Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Skkn vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học phần công dân với đạo đức, chương trình môn giáo dục công dân lớp 10 trường THPT nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.29 KB, 67 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BR-VT
TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU

BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN
CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2016 - 2017

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” CHƯƠNG
TRÌNH MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
Ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
Họ và tên: Mai Thị Mai – Thạc sĩ, Giáo viên


2
Chương 1:
CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới
cho sự nghiệp giáo dục là đào tạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra ngày càng cấp thiết. Một trong
những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng
lực và phẩm chất của nười học, phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS. Vì vậy, Việc vận
dụng và tổ chức có hiệu quả quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông thì các phương
pháp giảng dạy là một thành tố vô cùng quan trọng, vì việc vận dụng hợp lý các phương
pháp dạy học nhằm là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành
động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong


cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.
Những định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4
khóa VII của Đảng (1/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) được thể chế
hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Đặc biệt trong các văn kiện trình Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh sự quan tâm đặc
biệt và làm rõ hơn lập trường, quan điểm, tính nhất quán về sự cần thiết phải đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chỉ rõ: “chất lượng, hiệu quả
giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và các phương thức
giáo dục, đào tao; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu
khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chú trọng đúng mức
việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm
tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu và thiếu thực chất. Quản lí giáo dục và đào tạo có mặt
còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng
và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách cơ chế tài chính cho
giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất- kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản,
toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của


3
đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số
biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
Thực tế việc đổi mới PPDH tại trường THPT Nguyễn Du trong thời gian qua còn
nhiều bất cập và hạn chế, một số giáo viên chưa thực sự chịu khó, quyết tâm cải tiến
PPDH, vẫn còn hiện tượng “đọc - chép”, chưa chú trọng đến việc tạo hứng thú, kích thích
tư duy học sinh tiếp nhận, làm chủ kiến thức. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các GV đang
trực tiếp giảng dạy, là phải không ngừng đổi mới PPDH cho phù hợp với đặc trưng môn
học. Đổi mới nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo và rèn luyện thói
quen vào khả năng tự học. Tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình

huống khác nhau và trong thực tiễn, tránh sự ỷ lại và phụ thuộc vào GV, đem lại niềm vui,
sự yêu thích qua từng tiết học, bài học đó nhiệm vụ hết sức cấp thiết.
2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
Vấn đề vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học không phải là một
vấn đề mới, mà từ trước đến nay có rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia
trong và ngoài nước đưa ra nhiều giải pháp đề cập ở những góc độ khác nhau.
Vậy, trong công tác giáo dục điều quan trọng là nhà giáo phải làm cho học sinh hào
hứng, phấn khởi, tích cực tiếp nhận tự sự giáo dục. Nhà giáo dục chỉ là người hướng dẫn,
gợi mở cho học sinh chứ không thể thay thế được tính tích cực chủ động, sáng tạo của học
sinh như nhà triết học, người thầy vĩ đại của Trung Quốc thời kỳ cổ đại là Khổng tử nói:
“Trò nào không hỏi làm thế nào? Làm thế nào? Thì ta cũng chẳng làm thế nào được”. Vì
vậy, nhà giáo dục phải tìm mọi biện pháp động viên, khơi dậy tính tích cực của chủ thể ông
nói: “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực mình vì không rõ được
thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc khác
thì không dạy nữa”.
Ở Việt Nam tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học như
tác giả Phan Huy Ngọ: “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường” tác giả đã đi
sâu nghiên cứu vấn đề lý luận dạy học, các phương pháp dạy học, kỹ thuật sử dụng phương
tiện dạy học trong nhà trường, điểm mạnh và hạn chế của các phương pháp dạy học, các
phương pháp đánh giá kết quả [33; 183]. Cũng như Trần Bá Hoành: “Đổi mới phương
pháp dạy học, chương trình SGK” tác giả nghiên cứu và trình bày lý luận chung đổi mới


4
phương pháp dạy học, chương trình và SGK phổ thông [19; 7,176]. Còn Đặng Thành
Hưng: “Tương tác và hoạt động của thầy trò trên lớp học” tác giả đã chú trọng trình bày kỹ
thuật sử dụng câu hỏi trong bài học, hành vi ứng xử của giáo viên, sử dụng lời nói trên lớp
và trình bày bảng như một phương tiện ngôn ngữ viết trên lớp [20; 28]. Với Trần Bá Đoàn:
“Lý luận cơ bản về dạy và học tích cực” tác giả nêu lên những vấn đề chung về thực trạng
dạy và học hiện nay, sự cần thiết phải đổi mới, những định hướng đổi mới theo phương

pháp dạy và học tích cực [16; 3] và nhiều công trình khác. Từ sự nghiên cứu lý luận dạy
học và nêu lên hệ thống các PPDH theo hướng tích cực, chủ động của người học, khẳng
định vai trò trung tâm của người học trong quá trình dạy học, các tác giả đã có cách viết
khác nhau tạo ra sự đa dạng và phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu.
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định phương pháp dạy học tích cực có ý
nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người là
nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh
hội tri thức, kỹ năng và hình thành thái độ. Những giáo trình, tài liệu, công trình nghiên cứu
về lý luận phương pháp dạy học tích cực nói chung khá phong phú và đã định hướng mục
tiêu tầm quan trọng về PPDH tích cực, đã cung cấp cho tôi về phương pháp lý luận làm cơ
sở, tiền đề nghiên cứu cho giải pháp
Nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu, khảo sát về thực trạng việc vận
dụng PPDH tích cực trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”, chương trình môn Giáo
dục công dân lớp 10 tại trường THPT Nguyễn Du nhằm đưa ra phương hướng và giải pháp
cho vấn đề này. Do vậy, trong đề tài này một mặt tác giả kế thừa những vấn đề lý luận về
PPDH tích cực nói chung. Mặt khác, tôi đi sâu phân tích, triển khai áp dụng vào một vấn đề
mới hơn, có ý nghĩa thực tế hơn, liên quan trực tiếp đến chuyên môn và nghiệp vụ của mình
thông qua đề tài mà tôi lựa chọn đó là: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức”, chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 trường
THPT Nguyễn Du làm đề tài nghiên cứu.

