hoặc có diễn biến
phức tạp về chính trị - xã hội, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể cần theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến để đánh giá đúng tình hình; tiến hành
thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên
sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để sửa chữa, khắc phục, tạo sự
thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ chức cơ sở đảng và cộng đồng dân
cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân.
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là đảm bảo các điều kiện làm việc cho bộ phận
“một cửa” theo chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2011-2020,
nhằm đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế
5. Kết bài:
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân. Đổi mới HTCT đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, từ đổi mới
Đảng lãnh đạo, Chính phủ, hệ thống tư pháp, Mặt trận Tổ quốc, hệ thống bầu cử;
đổi mới cơ chế, nguyên tắc hoạt động và quan hệ giữa các bộ phận cấu thành
HTCT. Mặc dù vậy, trọng tâm của đổi mới HTCT nước ta như Đảng ta xác định là:


“cải cách hành chính, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh”. Khâu có ý nghĩa
sống còn là đổi mới HTCT ở cơ sở. Đổi mới HTCT đồng thời phải thực hiện tốt
Quy chế dân chủ ở cơ sở, dân chủ hóa đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp,
thực hiện tốt hơn dân chủ đại diện, tạo điều kiện cho nhân dân thực sự tham gia
ngày càng đông đảo và hiệu quả vào công việc của Nhà nước và xã hội.
VẤN ĐỀ 2: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Mở bài: Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo
chiều dại lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của
pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiên theo từng giai

đoạn và từng thời kỳ kịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền xuất
hiện nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành.
Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương tây được truyền bá
vào Việt nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần và lên án chế độ cai trị hà
khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của chính phủ pháp tại thuộc địa VN.
Cách mạng tháng tám thành công và bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
VNDCCH đã khẳng định quyết tâm của toàn thể dân tộc VN không chỉ trong mục
tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu độc lập dân tộc mà còn trong mục tiêu
phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực trong điều
kiện lịch sử cụ thể của VN, đây được coi là chuẩn mực hiến định đầu tiên cho xây
dựng nhà nước pháp quyền ở VN.
ĐHĐB toàn quốc làn thứ X đã xác định đặc trưng cchur yếu của XH XHCN
mà chúng ta xây dựng là: : “Có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS”. Vì vậy, để đi lên CNXH cùng
với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
ĐH đã chỉ rõ yêu cầu tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là nhà nước XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lợi Nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản
lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng
tiên phong của GCCN lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân.
2. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCNVN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân:


- Đó là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm

tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Đó là Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Đó là Nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiếp pháp và pháp luật,
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.
- Đó là Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì
hạnh phúc của con người; bỏa đảm trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực
hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Đó là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đồng thời bảo đảm
sự giám sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
- Đó là Nhà nước thực hiện đường lối hòa bình, hữu nghị với nhân dân các
dân tộc và nhà nươc trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không cân thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có
lợi, đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
3. Các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay phải đáp ứng các
yêu cầu dưới đây:
- Xây dựng được một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân bảo đảm thực hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ XHCN. Cơ cấu tổ chức và
cơ chế hoạt động của Nhà nước phái đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân đân, bảo đảm quyền làm chủ, quyền con người của nhân dân, tất cả vì hạnh
phúc của nhân dân.
- Xây dựng một Nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội có
hiệu quả, phát huy được mọi tiềm năng của dân tộc; đồng thời, tiếp thu hợp lý
những thành tựu khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và những tinh
hoa văn hóa của nhân loại.
- Xây dựng Nhà nước có bộ máy gọn nhẹ, được tổ chức chính quy, có quy chế

làm việc khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành được hoạt động của xã
hội, cũng như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước.
- Xây dựng nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lí xã hội
theo pháp luật, giữ vững kỉ cương nhà nước và trật tự xã hội,bảo đảm an ninh,
quốc phòng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.


- Xây dựng một nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, toàn tâm,
toàn ý,phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với dân, đồng thời có bản lĩnh chính trị,
năng lực quản lí, loại trừ được bệnh quan liêu , tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân
- Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vìa nhân
dân phải trở thành định hướng, yêu cầu bao trùm toàn bộ tổ chức hoạt dộng của
nhà nước, đồng thời là trách nhiệm, của Đảng, Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức
thành viên của Mặt trận và mọi công dân.
Quan điểm nêu trên đòi hỏi các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN phỉa được quán triết trong quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong cái cách nền hành chính nhà nước, cải
cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cũng như trong đổi mới cơ chế
vận hành của nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyên
đòi hỏi Đảng phỉa đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, quan tâm thích
đáng cho việc lãnh đạo xây dưng nhà nước, xây dựng và thực hiện pháp luật, đồng
thời bảo đảm cho các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khôn khổ Hiến
pháp và pháp luật, tôn trọng các thể chế của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các thành viên của Mặt trận cũng tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
trước Nhà nước và xã hội, đồng thời có những hình thức thích hợp thực hiện tốt vai
trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng nhà nước, tham gia quản lý
nhà nước.

4. Liên hệ:
Địa phương nơi tôi công tác là một xã nằm ở phía tây nam của huyện, có
đường QL18 và tỉnh lộ 279 chạy qua. Thuận lợi cho việc tiếp thu văn hóa văn
minh của đát nước, các vùng, cũng như việc buôn bán trao đổi hàng hóa.
Diện tích tự nhiên 553,96 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa là 339,8 ha
chiếm 61,35% tổng diện tích, dân số 11.972 khẩu phân bố đều ở 5 thôn, với diên
tích hơn 1,5km2 ….có 5 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp với 2.759 hộ.
- Các tổ chức trong hệ thống chính trị ổn định, địa bàn xã tập trung. Số lượng
đảng viên 203 đ/c chiếm khoảng 3,0% dân số.
* Ưu điểm:
Nắm bắt chủ trương, đường lối của ĐHĐ các cấp, cùng với nhân dân trong xã
đã đồng lòng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và đạt được những thành tựu
nhất định .


Tình hình chính trị trên địa bàn khá ổn định, nhân dân lao động thực hiện
ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước,
kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước.
Kinh tế có bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế ước đạt 18% so với cùng kỳ; Tổng giá trị sản xuất: 198,6 tỷ đồng. Thu
nhập bình quân đầu người đạt sấp xỉ 35 triệu đồng; Lương thực bình quân đầu người
380,6 kg/người/năm. Giá trị một canh ha canh tác đạt sấp xỉ 90 triệu đồng/ năm.
- Có đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ năng lực, nhiệt tình năng động trong công
tác.
* Khuyết điểm, yếu kém:
- Bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, còn chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; Hiệu lực và hiệu quả của bôn máy nhà nước
chưa cao.
- Trách nhiệm, quyền năng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị chưa

được xác định, quy định một cách chưa rõ rang, cụ thể làm triệt tiêu, hoặc giảm vai
trò sự sáng tạo và suy nghĩ dám làm, dám chịu của cá nhân người lãnh đạo.
- Đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, trình độ, học vấn; không ít cán bộ cơ
sở suy thoái đạo đức, phẩm chất và lối sống……
- Trong một số lĩnh vực chưa phát huy tốt vai trò chủ động tích cực của nhân dân.
- Là một xã sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu, ngành nghề dịch vụ phát
triển nhỏ lẻ và phân tán chưa bền vững.
* Một số giải pháp trong thời gian tới:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- tiếp tục trưng cầu ý kiến của nhân dân, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng,hoàn
thiện hệ thống pháp luật và thực hiện nghiêm minh pháp luật của nhà nước.
- Tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của cơ sở để nâng sao
hiệu quả hoạt động của cơ sở.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính để thuân tiên cho nhân dân. Đĩnh rõ chức
năng, nhiêm vụ của cán bộ để nâng cao ý thức trách nhiệm và tính sáng tạo của cá
nhân trong công việc chung.
- phát huy tối đa tính dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế tại cơ sở.
- Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
- Quan tâm giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hôi bằng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.


- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
- có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán
bộ công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất
lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hóa, yếu kém.
- Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ với cán bộ xã, thôn…
- Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức Đảng, Mặt trân Tổ quốc, các đoàn

thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chóng
tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đới với người có thành tích, xử lý nghiêm
những cán bộ, đảng viên vi phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào.
VẤN ĐỀ 3: HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1. Khái niệm kỳ họp HĐND: Kỳ họp là phương thức hoạt động quan trọng
của HĐND và đại biểu HĐND. Tại kỳ họp, HĐND thực hiện những nhiệm vụ,
quyền hạn của mình bằng việc ra Nghị quyết quyết định những vấn đề quan trọng
của địa phương.
2. Những vấn đề cơ bản về kỳ họp HĐND
- Nghị quyết của HĐND phải được quá nửa đại biểu HĐND biểu quyết tán
thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND phải được ít nhất hai phần ba tổng
số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. HĐND biểu quyết bằng cách giơ tay, bỏ
phiếu kín hoặc bằng cách khác theo đề nghị của Chủ tọa phiên họp.
- Số lượng thời gian họp: HĐND họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. HĐND tổ
chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
HĐND cùng cấp yêu cầu thì Thường trực HĐND quyết định triệu tập kỳ họp bất
thường.
- Hình thức họp: HĐND họp công khai; khi cần thiết, HĐND quyết định họp
kín theo đề nghị của Chủ tọa kỳ họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp.
- Chuẩn bị kỳ họp: Ngày họp, nơi họp và chương trình kỳ họp HĐND phải
được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ
họp. Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
HĐND tham gia.
- Đại biểu quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được bầu ở địa phương, Chủ
tịch UBMTTQ VN, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương và đại
biểu cử tri được mời tham dự kỳ họp HĐND, được phát biểu ý kiến nhưng không
biểu quyết.
- Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi trước cho đại biểu
HĐND theo quy định của pháp luật.



- Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân chậm nhất là 45 ngày kể
từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; đối với địa phương có bầu cử lại, bầu
cử thêm đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc lùi ngày bầu cử thì thời hạn triệu tập kỳ
họp thứ nhất được tính từ ngày bầu cử lại, bầu cử thêm.
- Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng
nhân dân khóa trước triệu tập và chủ tọa cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch
HĐND khóa mới. Trường hợp khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì một Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa trước triệu tập kỳ họp. Nếu khuyết cả Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên và chủ tọa kỳ họp cho đến khi
HĐND bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới, đối với cấp tỉnh thì Ủy ban thường vụ
Quốc hội chỉ định triệu tập viên, để triệu tập kỳ họp Hội đồng nhân dân.
- Nghị quyết và biên bản các phiên họp của Hội đồng nhân dân do Chủ tịch
Hội đồng nhân dân hoặc chủ tọa kỳ họp ký chứng thực. Chậm nhất là 10 ngày kể
từ ngày bế mạc kỳ họp, nghị quyết, biên bản của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải
được Thường trực Hội đồng nhân dân gửi lên Thường trực Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; đối với cấp tỉnh thì phải được gửi lên Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được
gửi đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để thực hiện. Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân được đăng công báo địa phương, đưa tin trên các phương tiện thông tin
đại chúng ở địa phương, niêm yết và lưu trữ theo quy định của pháp luật.
- Tại phiên họp đầu tiên của mỗi khóa, HĐND bầu ban thẩm tra tư cách đại
biểu HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ họp. Căn cứ báo cáo của Ban thẩm
tra tư cách đại biểu, HĐND ra nghị quyết xác nhận tư cách đại biểu HĐND hoặc
tuyên bố việc bầu đại biểu nào đó là không có giá trị. Trong nhiệm kỳ, nếu có bầu
cử bổ sung đại biểu thì HĐND thành lập Ban thẩm tra tư cách đại biểu được bầu
bổ sung, Ban thẩm tra tư cách đại biểu hết nhiệm vụ khi việc thẩm tra tư cách đại
biểu đã hoàn thành.

- Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa, HĐND bầu chủ tịch HĐND trong số các
đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ họp; Phó chủ tịch HĐND,
Trưởng ban và các thành viên khác của Ban HĐND trong số các đại biểu HĐND
theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND; Chủ tịch UBND trong số các đại biểu
HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND; Phó chủ tịch UBND và các thành
viên khác của UBND theo sự giới thiệu của Chủ tịch UBND; Văn phòng HĐND
cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND


cấp tỉnh; Văn phòng HĐND-UBND cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND cấp huyện; UBND cấp xã chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện công tác thư ký phục vụ kỳ họp HĐND cấp xã.
3. Liên hệ: HĐND huyện
3.1. Giới thiệu về huyện Yên Phong
Yên Phong là một huyện đồng bằng, nằm ở phía tây tỉnh Bắc Ninh, thuộc
vùng Châu thổ Sông Hồng. Yên Phong có 14 đơn vị hành chính bao gồm 01 thị
trấn và 13 xã. Vị trí địa lý và các điều kiện thuận lợi về giao thông của huyện tạo
nên tiềm lực phát triển mạnh về kinh tế, thương mại, dịch vụ.
Năm 2016, kinh tế huyện Yên Phong tiếp tục ổn định và tăng trưởng khá.
Tổng sản phẩm GRDP ước đạt 3.537 tỷ đồng, tăng 8,1 % so với 2015; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với nền kinh tế thị trường: Nông
nghiệp 25,1 % tăng 2%, bước đầu đã thực hiện một số mô hình sản xuất lúa hàng
hóa, lúa chất lượng cao và rau màu; công nghiệp - xây dựng cơ bản 42,2 % tăng
9,9 %; dịch vụ 32,7% tăng 10,9 % so với 2015, nhất là dịch vụ phát triển mạnh liền
kề Khu công nghiệp.
3.2. Giới thiệu về HĐND huyện
Có được kết quả như trên là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sát sao của Huyện
ủy, HĐND, UBND huyện, sự nỗ lực phấn đấu của cấp ủy Đảng, chính quyền các
cấp, các ban, ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở và được sự đồng tình của nhân
dân trong huyện, trong đó phải nhấn mạnh vai trò quyết định chỉ tiêu, giải pháp

phát triển kinh tế - xã hội, vai trò giám sát của HĐND huyện.
HĐND huyện Yên Phong khóa XIX, nhiệm kỳ 2016-2021 gồm có 39 đại
biểu. Tại kỳ họp thứ nhất, ông Đặng Trần Trung - Bí thư Huyện ủy Yên Phong
được bầu giữ chức danh Chủ tịch HĐND huyện, ông Lưu Văn Mùi và ông Kiều
Văn Hoàn được bầu làm Phó Chủ tịch HĐND huyện. HĐND huyện Yên Phong có
hai ban: Ban Kinh tế - Xã hội và Ban Pháp chế. Mỗi ban có 1 trưởng ban, 1 phó
trưởng ban và 5 ủy viên. Với kinh nghiệm hoạt động hội đồng nhân dân và sự bám
sát các văn bản chỉ đạo của cấp trên, Thường trực HĐND huyện Yên Phong đã
điều hành tốt, linh hoạt, sáng tạo các nội dung hoạt động, đặc biệt là hoạt động kỳ
họp HĐND, kết quả cụ thể là:
- Năm 2016 là năm đầu của nhiệm kỳ HĐND huyện khóa XIX, tại kỳ họp thứ
nhất Thường trực HĐND huyện Yên Phong đã tiến hành chuẩn bị chu đáo và tổ
chức kỳ họp đúng theo quy định:


+ Công tác triệu tập kỳ họp, thông báo nội dung chương trình kỳ họp được
thực hiện đúng theo quy định. Quyết định triệu tập và dự kiến chương trình kỳ họp
được gửi đến đại biểu HĐND và khách mời trước 10 ngày tổ chức kỳ họp.
+ Tài liệu của kỳ họp được chuẩn bị đầy đủ, chất lượng và được gửi đến đại
biểu trước 5 ngày đúng theo quy định.
+ Công tác điều hành của chủ tọa kỳ họp đúng quy định, ngắn gọn, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả. Chú trọng hoạt động chất vấn, thảo luận tổ tại kỳ họp, đặc
biệt quan tâm nêu các vấn đề bức xúc trong nhân dân, các vấn đề được đông đảo
người dân quan tâm.
+ Tại kỳ họp thứ nhất, HĐND huyện đã tiến hành bầu các chức danh theo quy
định: Chủ tịch HĐND, 02 phó chủ tịch HĐND, 2 trưởng ban, 02 phó ban HĐND
huyện, bầu Chủ tịch UBND huyện theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND huyện. Tiến
hành bầu 2 phó chủ tịch UBND huyện và 12 thành viên ủy ban nhân dân huyện. Kỳ
họp cũng đã bầu 20 hội thẩm nhân dân khóa XIX nhiệm kỳ 2016 - 2021.
+ Các dự thảo Nghị quyết được chuẩn bị chu đáo trước khi HĐND thông qua,

Nghị quyết được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thể thức văn bản
theo quy định và phù hợp với tình hình địa phương.
+ Công tác truyền thanh trực tiếp kỳ họp HĐND được thực hiện tốt, phản ánh
toàn bộ nội dung phiên họp đến nhân dân.
- Hằng năm, Thường trực HĐND huyện xây dựng kế hoạch tổ chức các kỳ
họp thường lệ, dự kiến cụ thể thời gian tổ chức, nội dung chương trình thông qua
tại kỳ họp.
- Trước khi tổ chức kỳ họp Thường trực HĐND tổ chức họp thống nhất với
UBND huyện, UBMTTQ huyện, các Ban HĐND huyện để thống nhất thời gian,
chương trình kỳ họp. Chỉ đạo các ban HĐND thẩm tra chi tiết, cụ thể báo cáo của
UBND huyện, làm căn cứ để đại biểu HĐND huyện thảo luận.
3.3. Hạn chế trong hoạt động kỳ họp
Một số đại biểu hội đồng nhân dân huyện chưa mạnh dạn trong chất vấn và
thảo luận tổ. Một số ngành chuyên môn trả lời chất vấn còn chung chung, chưa đi
thẳng vào vấn đề dẫn đến chất lượng của phần chất vấn và trả lời chất vấn chưa dạt
được kết quả như mong đợi.
3.4. Giải pháp
- Thường trực HĐND tiếp tục thực hiện xây dựng kế hoạch tổ chức các kỳ
họp theo quy định, phối hợp chặt chẽ với UBND huyện, UBMTTQ huyện trong
việc thống nhất thời gian và dự kiến nội dung chương trình kỳ họp.
- Trước mỗi kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo
của Thường trực Huyện ủy về chương trình, thời gian kỳ họp HĐND và những nội


dung quan trọng, những vấn đề nổi cộm trên địa bàn được phát hiện trong quá trình
giám sát của Thường trực HĐND, các Ban, các Tổ đại biểu HĐND và qua TXCT
của các Tổ đại biểu HĐND; những nội dung quan trọng được lựa chọn đưa ra thảo
luận, chất vấn, quyết định tại kỳ họp HĐND nhằm đảm bảo những nội dung kỳ
họp đúng quy định của pháp luật và đáp ứng được thực tiễn phát triển của huyện.
- Các Ban HĐND thể hiện rõ quan điểm trong thẩm báo cáo của UBND

huyện tạo cơ sở cho đại biểu HĐND huyện thảo luận cũang như việc lựa chọn các
vấn đề đưa ra chất vấn tại kỳ họp.
- Chuẩn bị dự thảo nghị quyết trình kỳ họp có chất lượng, đảm bảo ban hành
đúng trình tự quy định.
- Tiếp tục đổi mới công tác điều hành kỳ họp theo hướng ngắn gọn, thiết thực,
giảm thời gian đọc báo cáo trên hội trường, phát huy vai trò thẩm tra của các ban,
định hướng những vấn đề trọng tâm để thảo luận, chất vấn.
VẤN ĐỀ 4: MỐI QUAN HỆ CỦA PHÁP LUẬT

1. Khái niệm: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quy tắc xử sự
chung do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của nhà
nước trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước nhằm xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để nhận thức đầy đủ hơn về bản chất của pháp luật, chúng ta cần xem xét nó
trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
2. Các mối quan hệ của pháp luật
2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế
Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế được biểu hiện dưới hai khía cạnh:
Một là, pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Do đó pháp luật
trước hết được ra đời trên cơ sở hạ tầng và được quy dịnh bởi cơ sở hạ tầng. Trong
mối liên hệ này các đk kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quy định sự ra
đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung và sự phát triển của nó. Sự
phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế biểu hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật;
- Tính chất của quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất của
các quan hệ pháp luật, mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật;