3. Mục tiêu của giải pháp
Nghiên cứu thực trạng việc vận dụng PPDH tích cực trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức”, chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 trường THPT Nguyễn Du, Từ


5
kết quả khảo sát, thực nghiệm của đề tài, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Giáo dục công dân ở lớp 10 trường THPT Nguyễn Du.
4. Căn cứ để giải pháp của tác giả là đúng đắn

Thứ nhất, Xuất phát về mặt cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”, chương trình môn GDCD lớp 10
4.1. Khái niệm phương pháp và phương pháp dạy học
+ Khái niệm phương pháp
Khái niệm phương pháp xuất phát từ thuật ngữ Hi Lạp “Methodos” có nghĩa chung
nhất là con đường nghiên cứu, cách thức làm việc, phương tiện mà chủ thể phương pháp
dạy học sử dụng tác động, chiếm lĩnh để tìm ra và chứng minh chân lý.
G.Hêghen đưa ra định nghĩa về phương pháp và được Lênin nêu lên trong tác phẩm
Bút ký triết học: “Phương pháp là hình thức vận động của nội dung sự vật. Mỗi sự vật đều
có bản chất của nó và được thể hiện qua hình thức nhất định. Hình thức không bao giờ tồn
tại riêng, tách rời nội dung. Đồng thời nội dung cũng không tồn tại tách rời hình thức vận
động của nó. Mỗi sự vật đều có phương pháp vận động riêng của mình” [33; 142]. Trong
dạy học cần phải có phương pháp, phải làm cho HS tiếp thu kiến thức bằng con đường
ngắn nhất, với sự nỗ lực của HS, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của GV. Kết quả trong
trường phổ thông được đánh giá không chỉ ở mặt nội dung mà còn cả về phương pháp.
Theo quan điểm của C. Mác (1818-1883): “Phương pháp là sức mạnh tuyệt đối, duy
nhất, cao nhất, vô cùng tận, không có vật thể nào có thể cưỡng lại nổi; đó là xu thế của lý
tính đi đến chỗ tìm thấy lại, nhận thấy lại bản thân mình ở trong mọi sự vật ” [24; 122].
Trong công tác giáo dục muốn đạt được hiệu quả thì GV phải được trang bị đầy đủ cả về
cơ sở lý luận khoa học lẫn kinh nghiệm thực tế. Vì có kiến thức tốt chưa chắc đã có
phương pháp dạy học tốt, nhưng không thể có phương pháp giảng dạy tốt nếu GV chưa
nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn. Từ những quan niệm trên, chúng tôi đưa ra

một định nghĩa về phương pháp như sau: Phương pháp là cách thức làm việc của
thầy và của trò để đạt được mục đích đặt ra.
+ Khái niệm phương pháp dạy học


6
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học. Theo tác giả

Phan Trọng Ngọ: “Định nghĩa chung nhất về phương pháp dạy học là những con đường,
cách thức tiến hành hoạt động dạy học”[33; 145]. Còn GS. TS Đặng Thành Hưng:
“Phương pháp dạy học là những phương thức hoạt động trật tự có liên quan qua lại của
giáo viên và học sinh nhằm đạt những mục tiêu giáo dục” [21; 1]. Tuy nhiên, có nhiều
cách diễn đạt khác nhau nhưng nội dung của định nghĩa trên đều có một tư tưởng chung
là: Phương pháp dạy học là sự tương tác trong tiến trình hoạt động của giáo viên và học
sinh, do đó phương pháp dạy học được xem xét trong mối liên hệ giữa phương pháp với
các nhân tố khác của quá trình dạy học (mục đích, nội dung, hình thức tổ chức dạy học,
kiểm tra, đánh giá, ...). Trên cơ sở nghiên cứu những định nghĩa của nhiều nhà khoa học
khác nhau, chúng tôi đã đưa ra định nghĩa về phương pháp dạy học như sau: Phương pháp
dạy học là cách thức hoạt động có trình tự, với sự tương tác giữa giáo viên và học sinh
nhằm đạt được mục đích của quá trình dạy học
+ Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ động của người học là chủ thể của quá trình
học tập cũng đã có từ lâu. Tư tưởng chỉ đạo đổi mới về PPDH được phát biểu dưới nhiều
hình thức: “lấy học sinh làm trung tâm”, “phát huy tính tích cực”, “phương pháp dạy học
tích cực”, “phương pháp giáo dục tích cực”, “tích cực hóa hoạt động học tập”, “ hoạt động
hóa người học”, cùng với điều đó là nhiều lý thuyết dạy học của nhiều tác giả bàn về
PPDH. Nhưng quan niệm và cách trình bày, lý giải của các tác giả không phải đã hoàn toàn
thống nhất với nhau về PPDH
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước, để
chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng với theo nghĩa trái với tiêu cực.
Tác giả Trần Bá Hoành: “PPDH hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học
chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, đành rằng để dạy



7
theo PPDH tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều hơn so với dạy theo phương pháp thụ
động” [19; 83]. Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “phương pháp dạy học mà
các đồng chí nêu ra, nói gọn lại là lấy người học làm trung tâm. Người ta thường đặt ra
những câu hỏi, đưa ra những câu chuyện có tính hấp dẫn, khêu gợi, đòi hỏi, người nghe,
người đọc, dẫu là người suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó, suy nghĩ, tìm tòi...PPDH tích
cực này có khả năng phát triển được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con
người...Phương pháp này giúp người ta phương pháp tự học và ham học. Đó là cái quý báu
nhất”[17; 5]. Tuy nhiên, hiện nay cũng đang có nhiều quan niệm, tư tưởng của các giáo dục
trong và ngoài nước tập trung làm rõ “Phương pháp dạy học tích cực”. Mỗi một khái niệm
có sự tiếp cận khác nhau về cách diễn đạt. Nhưng hầu hết các tác giả đều khẳng định,
phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học.
Trên cơ sở tham khảo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, chúng tôi
đưa ra định nghĩa về phương pháp dạy học tích cực như sau:
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp khơi dậy, phát huy tính chủ động
sáng tạo tích cực của cả người dạy và người học, trong đó lấy người học làm trung tâm
trên cơ sở phát huy vai trò định hướng, tổ chức của người thầy và kết hợp các phương tiện
kỹ thuật hiện đại nhằm đạt được các mục tiêu của bài học.
4.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh
PPDH tích cực dựa trên cơ sở tâm lý cho rằng, nhân cách của trẻ được hình thành
thông qua các hoạt động chủ động, có ý thức. Trí thông minh của học sinh nhờ sự tác động
giữa chủ thể hoạt động với đối tượng và môi trường. Dạy học theo cách này không chỉ đơn
giản cung cấp tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Khả năng hành động là một yêu cần
được đặt ra không chỉ đối với từng cá nhân mà cả ở cấp độ cộng đồng địa phương và toàn
xã hội. Trong PPDH tích cực, học "chữ" và học "làm" gắn với nhau. Từ học làm đến biết
làm, muốn làm và cuối cùng muốn tồn tại và phát triển như nhân cách một con người lao
động, tự chủ, năng động, sáng tạo.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.



8
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan
trọng đảm bảo thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học là khả năng phát hiện kịp
thời và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Nếu rèn luyện cho người
học có được kỹ năng, phương pháp thói quen tự học, biết linh hoạt ứng dụng những điều đã
học vào những tình huống mới biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi con người.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
PPDH tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi học sinh trong quá
trình tự lực giành lấy kiến thức mới. Trong một lớp học, tư duy và trình độ kiến thức của
học sinh không đều nhau. Vì vậy buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ và tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác
học tập. Tuy nhiên, trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình
thành bằng con đường hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là một môi trường giao tiếp
thầy - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên con đường chiếm lĩnh tri thức của
nhân loại. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể ý kiến của mỗi cá nhân được điều
chỉnh, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học
vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp.
-

Kết hợp đánh giá của thầy và của trò.

Trong học tập, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng
và điều chỉnh hoạt động của trò, đồng thời tạo ra điều kiện nhận định thực trạng và điểu
chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Như vậy, bốn đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực trên đã thể hiện tính
ưu việt của nó. Vì vậy, để dạy học có hiệu quả thì giáo viên cần nắm vững bốn đặc trưng
của các phương pháp dạy học tích cực.

 So sánh phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học tích cực như
sau:
Phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học

Quan

truyền thống
tích cực
- Học là quá trình tiếp thu và lĩnh - Học là quá trình phát triển nội lực

niệm

hội tri thức, qua đó hình thành vốn có của người học làm cho người


9
kiến thức, kỹ năng, tư tưởng và học có được phương pháp, kĩ năng,
tình cảm.

thói quen, ý chí tự học bằng cách
tìm tòi, khám phá, thu nhận và xử lý

Bản chất

thông tin từ môi trường xung quanh.
- Dạy là quá trình truyền thụ tri - Dạy là quá trình tổ chức hoạt
thức, kỹ năng và chứng minh chân động nhận thức cho HS. Dạy HS


Mục tiêu

lý theo cách của GV.
tìm ra chân lý.
- Chú trọng cung cấp tri thức, kỹ - Hướng dẫn cho người học sớm
năng, kỹ xảo.

thích ứng với đời sống xã hội hòa

- Học để đối phó với thi cử. Tri thức

nhập và phát triển cộng đồng, xã

được truyền đạt đã quy định trong

hội.

chương trình và sách giáo khoa.

- Tôn trọng nhu cầu và lợi ích khả
năng của HS.

Nội dung

- Trong sách giáo khoa và sách

- Các nguồn tài liệu khoa học khác

giáo viên.


học phù hợp như: Sách giáo khoa,

- Tài liệu do GV soạn dạy cho

sách giáo viên, phòng thí nghiệm,

người học để đáp ứng các kỳ thi.

thực tế…
+ Yêu cầu của chương trình quy định
+ Tình huống thực tế, hoàn cảnh xung
quanh.
+ Nhu cầu xã hội

Phương

+ Những vấn đề học sinh quan tâm.
Chủ yếu sử dụng phương pháp GV hướng dẫn học sinh tự tìm tòi,

pháp

thuyết trình , diễn giải, truyền thụ khám phá, giải quyết vấn đề giúp
kiến thức một chiều.

HS lĩnh hội tri thức một cách chủ

động. Dạy học tương tác.
Chỗ ngồi cố định, GV đối diện Chỗ ngồi linh hoạt như: Học ở lớp,
với cả lớp.


Hình
thức

tổ

ở phòng thí nghiệm, học theo nhóm
được chú trọng, học cá nhân, học
đôi bạn, học thực tế.


10
chức
Phương

Chủ yếu là bảng đen và phấn Bảng đen, phấn trắng, sử dụng các

tiện

trắng.



cho việc giảng dạy.
Dạy – Ghi nhớ, tư duy tái tạo của Hợp tác hai chiều: Dạy – Tự học.

hình dạy

phương tiện kỹ thuật hiện đại hỗ trợ

người học.


học
trò - Người dạy chủ động truyền đạt - Dạy học hướng tập trung vào
của Người tri thức, người học thụ động tiếp người học, đề cao vai trò chủ động,
Vai

dạy

và thu.
người học

tự lực tích cực của người học.
Người học tự mình tìm ra kiến thức
dưới sự hướng dẫn của GV.
- Người dạy – người học, người học

- Người dạy truyền thụ một chiều – người học.
độc thoại hay phát vấn.
- Người dạy định hướng, hướng
- Người dạy giảng - Người học dẫn cho người học về phương pháp
ghi nhớ, học thuộc lòng. Người tự học, cách ứng xử, giải quyết vấn
dạy độc quyền đánh giá cho điểm.

đề.

- Người dạy là thầy dạy, dạy chữ, - Người dạy là thầy học cách dạy
dạy nghề và dạy người.
Ưu điểm

cho người học, tự học chữ, tự học


nghề, tự học làm người.
- Dễ chuyển tải đến người học - Phát huy tính chủ động, tích cực
một khối lượng thông tin cần thiết nhận thức của HS và chú trọng đến
cho số lượng lớn HS.

sự phát triển cá thể, giúp HS hứng

- Trong một khoảng thời gian thú học tập.
ngắn, GV có thể cung cấp cho - Chú trọng thực hành kỹ năng giao
người học một khối lượng thông tiếp với mọi người.
tin rất phong phú, được cấu trúc - Rèn luyện cho HS ý thức được


11
theo một logic chặt chẽ.

bản thân về quá trình tự học, tự

- HS tiếp thu bằng con đường nghiên cứu và nắm vững các
ngắn nhất và ghi chép được đầy phương pháp làm việc trí tuệ để
đủ nội dung của bài học.

hiểu, ghi nhớ tài liệu học tập, hình

- Trong một khoảng thời gian thành kỹ năng, kỹ xảo và thực hiện
ngắn, GV có thể cung cấp cho việc kiểm tra lĩnh hội kiến thức.
người học một khối lượng thông - Mọi người học đều phải suy nghĩ,
tin rất phong phú được GV cô chia sẻ, học hỏi và giúp đỡ lẫn
động và chắt lọc từ kho tàng tri nhau, bình đẳng và tự tin hơn, chủ

thức và cấu trúc theo một logic động giải quyết vấn đề.
chặt chẽ.

Hạn chế

- Không khí lớp học luôn sôi nổi.

- Cung cấp cho người học khuôn
mẫu và phương pháp nhận thức,
phương pháp tổng hợp, cấu trúc
tài liệu học tập, giúp người học có
phương pháp nhận thức.
- Dạy học truyền thống không đòi
hỏi sử dụng nhiều phương tiện
nên đỡ tốn thời gian và công sức
cho GV.
- Thu được rất ít thông tin phản - Đòi hỏi GV phải gia công về tự
hồi từ phía người học.

lực tài liệu và tốn nhiều thời gian,

- Mức độ lưu giữ thông tin của công sức đầu tư cho bài giảng.
người học rất ít, do trí nhớ ngắn - Phải có đủ phương tiện và thiết bị
hạn, trí nhớ làm việc của người dạy học phù hợp để đáp ứng quá
nghe thường xuyên bị quá tải.

trình dạy học.

- Tính cá thể hóa trong dạy học - HS sau khi tập trung vào suy nghĩ,
thấp, do giảng viên phải dùng một bàn bạc, trao đổi phải tự đưa ra kết

số biện pháp chung cho cả lớp.

luận và ghi bài dưới sự hướng dẫn

- Học sinh gần như thụ động tiếp của GV.