- Các tổ chức và thiết chế pháp lý chịu ảnh hưởng quyết định từ chế độ kinh tế.
Ví dụ: Hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần (năm
thành phần), do đó, pháp luật quy định và tạo môi trường để các thành phần kinh tế
khác nhau cùng phát triển.
Hai là, mặc dù ra đời từ các điều kiện và tiền đề kinh tế, nhưng pháp luật
không phản ánh một cách thụ động các quan hệ kinh tế, mà còn có tính độc lập
tương đối tác động trở lại đối với kinh tế.
Điều đó thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây:
- Nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với các quy luật phát triển kinh tế xã hội thì sẽ tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, đến các tổ chức và vận hành
toàn bộ nền kinh tế cũng như cơ cấu bên trong của nền kinh tế một cách hiệu quả.
- Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã
hội thì nó sẽ kìm hảm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế hoặc một trong các yếu
tố hợp thành của nền kinh tế.
2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị
Theo V.I.Lênin, trong mối quan hệ với chính trị: “một đạo luật là một biện
pháp chính trị, là chính trị”.
Trong xã hội có giai cấp, bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng dựa vào pháp luật
để thể hiện ý chí và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp mình.
Pháp luật trở thành hình thức biểu hiện của chính trị, là biện pháp sắc bén
nhất, hiệu quả nhất để thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của
giai cấp cầm quyền. Mối liên hệ giữa pháp luật với chính trị thể hiện tập trung, trực
tiếp ở nội dung cơ bản của Cương lĩnh, mục tiêu, biện pháp, đường lối chính trị
của giai cấp thống trị.
Đường lối chính trị của đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng
pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Pháp luật thể chế hóa đường lối, chính
sách của đảng thành ý chí chung, thành ý chí của nhà nước. Ngoài ra pháp luật còn
chịu ảnh hưởng nhất định của đường lối chính trị của các giai cấp và tầng lớp khác
trong xã hội.
Ví dụ: Đường lối cách mạng của Đảng ta nhằm xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện rõ trong Cương lĩnh 1991 và sau đó

được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992.
Như vậy, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nên pháp luật vừa là
phương tiện để thực hiện đường lối chính trị, vừa là hình thái biểu hiện của chính
trị, ghi nhận yêu cầu, quan điểm chính trị của giai cấp cầm quyền. Mặt khác,
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo việc xây dựng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.


2.3. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước
Nói về mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước, V.I.Lênin cho rằng: “ý chí,
nếu nó là ý chỉ của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật
do chính quyền đặt ra; nếu không thế thì hai tiếng “ý chí” chỉ là một sự rung động
không khí do những âm thanh rỗng tuếch gây nên”.
Pháp luật và nhà nước là hai bộ phận của kiến trúc thượng tầng, luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai hiện tượng này đều có chung nguồn gốc ra đời
và phát triển. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy nếu thiếu pháp luật; ngược
lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên sức mạnh của quyền
lực nhà nước.
Mặt khác, pháp luật do nhà nước ban hành nhưng khi đã được công bố thì nó
trở thành một hiện tượng có sức mạnh tổng hợp công khai, bắt buộc đối với mọi
chủ thể, trong đó có cả nhà nước. Nhà nước nói chung và các cơ quan của nó nói
riêng đều phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Đồng thời, nhà
nước cũng không thể chủ quan, duy ý chí khi xây dựng và ban bố pháp luật, mà
phải xuất phát tư những nhu cầu khách quan của các điều kiện kinh tế - xã hội …
Trong cuốn “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin nói rằng: “Nếu không muốn
rơi vào không tưởng thì không nên nghĩ rằng, sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản,
người ta có thể tức khắc làm việc cho xã hội mà không cần phải có tiêu chuẩn
pháp lý nào cả…”.
3. Liên hệ
* Liên hệ về mối quan hệ của pháp luật

Tôi đang công tác tại một xã nằm bên bờ nam sông Cầu chạy theo hướng
Đông - Tây, có chiều dài khoảng 2000m, là nơi hợp lưu của 2 dòng sông Cà Lồ và
Nguyệt Đức. Địa giới của xã nằm trong vùng tiếp giáp với 3 tỉnh: Bắc Ninh - Bắc
Giang - Hà Nội. Phía Bắc giáp với huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; phía Đông
giáp với xã Đông Tiến; phía Nam giáp thị trấn Chờ, huyện Yên Phong; phía Tây
giáp với xã Hòa Tiến và huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Diện tích tự nhiên của xã là
864,8 ha trong đó có 529 ha đất nông nghiệp. Xã có 5 thôn, 3009 hộ với 12524
nhân khẩu.
Ủy ban nhân dân xã tôi có 5 thành viên, gồm 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 ủy
viên quân sự và 1 ủy viên công an. Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đồng
thời cũng là Phó Bí thư Đảng ủy xã. Ngoài ra, giúp việc cho UBND xã gồm các
đồng chí là công chức phụ trách các mảng: Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây
dựng, Tài chính - Kế toán, Văn phòng - Thống kê, Văn hóa - Xã hội; và Chỉ huy
Trưởng quân sự, Trưởng công an.


Kết quả đạt được:
Trong suốt quá trình hoạt động của UBND xã, nhờ việc tích cực nghiên cứu
tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế đồng thời biết vận dụng mối
quan hệ đó một cách phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mà hiện tại
xã tôi đã có được sự tiến bộ rõ rệt về mọi mặt. Một số thành công đáng kể của
chính quyền xã về việc vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế vào hoạt
động điều hành và quản lý xã hội là:
* Tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quản
lý cấp trên góp phần thúc đẩy sự tiến bộ mạnh mẽ của nền kinh tế nhã nhà, cụ
thể:
- Việc tuyên tuyền, phổ biến và áp dụng đúng các quy định của luật kinh tế,
luật đầu tư… giúp nền kinh tế xã nhà phát triển vững chắc, nhiều doanh nghiệp
và hộ gia đình đã giàu lên trông thấy, đời sống nhân dân no ấm hơn. Nhiều
chính sách, pháp luật được ban hành đúng lúc, kịp thời đã gỡ bỏ những khó