12
nhận thông tin, ít có cơ hội thể - GV thì phải biết áp dụng các
hiện và áp dụng các ý tưởng của PPDH và PTDH một cách linh
mình đối với tài liệu học tập, hoạt, phù hợp vào từng nội dung
không phát huy được tính tích cực của bài học mới đạt hiệu quả.
chủ động sáng tạo của người học.
4.3.. Một số phương pháp dạy học tích cực có thể vận dụng trong phần “Công dân với đạo
đức”, chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10.
Hiện nay, có rất nhiều PPDH tích cực có thể vận dụng vào tất cả các bài dạy học ở
chương trình môn GDCD cấp THPT. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu
một số PPDH có nhiều ưu thế trong việc phát huy tính tích cực của HS trong dạy học phần
“Công dân với đạo đức”, thuộc chương trình môn GDCD lớp 10 như sau:
4.3.1. Phương pháp nêu vấn đề
Để có thể nêu tình huống vấn đề, GV phải nắm vững bản chất của vấn đề, nắm vững
nội dung bài học. Nếu không GV chỉ có thể nêu ra câu hỏi mà HS chỉ cần đọc sách giáo
khoa là có thể trả lời một cách dễ dàng, không đòi hỏi phải có hoạt động tư duy. Yêu cầu
đặt ra đối với việc vận dụng PPNVĐ và giải quyết vấn đề trong môn GDCD đòi hỏi GV
phải tiến hành các bước sau:
Bước 1: Đặt vấn đề:
GV nêu vấn đề cho HS suy nghĩ. GV hướng dẫn HS nhận dạng và thảo luận vấn đề
cần giải quyết với sự giúp đỡ của GV.
Bước 2: Giải quyết vấn đề:
GV hướng dẫn HS tiến hành nghiên cứu, để tìm ra cách giải quyết vấn đề được giao,

HS tự lực suy nghĩ, sáng tạo và lựa chọn giải pháp tối ưu, cho kết quả tốt nhất.
Bước 3: Kết luận vấn đề:
GV cho các nhóm trình bày kết quả của nhóm mình. Cả lớp cùng thảo luận, so
sánh và đánh giá kết quả của từng cá nhân hay của nhóm, GV kết luận vấn đề đã được giải
quyết và đề xuất vấn đề mới.
Quá trình nghiên cứu và thử nghiệm, chúng tôi nhận thấy tùy theo nội dung bài học
và trình độ HS, GV có thể vận dụng PPNVĐ theo các mức độ đã nêu trên cho phù hợp.
Tuy nhiên, khi vận dụng, cho dù ở mức độ nào thì GV luôn phải có sự chuẩn bị chu đáo,
trước các tình huống và cảm xúc của HS khi trả lời các câu hỏi, khi giải quyết các vấn đề.
Vận dụng PPNVĐ vào dạy học môn GDCD cần lưu ý một số điểm như sau:
- Dạy học nêu vấn đề có tác dụng tốt trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS.


13
- Vấn đề nêu ra phải phù hợp với trình độ HS với mục tiêu bài học và gắn với thực tiễn
cuộc sống, huy động được vốn sống, kiến thức của HS, tránh tầm thường hóa hoặc thô
thiển hóa làm mất định hướng chính trị.
- Mất nhiều thời gian, phải có tâm huyết, công sức và sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
- Phải phát huy được khả năng độc lập, suy nghĩ, năng lực tư duy sáng tạo của người học,
vận dụng các tri thức của bản thân vào giải quyết vấn đề trong học tập cũng như trong thực
tiễn.
- Phải kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp khác.
Vận dụng phương pháp nêu vấn đề có những ưu điểm sau:
Một là, tạo ra môi trường lý tưởng cho người học, bộc lộ sự hiểu biết của mình một
cách tích cực và tự giác. Đồng thời GV tổ chức hoạt động học tập để HS nắm vững được tri
thức và các phương pháp lĩnh hội khác nhau để đạt hiệu quả.
Hai là: PPNVĐ giúp người học tiếp nhận tri thức một cách chủ động, là cơ hội để
HS thể hiện khả năng của bản thân trong việc áp dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn
đề các tình huống thực tiễn đặt ra.
Ba là, PPNVĐ giúp người học phát huy khả năng độc lập suy nghĩ, phát triển năng

lực tư duy, sáng tạo, kỹ năng vận dụng các tri thức của bản thân vào giải quyết các vấn đề
học tập và trong thực tiễn. Đồng thời PPNVĐ còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa
các thành viên trong nhóm thông qua việc hợp tác giải quyết tình huống, thông qua đó GV
có thể kiểm tra, đánh giá được năng lực của HS thông qua các hoạt động học tập.
Ngoài những ưu điểm trên PPNVĐ còn có những hạn chế như sau:
Để xây dựng một tình huống có vấn đề, đòi hỏi GV phải có nhiều kinh nghiệm về
chuyên môn cũng như kỹ năng vận dụng PPDH, đó là việc không hề đơn giản đối với mọi
GV và mọi bài học; hơn nữa PPNVĐ còn đòi hỏi người học phải nắm vững tri thức liên
quan đến vấn đề cần giải quyết.
4.3.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dùng lời nói trong đó GV gợi mở,
động viên và tổ chức cho HS tham gia trao đổi ý kiến chung của nhóm mình về một vấn,
trên cơ sở đó rút ra kết luận, kiến thức mới, xác định và làm sáng tỏ vấn đề liên quan đến
nội dung bài học. Phương pháp này có nhiều ưu thế trong việc tăng cường học tập của cá
nhân phối hợp với học tâp hợp tác giúp người học hiểu bài sâu hơn, phù hợp với những
vấn đề trong phần đạo đức, pháp luật, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.


14
PPTLN có thể tiến hành theo 2 cách là thảo luận lớp và thảo luận theo nhóm nhỏ.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung làm rõ hình thức thảo luận nhóm
nhỏ trong một lớp học.
Dựa vào nội dung bài học, GV chuẩn bị các câu hỏi thảo luận, chia HS theo nhóm
nhỏ từ 4 - 8 em và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm thảo luận 1 – 2 câu hỏi. Mọi ý kiến của
các thành viên nêu lên trong nhóm phải được bàn bạc thống nhất. Sau khi thảo luận, mỗi
nhóm cử một người lên trình bày kết quả trước cả lớp. Sau phần trình bày của mỗi nhóm,
GV hướng dẫn, điều khiển để cả lớp được đóng góp ý kiến bổ sung. Hệ thống câu hỏi của
các nhóm chính là cấu trúc nội dung của bài học, hoặc một phần của bài học.
Là một trong những PPDH tích cực, PPTLN nếu được sử dụng rộng rãi sẽ giúp cho
HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, khuyến khích tính tích cực ngay cả

với những HS rụt rè, nhút nhát trong học tập, tạo cơ hội để các em được tự thể hiện mình,
HS có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay cùng giải quyết một vấn đề, một tình huống về
triết học, đạo đức… trong chương trình môn GDCD. Phương pháp này đòi hỏi người học
tích cực động não, cho phép mọi thành viên trong nhóm được phát huy tối đa khả năng của
bản thân trong hoạt động hợp tác, cộng tác, tương tác với mọi thành viên khác, được tạo
mọi điều kiện để tham gia trực tiếp vào quá trình dạy học, được thể hiện quan điểm của
mình.
Áp dụng PPTLN vào dạy học môn GDCD cần phải theo các bước sau:
- GV giới thiệu chủ đề cần thảo luận và nêu các câu hỏi có liên quan đến chủ đề, thời gian
thảo luận.
- GV chia số HS của lớp thành các nhóm, chỉ định hoặc yêu cầu các nhóm bầu nhóm
trưởng, thư ký và trong nhóm thư ký ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận nhóm
mình để trình bày trước cả lớp. HS cần luân phiên nhau làm “nhóm trưởng” và “thư ký”,
đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận dưới nhiều hình thức: bằng lời, giấy khổ lớn,
bảng phụ, bản trong hoặc phiếu học tập.
- GV tổ chức cho các nhóm tiến hành thảo luận các nội dung đã được giao trong thời gian
quy định.
- Cử đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp. Các nhóm khác lắng nghe, chất
vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- Trong thời gian học sinh thảo luận, GV cần đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến
của HS, giúp đỡ, gợi ý nếu cần thiết.
- Giáo viên tổng kết các ý kiến theo nhóm nhỏ.