khăn, vướng mắc cho người dân trong quá trình làm kinh tế. Kết quả:
+ Về sản xuất nông nghiệp: Nhờ chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp,
người nông dân đã được vay vốn đầu tư cho sản xuất, có máy móc hiện đại thay
thế sức người nâng cao năng xuất lao động và đầu ra cho sản phẩm tương đối
ổn định. Mô hình trang trại ngày càng phát triển, giải quyết nhiều công ăn việc
làm nhàn rỗi tại địa phương, nâng cao đời sống kinh tế cho nhân dân trong toàn
xã.
Thực hiện có hiệu quả đề án “Phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế
cao” gắn với đề án xây dựng nông thôn mới giúp cho nền sản xuất nông nghiệp
của xã phát triển ổn định, bình quân lương thực đầu người năm 2015 là 710kg;
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2015 đạt 97.442 triệu đồng.
Chương trình trồng cây phủ xanh đã tạo được cảnh quan môi trường xanh
mát, tăng thu nhập cho người dân, trung bình hàng năm xã trồng thêm được
1.350 cây xanh.
+ Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có bước chuyển biến khá rõ nét,
góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Nhờ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích mà các nghề truyền thống như
trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, sản xuất bánh đa, mì gạo… tiếp tục được duy trì,
đồng thời phát triển thêm nghệ mộc, mỹ nghệ vào địa phương. Đến nay, toàn xã
có 231 hộ làm nghề mộc, mỹ nghệ thu hút khoảng 1000 lao động tham gia; hàng
chục hộ làm cơ khí; 500 hộ làm dịch vụ khác; ngoài ra còn hàng trăm lao động
làm việc tại các khu, cụm CN. Tổng số lao động CN, tiểu thủ CN và dịch vụ năm


2015 khoảng 5000 lao động. Giá trị thu nhập năm 2015 ước tính đạt 192.888
triệu đồng.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ sản suất, dân sinh, các thiết chế văn hóa được tăng
cường, công tác quản lí đất đai, vệ sinh môi trường được chú trọng và có chuyển
biến đáng kể. Với chủ trương phát huy nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ của trên và
khai thác các chương trình xây dựng nông thôn mới toàn xã đầu tư xây dựng,

củng cố các công trình xây dựng, giao thông và thủy lợi với tổng số tiền là
48.458 triệu đồng.
Về giao thông: Cải tạo, nâng cấp và làm mới được 09 công trình gồm các
tuyến đường thôn, xã góp phần đảm bảo giao thông thuận lợi cho người dân.
Về thủy lợi: Hàng năm, các hợp tác xã đã tổ chức tốt việc cải tạo, nạo vét
kênh mương, đảm bảo hệ thống kênh mương thông thoáng, thuận lợi tưới tiêu.
Về quản lý đất đai: Phát hiện và lập biên bản với 07 hộ vi phạm xây dựng
công trình trái phép trên đất canh tác, đề nghị cấp trên xử lý. Hoàn thành quy
hoạch và đề án “xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, định hướng đến
năm 2020 cũng như chi tiết quy hoạch đất nông nghiệp. Cấp được 198 GCN
quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình. Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền
thực hiện tốt viêc bồi thường, thu hồi đất làm đường quốc lộ 3b; trả tiền hỗ trợ
nông dân trồng lúa không để xảy ra tình trạng nhầm lẫn, thiếu xót.
+ Nhìn chung, nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng tốt, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực; Tổng giá trị sản xuất năm 2015 là 315.388
triệu đồng; Thu nhập bình quân đầu người là 27,2 triệu đồng.
* Có được những thành quả to lớn như vậy phần lớn là nhờ có sự lãnh đạo
đúng đắn, sát sao của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, sự nỗ lực phấn đấu của cấp ủy
Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và được sự đồng tình của nhân dân
trong xã, trong đó phải nhấn mạnh vai trò quyết định chỉ tiêu, giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội, vai trò giám sát của HĐND xã. Bên cạnh đó, một yếu tố rất quan
trọng dẫn đến thành công là công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
chính quyền địa phương đã thể chế hóa được đầy đủ những chủ trương, đường
lối của Đảng, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, tạo điều kiện thuận
lợi không nhỏ cho công tác quản lý hành chính trong toàn xã.
Đa số các văn bản, quy phạm pháp luật được ban hành đúng quy định, đúng
thẩm quyền nên có hiệu lực thi hành cao.
Việc phân công đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản đều đúng chức năng,
nhiệm vụ, tạo sự đồng thuận cao trong quần chúng.
Tồn tại, hạn chế:



Bên cạnh những ưu điểm trên thì việc vận dụng mối quan hệ của pháp luật
với kinh tế của chính quyền xã tôi vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục, đó là:
- Việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản, quy phạm
pháp luật của cơ quan quản lý cấp trên chưa thực sự sâu rộng dẫn đến:
+ Nền kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có
+ Nền kinh tế phát triển nhưng đôi lúc còn bấp bênh do chịu tác động xáu
của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là ngành nghề dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn
trrong cơ cấu thu nhập.
+ Chất lượng nguồn lực thấp, phần lớn chưa qua đào tạo
+ Sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, chi phí đầu vào tăng, người dân
không gắn bó với đồng ruộng…
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền trên một số mặt còn
hạn chế dẫn đến việc tuân thủ pháp luật chưa nghiêm; pháp lệnh dân chủ cơ sở
chưa được thực hiện đầy đủ. Một số mặt tồn tại chưa giải quyết được như: đất
đai, vệ sinh môi trường…
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:
- Việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các văn bản, quy phạm pháp luật
chưa thực sự sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân.
Đồng thời, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, của suy thoái kinh tế và theo
mục tiêu chính sách đầu tư công của Chính phủ nên có một số hạng mục kinh tế,
xã hội chững lại.
- Công tác lãnh, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ của Chính
quyền địa phương chưa theo việc, bám việc, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí
vẫn còn biểu hiện vi phạm dân chủ…
VD: Việc giao đất dân cư khu Đồng Me không đúng quy định, việc xây
dựng nhà văn hóa, sân vận đông thể dục thể thao thôn Vọng Nguyệt chưa có
quyết địn thu hồi và giao đất của cơ quan có thẩm quyền; hay ở một số thôn,
lãnh đạo chính quyền tự ký kết hợp đồng hoặc giao thầu không báo chi bộ.

- Như vậy, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đôi khi còn tắt
trách, không đúng thẩm quyền, chưa theo quy định.
Biện pháp khắc phục:
Từ những thành tựu cũng như những tồn tại, hạn chế nêu trên có thể rút
ra bài học kinh nghiệm trong quá trình vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật
với kinh tế, chính trị và nhà nước vào công tác quản lý hành chính ở địa phương
tôi nói riêng và các địa phương khác trên cả nước như sau:
- Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các văn bản, quy phạm pháp luật tới đội
ngũ cán bộ, công chức và toàn thể nhân dân trong xã.


- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên phải
linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
- Khi ban hành nghị quyết, quyết định cần nghiên cứu kỹ sao cho nghị
quyết, quyết định của chính quyền phải thể chế hóa được chủ trương, đường lối
của Đảng bộ, phù hợp với truyền thống địa phương và có tác động tốt đến công
tác quản lý hành chính nhà nước, làm cho đông đảo quần chúng nhân dân ủng
hộ, tự giác tuân theo.
- Việc ban hành các văn bản, quy phạm pháp luật phải đúng quy định,
đúng thẩm quyền, xét đúng người, đúng việc.
- Phân công đội ngũ CBCC đúng chức năng, nhiệm vụ, đồng thời thường
xuyên tổ chức cho đội ngũ CBCC tham gia tập huấn nâng cao năng lực chuyên
môn, đặc biệt là kỹ năng ban hành, tuyên truyển, phổ biến và tổ chức thực hiện
chỉ thị, nghị quyết ở trong cuộc sống.
VẤN ĐỀ 5: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Trong thực tế cuộc sống hiện đại, thực hiện pháp luật là hoạt động không
thể thiếu và thậm chí là hoạt động cực kỳ quan trọng vì nó có vai trò hiện thực
hoá các quy định của pháp luật, biến các quy định ấy từ trong văn bản thành
cách xử sự thực tế hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào những quan hệ
pháp luật cụ thể. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật, mục đích của nhà

nước khi ban hành pháp luật được hiện thực hoá, nhờ đó nhà nước có thể điều
hành và quản lý xã hội, có thể thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội trong những lĩnh
vực nhất định.
1. KN thực hiện pháp luật: Thực hiện pháp luật là quá trình các thành
viên trong xã hội thực hiện các hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật dưới
những hình thức và tính chất thực hiện khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, tăng cường pháp chế trong đời sống,
trong Nhà nước và xã hội.
2. Các hình thức thực hiện PL:
* Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể thực hiện pháp luật không thực hiện những hành vi xử sự mà pháp luật
ngăn cấm. Hành vi xử sự ở đây có tính chất thụ động và bắt buộc.
VD: một công dân không thực hiện những hành vi tội phạm được qui định
trong bộ luật hình sự, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của bộ luật
này.
* Chấp hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể thực hiện pháp luật chủ động thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy


định. Như vậy yêu cầu của pháp luật là thực hiện các nghĩa vụ và hoạt động thực
hiện pháp luật có tính chất chủ động, tích cực hơn nhưng vẫn có tính bắt buộc.
VD: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy hiểm
đến tính mạng và người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động tích
cực thi hàng quy định về nghĩa vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật
hình sự nói riêng.
* Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể thực hiện pháp luật thực hiện các quyền của mình do pháp luật quy định
hoặc cho phép. Hình thức sử dụng pháp luật khác hình thức tuân thủ pháp luật
và chấp hành pháp luật ở chỗ chủ thể thực hiện pháp luật có thể thực hiện hoặc
không thực hiện các quyền được pháp luật quy định, cho phép thực hiện hay

không thực hiện, không có tính bắt buộc. Như vậy hình thức sử dụng pháp luật
có tính chất chủ động và không bắt buộc.
VD: việc thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử, quyền khiếu nại và tố cáo…
* Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, trong đó
chủ thể áp dụng pháp luật chỉ có thể là cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà
nước có chức những năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Nói cách
khác, chỉ có cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước mới có quyền áp
dụng pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật
quy định.
VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù và có ý nghĩa
rất quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, hình thức thực hiện pháp luật này cần được
nghiên cứu cụ thể hơn.
3. Các giai đoạn áp dụng PL
Quy trình áp dụng pháp luật được chia thành 4 giai đoạn sau đây:
* Giai đoạn 1: Phân tích, đánh giá điều kiện, hoàn cảnh, tình tiết, bản chất
của sự việc cần áp dụng pháp luật.
Giai đoạn này đòi hỏi các cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền phải
phân tích, đánh giá đúng đắn, chính xác mọi tình tiết, điều kiện, hoàn cảnh, bản
chất của sự việc, sự kiện thực tế đã xảy ra. Quá trình phân tích, đánh giá phải có
quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, xác đinh được các đặc điểm
pháp lý và thực hiện đầy đủ các thủ tục đã được quy định cho từng loại vụ việc.
* Giai đoạn 2: Lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm
pháp luật phù hợp đối với trường hợp cần áp dụng.