15
Đây là một PPDH được đưa vào dạy học trong các trường phổ thông. Quá trình vận
dụng chiếm nhiều thời gian của tiết học. Vì vậy, đòi hỏi GV phải có kinh nghiệm trong
việc tổ chức dạy học. Khi vận dụng PPTLN cần lưu ý:
- Đưa ra câu hỏi thảo luận phải sát với nội dung bài học và phù hợp với trình độ HS, không
được thảo luận khái niệm, định nghĩa hay những nội dung đã được trả lời đầy đủ trong

SGK.
- Cách chia nhóm phải hết sức linh hoạt, luôn thay đổi để tạo điều kiện cho mỗi HS được
giao lưu với tất cả HS trong lớp học và quy định rõ thời gian thảo luận của các nhóm.
- GV phải đi lại, quan sát hoạt động thảo luận, lắng nghe ý kiến của HS để kịp thời giúp đỡ
hoặc nhắc nhở một số HS có biểu hiện thiếu tập trung không muốn đóng góp ý kiến. Cần
khích lệ mọi HS cùng tham gia đóng góp ý kiến, không chê bai một ý kiến nào.
- Kết quả thảo luận của các nhóm phải được trình bày trên bảng hoặc treo xung quanh
tường lớp học để HS có cơ hội quan sát, ghi nhớ những điều mỗi em cần biết.
- GV phải nhắc nhở HS chuẩn bị bài trước ở nhà, sau khi thảo luận xong, HS chỉ bổ sung
thêm những ý còn thiếu vào bài, có như vậy mới đảm bảo thời gian cho một tiết học.
- Chỉ sử dụng PPTLN ở những phần có nội dung khó, trọng tâm của bài học, chiếm nhiều
thời gian của tiết dạy học dễ làm “cháy” giáo án.
- GV không nên sử dụng PPTLN hai lần trong một tiết học.
Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong qua trình dạy học có rất nhiều ưu
điểm nổi bật như sau:
Một là, PPTLN tăng cường khả năng giao tiếp giữa HS với GV, giữa HS với HS
trong nhóm, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng thuyết phục người nghe. Trong lớp, HS sẽ được
trao đổi, hợp tác với nhau, để bộc lộ hiểu biết, quan điểm của mình về nội dung,
phương pháp học tập, cũng như trong lĩnh vực khác; giúp họ có nhiều cơ hội rèn luyện
các khả năng diễn đạt cách thức tư duy, ý tưởng của mình.
Hai là, PPTLN đã tạo yếu tố, kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và
giữa các nhóm, đặc biệt là trong việc học tập các chủ đề có tính sáng tạo cao và nhiều
người trình bày được nhiều ý kiến dưới góc nhìn khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi để các
thành viên học hỏi lẫn nhau với thái độ hiểu biết về trách nhiệm trong nhóm được nâng
cao.
Ba là, PPTLN tạo ra nhiều cơ hội cho GV có thông tin phản hồi từ phía người
học, từ đó GV có thể đánh giá năng lực của HS, có thể thu được tri thức và kinh nghiệm
từ phía HS qua các ý kiến phát biểu sáng tạo của người học.



16
Bốn là, PPTLN tạo cơ hội bình đẳng trong cách trình bày ý kiến, quan điểm giữa HS
với HS, giữa HS với GV một cách thân thiện, nghiêm túc cũng như nhận xét, đánh giá ý
kiến của người khác và điều chỉnh tư duy của mình. Do đó, nếu GV tổ chức tốt PPTLN sẽ
góp phần tăng sự hiểu biết, tin cậy, thân thiện, đoàn kết và trao đổi, học hỏi lẫn nhau giữa
các thành viên.
Ngoài những ưu điểm trên phương pháp thảo luận nhóm còn có những hạn chế như
sau:
Dạy học bằng PPTLN sẽ làm mất nhiều thời gian của cả người dạy và người học.
Nên đòi hỏi phải có sự đầu tư kỹ lưỡng về bài giảng, GV phải lường trước được các tình
huống có thể xảy ra.
Cần lưu ý khi thực hiện PPTLN đó là phương pháp này không thể áp dụng cho
mọi vấn đề, mọi trường hợp vì mục tiêu dạy học là một khoảng thời gian ngắn, cung
cấp cho người học một lượng thông tin lớn, có hệ thống về một chủ đề nhất định, nên
đòi hỏi GV phải nắm vững kiến thức chuyên môn, có khả năng ứng xử những ý kiến
trái ngược nhau, nhấn mạnh kiến thức trọng tâm, mở rộng các hướng nghiên cứu, làm
sáng tỏ thêm các vấn đề nảy sinh trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời, GV phải có
kinh nghiệm trong việc đặt ra chủ đề để HS thảo luận không bị lạc đề, kinh nghiệm về
khả năng lắng nghe, kỹ năng điều khiển và kiểm soát lớp học để học sinh phát huy tính
tích cực, sáng tạo trong học tập của HS. Nếu GV không nắm vững và thiếu kinh nghiệm
trên sẽ không thực hiện được mục tiêu dạy học.
4.3.3. Phương pháp giải quyết vấn đề
PPGQVĐ là cách thức tổ chức của GV nhằm tạo ra tình huống có vấn đề và điều
khiển hoạt động của học sinh nhằm độc lập giải quyết các vấn đề học tập. Khi dạy học theo
PPGQVĐ đã kích thích HS tự khám phá tri thức, phát hiện giải quyết vấn đề một cách
khoa học, rất phù hợp với phần “Công dân với đạo đức” ở chương trình lớp 10.
Để áp dụng PPGQVĐ, GV cần tổ chức cho HS học tập theo các bước như sau:
- GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề, HS thực hiện cách giải quyết vấn đề theo
hướng dẫn của GV, GV đánh giá kết quả làm việc của HS.
- GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm ra cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi

cần. GV và HS cần đánh giá.
- GV cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. HS phát hiện và xác định vấn đề nảy
sinh, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. HS thực hiện cách giải quyết vấn
đề. GV và HS cần đánh giá.