Sau khi phân tích, đánh giá sự việc, xác định đặc điểm pháp lý của sự việc
cần áp dụng pháp luật phải lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật và các quy
phạm pháp luật phù hợp để áp dụng giải quyết sự việc. Cơ quan và cán bộ, công

chức có thẩm quyền phải xác định xem sự việc do ngành luật nào điều chỉnh để
lựa chọn các quy phạm pháp luật phù hợp. Văn bản và quy phạm pháp luât được
lựa chọn phải là những văn bản và quy phạm đang còn hiệu lực thi hành và
được ban hành trước khi sự việc xảy ra.
Mặt khác, cần phân tích làm rõ nội dung, tư tưởng, quan điểm của quy
phạm pháp luât được lựa chọn, đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn.
*Giai đoạn 3: Ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình áp dụng pháp luật bởi vì
giai đoạn này sử dụng kết quả của 2 giai đoạn trước và xác định biện pháp, mức
độ, hình thức áp dụng pháp luật đối với vụ việc cần áp dụng pháp luật. Văn bản
áp dụng pháp luật xác định quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật,
xác định trách nhiệm pháp lý của những người vi phạm pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng trình tự, thẩm
quyền, hình thức văn bản phải đúng mẫu văn bản đã được quuy định. Nội dung
các quy định của văn bản phải được diễn đạt rõ ràng, chính xác, đơn nghĩa.
* Giai đoạn 4: Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật, có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ hoạt động áp dụng pháp luật, bởi vì 3 giai đoạn trên
dù được thực hiện tốt đến đâu, văn bản áp dụng pháp luật có chất lượng đến
mức nào đều trở nên vô nghĩa nếu văn bản đó không được thực hiện trên thực
tế.
Tổ chức thực hiện văn bản pháp luật nói chung là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, trong đó nòng cốt là các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan
tư pháp. Riêng đối với các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân do các cơ
quan chức năng thuộc Bộ tư pháp - Cục thi hành án đảm nhiệm. Cơ quan thi
hành án được thực hiện đến cấp huyện (Đội thi hành án). Tuy vậy, để đảm bảo
thực hiện văn bản áp dụng pháp luật ngoài việc đảm bảo chất lượng của các văn
bản này phải nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, tăng cường kiểm
tra, giám sát, nhất là tổ chức huy động sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân và các đoàn thể, tổ chức quần chúng.

4. Liên hệ
Tôi đang công tác tại một xã của huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Xã tôi
nằm bên bờ nam sông Cầu chạy theo hướng Đông - Tây, có chiều dài khoảng


2000m, là nơi hợp lưu của 2 dòng sông Cà Lồ và Nguyệt Đức. Địa giới của xã
nằm trong vùng tiếp giáp với 3 tỉnh: Bắc Ninh - Bắc Giang - Hà Nội. Phía Bắc
giáp với huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp với xã Đông Tiến; phía
Nam giáp thị trấn Chờ, huyện Yên Phong; phía Tây giáp với xã Hòa Tiến và
huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Diện tích tự nhiên của xã là 864,8 ha trong đó có 529 ha
đất nông nghiệp. Xã có 5 thôn, 3009 hộ với 12524 nhân khẩu.
Ủy ban nhân dân xã có 5 thành viên, gồm 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 ủy
viên quân sự và 1 ủy viên công an. Đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đồng
thời cũng là Phó Bí thư Đảng ủy xã. Ngoài ra, giúp việc cho UBND xã gồm các
đồng chí là công chức phụ trách các mảng: Tư pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây
dựng, Tài chính - Kế toán, Văn phòng - Thống kê, Văn hóa - Xã hội; và Chỉ huy
Trưởng quân sự, Trưởng công an.
Các đồng chí trong cơ cấu của UBND đều là các cá nhân ưu tú được nhân
dân tín nhiệm, nhiều năm qua đã thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình,
đưa tập thể xã ngày một vững bước đi lên.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các đồng chí lãnh đạo UBND luôn chú
trọng đề cao vấn đề thực hiện pháp luật, coi đó là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
nhằm điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội trong
những lĩnh vực nhất định. Chính vì vậy mà việc thực hiện pháp luật trên địa bàn
xã đã có nhiều thành quả đáng ghi nhận, cụ thể:
- Đã tuyên truyền, phổ biến được kiến thức pháp luật tới đại bộ phận quần
chúng nhân dân. Nâng cao ý thức sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật
không chỉ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên mà cả trong số đông quần chúng.
Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách của nhà
nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công tác tuyên truyền

pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó đã tạo cho người
dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật, từ đó, người dân
chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và
nghiêm chỉnh.
VD: Có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà nước như tham
nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . . đã bị người dân khiếu nại, tố cáo.
Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của chính phủ trong việc
giải quyết dứt khoát, không tránh né dù đối tượng có cương vị, trọng trách cao
đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội được dư luận xã hội quan


×