17
- HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc của cộng đồng, lựa
chọn vấn đề phải giải quyết. HS giải quyết vấn đề.
Quá trình nghiên cứu và thử nghiệm, chúng tôi thấy tùy theo nội dung bài học và
trình độ HS, GV có thể vận dụng PPGQVĐ theo các bước đã nêu trên cho phù hợp. Tuy
nhiên, khi vận dụng cho dù ở bước nào thì GV luôn phải có sự chuẩn bị trước các tình
huống và cảm xúc của HS khi trả lời các câu hỏi, khi giải quyết các vấn đề. Khi vận dụng
PPGQVĐ cần lưu ý:
- Nêu vấn đề phải phù hợp với mục tiêu chương trình, mục tiêu bài học và gắn liền với
thực tiễn cuộc sống, phù hợp với trình độ HS, huy động được vốn sống, kiến thức của HS.
- Phải kích thích được sự sáng tạo của HS.
- Cách giải quyết vấn đề được lựa chọn phải là giải pháp tốt nhất và có hiệu quả.
- Khi vận dụng cần kết hợp với các phương pháp dạy học khác.
Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề có những ưu điểm sau:
Một là, PPGQVĐ giúp HS phát huy tối đa tính độc lập, tư duy sáng tạo, PPDH này
rèn luyện năng lực thích ứng với cuộc sống hiện tại, thông qua kỹ năng biết giải quyết vấn
đề hợp lý nảy sinh trong quá trình học tập và trong cuộc sống thực tiễn.
Hai là, PPGQVĐ giúp người học thấy được mối liên hệ giữa kiến thức cũ với kiến
thức mới để củng cố và vận dụng kiến thức vào trong cuộc sống thực tiễn. Mặt khác, HS
thấy có nhu cầu và hứng thú trong việc tìm kiến thức mới.
Bên cạnh những ưu điểm trên phương pháp giải quyết vấn đề còn có những hạn chế
nhất định đó là:
Hạn chế cơ bản của PPGQVĐ là tốn nhiều thời gian và công sức của cả thầy và trò,
không phải bài học nào cũng tạo được tình huống có vấn đề.

Mặt khác, khi sử dụng PPGQVĐ vào dạy học GV phải nắm vững kiến thức chuyên
môn và tạo ra tình huống có vấn đề phải vừa sức với người học, liên quan đến nội dung bài
học, nếu không người học sẽ dễ nản khi gặp tình huống khó, không nhiệt tình tham gia khi
tình huống thiếu hấp dẫn.
4.3.4. Phương pháp động não
PPĐN là một kỹ thuật dạy học giúp HS trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Vận dụng phương pháp này giúp cho
GV trong một thời gian ngắn sẽ “lôi ra” một danh sách các thông tin từ HS làm tiền đề cho
các nội dung cần phân tích, thảo luận.
Dạy học phương pháp động não có thể tiến hành theo các bước sau:


18
- GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề trước cả lớp hoặc cho từng nhóm nhỏ qua phiếu giao việc.
- Động viên khích lệ HS trả lời vào phiếu học tập hoặc phát biểu.
- GV hoặc lớp trưởng, thư ký lớp liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu của HS lên bảng, lên
phiếu học tập, lên bản trong để tất cả HS trong lớp theo dõi (trừ các ý kiến trùng lặp) và
phân loại các ý kiến đúng, sai.
- Tổng hợp các ý kiến của HS, cho HS được nêu những băn khoăn, thắc mắc và GV kết
luận vấn đề (nội dung cần làm rõ của bài học).
Khi vận dụng PPĐN trong dạy học môn GDCD cần đảm bảo các yêu cầu sư phạm
sau:
- Chỉ sử dụng PPĐN khi dạy học các nội dung ít nhiều đã quen thuộc với HS.
- Có thể sử dụng PPĐN khi mở đầu bài học, kết thúc bài học, tổng kết bài.
- Các ý kiến phát biểu cần ngắn gọn. Nếu trả lời vào phiếu học tập cần ngắn gọn bằng một
câu, một từ hay cụm từ.
- Tất cả ý kiến của HS đều được GV, hoan nghênh, chấp nhận, không vội vàng cười chê,
phê phán hay nhận xét đúng sai.
- Khi kết luận vấn đề, nội dung bài học GV cần động viên, khích lệ HS bằng việc nhấn
mạnh kết quả này là của tất cả mọi thành viên xây dựng nên.

Phương pháp động não có những ưu điểm sau:
Một là, PPĐN giúp người học phát huy tư duy sáng tạo, khai thác được kiến thức
và kinh nghiệm của tập thể những phẩm chất của người hoạt động tự lực, độc lập suy nghĩ.
Hai là, PPĐN khuyến khích người học tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề. Kết
quả của các cuộc động não là những lý tưởng, các giải pháp có tính chất phát kiến của
người học.
Ngoài những ưu điểm trên PPĐN còn có những hạn chế như sau:
Hạn chế của PPĐN là mất nhiều thời gian, nếu GV tổ chức không khéo đôi khi kết
quả thu được sau cuộc động não là các ý tưởng nghèo nàn, xa rời chủ đề cần nghiên cứu,
học tập.
Một số điều cần lưu ý khi thực hiện PPĐN là phương pháp không thích hợp với các
bài dạy có nội dung tường minh, khuôn mẫu, ít cần sự sáng tạo của người học. Đòi hỏi GV
phải nắm vững PPĐN và có trình độ và kinh nghiệm cao trong giảng dạy.
4.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
PPNCTHĐH là một PPDH, trong đó HS tự lực nghiên cứu một tình huống thực
tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống đặt ra. Tình huống là một hoàn cảnh thực


19
tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định
trên cơ sở cân nhắc các phương án khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn
cảnh gắn với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức
hợp được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế.
Tình huống trong dạy học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huống
thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học. Dạy học theo PPNCTHĐH đã kích
thích HS tự khám phá tri thức, phát hiện giải quyết vấn đề một cách khoa học, rất phù
hợp với phần “Công dân với đạo đức” ở chương trình lớp 10.
Vận dụng PPNCTHĐH vào dạy học môn GDCD cần phải theo các bước sau:
- Đọc (xem hoặc nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về nó (có thể viết một vài lĩnh vực
đó trước khi thảo luận điều đó với người khác).

- GV đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong tài liệu viết
hay từ GV.
- Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
Khi vận dụng PPNCTHĐH trong dạy học môn GDCD cần đảm bảo các yêu cầu sư
phạm sau:
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề.
- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như:
Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B?
v.v… Vấn đề này có thể được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn
chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn,
khái quát hơn.
- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống rộng hơn, với nghề
nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở nhiều hướng giải
quyết.
- Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề có thể liên quan đến nhiều phương diện.
- Tình huống cần vừa sức với HS và có thể giải quyết trong điều kiện cụ thể.
- Tình huống cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong việc giải quyết các tình
huống thực tiễn, không phải bao giờ cũng có giải pháp duy nhất đúng.


20
- Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátSét mà không phải ở dạng chữ viết.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình góp phần hỗ trợ cho các PPDH
khác nên có những ưu điểm sau:
Một là, PPCNTHĐH giúp cho người học nâng cao tinh chủ động, sáng tạo, hứng thú
và cách giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống. Do đó, nếu GV tổ chức tốt
PPDH này sẽ góp phần tăng thêm sự hiểu biết, thân hiện và học hỏi lẫn nhau về kinh

nghiệm giữa các thành viên trong lớp để mở ra nhiều hướng giải quyết trong các tình
huống thực tiễn.
Hai là, PPCNTHĐH tạo cơ hội cho người học phát triển toàn diện các kỹ năng như
kỹ năng phân tích để xác định vấn đề, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng tranh
luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến của mình, qua đó người học sáng tạo khi đưa ra
các giải pháp cho vấn đề.
Những hạn chế của phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình là:
Dạy học bằng PPNCTHĐH sẽ mất nhiều thời gian cho cả người dạy và người học.
Vì để tổ chức một buổi học có hiệu quả đỏi hỏi người dạy cần chuẩn bị chu đáo, đầu tư
nhiều thời gian và công sức vào thiết kế bài dạy, trong thiết kế bài dạy những tình huống
phải luôn đổi mới và cập nhật thông tin.
Ngoài ra, năng lực của người tổ chức thực hiện PPCNTHĐH cũng là một vấn đề
được quan tâm. Vì là người hướng dẫn, tổ chức và là trọng tài khoa học, nên đòi hỏi người
dạy phải nắm vững kiến thức chuyên môn để mở rộng các hướng nghiên cứu và giải quyết
các tình huống mà người học đưa ra. Để thực hiện tiết dạy thành công thì GV phải giám sát
chặt chẽ người học như kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của HS trước khi đến lớp phải
mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình và GV phải lường trước được tình
huống tổ chức giờ dạy.
- Hoạt động hóa người học.
- Chủ động trong điều chỉnh nhận thức, hành vi hay kỹ năng của người học.
- Có thế mạnh trong phân tích, tổng hợp, đánh giá và hướng giải quyết trường hợp
cụ thể trong đời sống thực tế, để Qua đó rút ra kiến thức nội dung của bài học.
* Hạn chế:
- Chuẩn bị lựa chọn trường hợp điển hình để nghiên cứu cho phù hợp với nội dung,
mục tiêu đào tạo. Do đó, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.
- Khó có giải pháp xác định nếu không bổ sung thường xuyên các dữ kiện.


21
Thứ hai, xuất phát về mặt thực tiễn việc sử dụng PPDH tích cực trong phần “Công

dân với đạo đức”, chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 tại trường THPT
Nguyễn Du.
Vài nét về trường THPT Nguyễn Du
Với sự hình thành và phát triển của trường THPT Nguyễn Du đã khẳng định được vị
trí trong sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà. Đội ngũ CB-GV-CNV với lòng nhiệt huyết yêu
nghề, luôn có tinh thần trách nhiệm cao, không ngừng tự học tập, rèn luyện và phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và công tác. Vì vậy, hàng năm thu hút khá đông HS
khá, giỏi vào học, điểm thi tuyển đầu vào lớp 10 thường cao thứ 3 tỉnh. Phần đông HS luôn
cố gắng học tập và rèn luyện, nên tỉ lệ HS khá giỏi chiếm hơn 60%. Tỉ lệ HS đỗ tốt nghiệp
THPT luôn đạt 100%. Hàng năm trường luôn có nhiều HS đạt giải cao trong các kì thi
chọn HS giỏi cấp tỉnh. Trong quá trình giảng dạy đòi hỏi vấn đề đặt ra cho các thầy, cô là
phải luôn tìm tòi giải pháp mới, tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
bài giảng và không ngừng nâng cao trình độ vươn lên tự khẳng định chất lượng, làm tốt
công tác giảng dạy. Để có được những thành tựu đó, thì đòi hỏi người GV, người làm công
tác quản lý phải tìm hiểu kỹ các PPDH tích cực và nắm vững được bản chất, quy trình thực
hiện của các PPDH tích cực và đã thấy được những ưu điểm và hạn chế của các PPDH này.
Đặc biệt, cần lưu ý khi vận dụng các PPDH tích cực trong tiết dạy học của từng bài cụ thể
vì không có phương pháp dạy học nào là tố ưu cho mọi trường hợp, nên việc nghiên cứu kỹ
nội dung bài giảng, đặc điểm riêng của từng môn học và đối tượng người học để có sự kết
hợp đa dạng các phương pháp dạy học khác.
Về Cấu trúc chương trình, mục tiêu, chuẩn của chương trình lớp 10
Do yêu cầu của đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, chương trình môn GDCD
lớp 10 từ năm học 2006 - 2007 được cấu trúc thành hai phần :
- Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học.
- Phần thứ hai: Công dân với đạo đức.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi tập trung phân tích nội dung chương
trình, giới thiệu tổng thể các bài ở phần hai “Công dân với đạo đức”.
Về vị trí: Phần thứ hai của chương trình môn GDCD lớp 10 có vai trò quan trọng
trong việc trang bị cho HS những hiểu biết về các phạm trù cơ bản của Đạo đức học và có



22
trách nhiệm đạo đức của người công dân trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là phần tổng
kết những nội dung giáo dục đạo đức mà HS được học ở bậc tiểu học và THCS.
Mục tiêu của phần thứ hai là:
Học xong phần này, HS cần đạt được:
+ Về kiến thức: Hiểu được quan niệm đạo đức, một số phạm trù và giá trị đạo đức
cơ bản của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
+ Về kỹ năng:
Có kỹ năng phân tích, đánh giá các quan điểm, các hành vi, hiện tượng đạo đức trong
đời sống hằng ngày, ở trường và ngoài xã hội.
Biết tự điều chỉnh, tự hoàn thiện bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội.
+ Về thái độ:
Tin tưởng vào các giá trị đạo đức xã hội. Có tình cảm, niềm tin đối với các quan
điểm, thái độ, hành vi đúng đắn và có thái độ phê phán đối với các quan điểm, thái độ,
hành vi lệch chuẩn.
Có quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân để trở thành người công dân tốt.
Như vậy, mục tiêu môn GDCD ở bậc THPT: “Góp phần củng cố, phát triển hệ thống
giá trị đạo đức, văn hóa, pháp luật, tư tưởng chính trị, lối sống mà HS đã được hình thành ở
bậc tiểu học và học sinh THCS. Đồng thời giúp họ nhận rõ trách nhiệm của thanh niên đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trang bị cho họ phương pháp luận đúng đắn để
họ có đủ bản lĩnh, đủ năng lực chủ động và tự giác xác định phương hướng phát triển của
bản thân sau khi tốt nghiệp THPT” [3; 6].
Chương trình môn GDCD lớp 10 phần: “Công dân với đạo đức” được cấu trúc
trong 7 bài nhưng do Bộ Giáo dục năm học 2011- 2012 giảm tải còn 6 bài vì:
Bài 10: Quan niệm về đạo đức (1 tiết).
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học (2 tiết).
Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (2 tiết).
Bài 13: Công dân với cộng đồng (2 tiết).

Bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2 tiết).
Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại (1 tiết).
Trong chương trình cũ toàn bộ thời lượng của lớp 10 được dành cho việc dạy Triết
học, nay chương trình mới có thêm phần đạo đức (được chuyển từ lớp 11 cũ xuống). Sở dĩ
có sự sắp xếp này vì kế hoạch dạy học THPT đã có thay đổi trước đây môn GDCD mỗi lớp
có số tiết là 1,5 tiết/ tuần, nay là 1 tiết/ tuần. Do sự thay đổi này, phần Triết học và phần


23
Đạo đức đều được tinh giảm, rút ngắn, bám sát hơn mục tiêu của chương trình mới. Tuy
nhiên, phần thứ 2 của chương trình lớp 10 “Công dân với đạo đức” đều được cấu trúc với 2
mạch nội dung:
Một là: Quan niệm về đạo đức, một số phạm trù cơ bản của Đạo đức học: nghĩa vụ,
lương tâm, nhân phẩm và danh dự, hạnh phúc.
Hai là: Các giá trị đạo đức, thể hiện trong 3 mối quan hệ cơ bản của con người, đó
là:
+ Quan hệ với bản thân: Bài Tự hoàn thiện bản thân.
+ Quan hệ với người khác: Bài Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình.
+ Quan hệ với cộng đồng, đất nước, nhân loại gồm các bài: Công dân với cộng đồng;
Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Công dân với một số vấn đề cấp
thiết của nhân loại.
Từ nội dung chương trình, các bài cụ thể trong SGK được cấu trúc rất mới so với tài
liệu GDCD cũ theo trình tự sau:
- Phần mở đầu bài học: Trình bày một cách ngắn gọn, định hướng chú ý của HS về những
yêu cầu của bài học, bao gồm yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
- Phần nội dung bài học: Trình bày các đơn vị kiến thức của bài dưới dạng các mục lớn,
nhỏ để HS theo dõi. Điều rất mới của SGK hiện nay là trong các phần bài học có những
phần in nghiêng, chữ nhỏ, chữ in đậm, có các tranh ảnh, để gợi ý phương pháp học tập của
HS và PPDH của GV. Những dòng chữ in nghiêng, in nhỏ thường được dùng để nhấn
mạnh kiến thức cần nhớ, các câu hỏi để dẫn dắt, cung cấp các thông tin, thuật ngữ, nhân

vật cần thiết trong bài học.
- Tài liệu tham khảo: Rất đa dạng và phong phú bao gồm các câu chuyện, lời giải một số
từ, nội dung của bài học, các tài liệu, địa chỉ các nguồn tài liệu cần tham khảo giúp cho HS
trong quá trình nghiên cứu, tự học được thuận lợi dễ dàng.
- Câu hỏi và bài tập: Mục tiêu các câu hỏi và bài tập là giúp HS củng cố, khắc sâu, mở rộng
kiến thức, trau dồi lý tưởng, đạo đức, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng lực tư duy, vận
dụng các tri thức đã được học vào lý giải những vấn đề của tự nhiên, xã hội và con người.
Với các vấn đề đã nêu trên cần phải đổi mới PPDH để khai thác nội dung, các phần của
SGK. Sử dụng PPDH tích cực vào dạy học để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của HS. Đổi mới kiểm tra, đánh giá, sử dụng trong các trường THPT hiện nay.
5- Phương pháp thực hiện giải pháp


24
Để thực hiện sáng kiến này, ngoài sử dụng phương pháp luận của việc nghiên cứu là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về
GDĐĐ cho thanh niên, trong đề tài tôi còn vận dụng các phương pháp mang tính đặc thù
sau đây: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát, đánh giá thực tế, so sánh, thống kê,
điều tra xã hội học và một số phương pháp khác.
6- Đối tượng và phạm vi áp dụng
6.1. Đối tượng áp dụng
- HS lớp 10 trường THPT Nguyễn Du
- Vận dụng PPDH tích cực trong chương trình GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức”
6.2. Phạm vi áp dụng

- Trường THPT Nguyễn Du huyện Châu Đức – BRVT

Chương 2:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
Những định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong Nghị quyết, được thể chế

hóa trong Luật Giáo dục, Chỉ thị về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nhưng
nhìn chung GV chưa nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học. Vì phần nhiều tiết dạy học GV
vẫn sử dụng PPDH thuyết trình, giảng giải là chủ yếu, thầy giảng – trò nghe và ghi chép,
chưa khai thác hết được tài liệu dạy học, chưa tạo điều kiện cho HS làm việc cá nhân, làm
việc nhóm nên chưa phát huy hết năng lực, sự sáng tạo của HS trong các hoạt động học
tập, dẫn đến việc học sinh ít có hứng thú trong học tập làm ảnh hưởng chất lượng dạy –
học. Mặt khác, khi vận dụng PPDH tích cực trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”,
nhiều GV trẻ khi lựa chọn PPDH, chưa có kinh nghiệm trong việc tìm hiểu kĩ nội dung bài


25
học để lựa chọn phương pháp phù hợp, còn một số GV có thâm niên công tác có trình độ
và kiến thức vững chắc nhưng hạn chế về sử dụng công nghệ thông tin nên bảo thủ, thành
kiến trong việc vận dụng PPDH tích cực với quan niệm không nhất thiết phải sử dụng
PPDH tích cực, dù dạy PPDH nào đi chăng nữa mục tiêu là HS nắm được nội dung bài
học. Nên dẫn đến HS không có thói quen tự học, tự nghiên cứu tài liệu trước khi lên lớp,
sức ỳ và sự thụ động của HS quá lớn tron việc phát triển năng lực và phẩm chất thích ứng
với các PPDH phát huy tính tích cực học tập. Mặc dù nhà trường luôn cố gắng đề ra những
giải pháp trong việc chỉ đạo, triển khai các Tổ vận dụng PPDH tích cực trong các tiết dạy
học. Đặc biệt là thảo giảng cấp tổ, cấp trường, cấp tỉnh.
nhưng chưa đạt được hiệu quả so với mục tiêu giáo dục mà nhà trường đề ra. Từ đó, tôi đã
nhận thức được rằng, một trong những hạn chế của giải pháp nhà trường đề ra là chưa phù
hợp với mục tiêu giáo dục của nhà trường trong thực tiễn. Nên tôi đã có ý tưởng đưa ra giải
pháp Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học phần “Công dân với đạo
đức”, chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 trường THPT Nguyễn Du được hình
thành từ năm học 2013- 2014, góp phần Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của việc vận dụng PPDH tích cực trong phần “Công dân với đạo đức”, chương
trình môn Giáo dục công dân lớp 10 ở các trường THPT. Trong quá trình giảng dạy
phần“Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10” và đã áp dụng trong

giảng dạy cho 12 lớp 10/mỗi năm học tại trường THPT Nguyễn Du, từ năm học 2013 cho
đến năm học 2017 thì trong quá trình thực hiện giải pháp, chúng tôi luôn nhận được sự tín
nhiệm Ban giám hiệu và hưởng ứng toàn thể Hội đồng giáo dục nhà trường. Đối tượng HS
để chúng tôi thực nghiệm sư phạm có mặt bằng về năng lực học tập tương đối đồng đều,
các em đều cộng tác rất tích cực trong hoạt động dạy học cũng như trong khảo sát hiệu quả
của giải pháp.
II. Nội dung giải pháp
1. Giải pháp đối với giáo viên
* Về chuyên môn


×