Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội quận hoàng mai thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.93 KB, 96 trang )

MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục đồ thị

vii

Danh mục các từ viết tắt

viii

1

LỜI MỞ ĐẦU

1



1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

3

1.2.1

Mục tiêu chung

3

1.2.2

Mục tiêu cụ thể

3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3


1.3.1

Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu

3

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

5

2.1

Cơ sở lý luận

5

2.1.1

Khái quát chung về BHXH bắt buộc

5


2.1.2

Một số vấn đề về quản lý đối tượng BHXH bắt buộc

18

2.2

Cơ sở thực tiễn của đề tài

31

2.2.1

Cơ sở pháp lý thực hiện quản lý thu Bảo hiểm xã hội Việt Nam

31

2.2.2

Bài học kinh nghiệm về quản lý đối tượng BHXH trên thế giới và
Việt Nam

32

2.3

Một số công trình nghiên cứu liên quan


35

3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

37

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

37

3.1.1

Đặc điểm chung về Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

37

3.1.2

Khái quát về BHXH Quận Hoàng Mai

38

iii


3.2


Phương pháp nghiên cứu

44

3.2.1

Phương pháp thu thập tài liệu

44

3.2.2

Phương pháp xử lý số liệu

45

3.3

Phương pháp phân tích số liệu

45

3.3.1

Phương pháp thống kê

45

3.3.2


Phương pháp so sánh

46

3.3.3

Phương pháp chuyên gia

46

3.4

Các chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu

46

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

48

4.1

Thực trạng quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH
quận Hoàng Mai

48


4.1.1

Tổ chức thực hiện thu BHXH bắt buộc tại BHXH quận Hoàng Mai

48

4.1.2

Quy trình quản lý đối tượng tham gia BHXH BB tại BHXH Hoàng Mai

49

4.1.3

Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

51

4.1.4

Quản lý tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc

57

4.1.5

Cấp và quản lý sổ BHXH

61


4.1.6

Quản lý hồ sơ tham gia BHXH

63

4.1.7

Kết quả thu BHXH bắt buộc

63

4.1.8

Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đối tượng tham gia BHXH

65

4.2

Đánh giá chung tình hình quản lý đối tượng BHXH bắt buộc

67

4.2.1

Những kết quả đã đạt được

67


4.2.2

Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân

68

4.3

Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia
BHXH BB trên địa bàn

74

4.3.1

Định hướng phát triển hoạt động của BHXH quận trong những năm tới

74

4.3.2

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia
BHXH tại BHXH quận Hoàng Mai

76

5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


83

5.1

Kết luận

83

5.2

Kiến nghị

84

iv


5.2.1

Kiến nghị đối với nhà nước

84

5.2.2

Kiến nghị đối với BHXH Việt Nam

85

5.2.3


Kiến nghị đối với BHXH TP Hà Nội

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

PHỤ LỤC

88

v


DANH MỤC BẢNG
STT
2.1

Tên bảng

Trang

Tổng hợp tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động và người
sử dụng lao động

3.1

27


Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của BHXH quận
Hoàng Mai

39

3.2

Tình hình thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2012 – 2014

43

4.1

Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc (2012-2014)

52

4.2

Tỷ lệ đơn vị tham gia BHXH BB trên địa bàn quận năm 2014

53

4.3

Số lao động tham gia BHXH bắt buộc (2012-2014)

54


4.4

Tỷ lệ lao động tham gia BHXH BB trên địa bàn quận năm 2014

55

4.5

Tình hình tham gia BHXH BB qua kiểm tra tại quận Hoàng Mai
(2012-2014)

56

4.6

Tình hình quỹ lương trích nộp BHXH (2012-2014)

57

4.7

Tổng hợp mức lương thực tế và mức lương làm căn cứ đóng BHXH

59

4.8

Quản lý cấp sổ BHXH bắt buộc (2012-2014)

61


4.9

Quản lý công tác chốt sổ BHXH bắt buộc (2012-2014)

62

4.10

Quản lý hồ sơ tham gia BHXH (2012-2014)

63

4.11

Tổng hợp kết quả thu BHXH BB tại quận Hoàng Mai từ 2012-2014

64

4.12

Đánh giá của các doanh nghiệp về BHXH

65

vi


DANH MỤC ĐỒ THỊ
STT


Tên sơ đồ

Trang

3.1

Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH quận Hoàng Mai

40

4.1

Quy trình quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

49

vii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

CCHC


Cải cách hành chính

CĐBHXH

Chế độ bảo hiểm xã hội

DN

Doanh nghiệp

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

HĐND

Hội đồng nhân dân

KD

Kinh doanh



Lao động

LĐLĐ

Liên đoàn Lao động


LĐTB&XH

Lao động - Thương binh và Xã hội

NQD

Ngoài quốc doanh

NSNN

Ngân sách Nhà nước

SDLĐ

Sử dụng lao động

TTHC

Thủ tục hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân

viii


1. LỜI MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài

Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay là
Cộng hòa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm
ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH và coi nó là một trong những
chính sách quan trọng nhất trong hệ thống chính sách an sinh xã hội.
BHXH là nền tảng cho sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tế của mỗi quốc
gia chỉ có thể tăng trưởng một cách bền vững khi người dân được phân phối công
bằng, khi người dân được thụ hưởng các thành quả của kinh tế. BHXH chính là một
“kênh” quan trọng tạo ra sự công bằng này. Vì vậy, các quốc gia, dù đã phát triển
hay đang phát triển, vẫn tiếp tục hoàn thiện, tiếp tục đổi mới chính sách BHXH.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang dần hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, sức ép trên thị trường lao động ngày một tăng lên. Nhất là trong tình hình
hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới. BHXH chính là sự cần thiết khách quan và không thể thiếu được đối với người
lao động. Hoạt động BHXH đã ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng trong
việc giảm nhẹ Ngân sách nhà nước tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng trưởng
phát triển kinh tế.
Theo thời gian các quy định về BHXH ngày càng được hoàn thiện hơn, là
chính sách an sinh xã hội giúp người lao động an tâm làm việc, phát huy hết năng
lực để đóng góp cho xã hội. BHXH không đơn thuần chỉ là tiền mà người lao động
và người sử dụng lao động đóng vào để giải quyết các chế độ, chính sách. Thông
qua những chế độ, chính sách mà người lao động được hưởng, sẽ làm cho người lao
động an tâm làm việc, chủ sử dụng lao động có nguồn nhân lực ổn định, có khả
năng hoạch định được chính sách, chiến lược kinh doanh và phát triển, từ đó thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Theo báo cáo sơ bộ của Tổng cục thống kê, năm 2012 trên địa bàn thành phố
Hà Nội có khoảng 93.715 đơn vị, tổ chức hoạt động với 2.487.582 người tham gia

1



quan hệ lao động, trong đó:
- Khối hành chính sự nghiệp là: 8.923 đơn vị, số lao động làm việc trong khối
hành chính sự nghiệp là: 463.023 người.
- Khối tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh là: 84.792 đơn vị với số lao
động tham gia làm việc là 2.024.559 người trong đó: (doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 1.049 doanh nghiệp với lực
lượng lao động là 19.259 người; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng khoảng 20.541 doanh nghiệp với lực lượng lao động 966.933
người; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ khoảng 63.202 doanh nghiệp
với lực lượng lao động là 1.038.367 người).
Như vậy, so sánh số liệu lao động do Tổng cục Thống kê công bố với tổng số
người đang tham gia BHXH tại Hà Nội hiện nay cho thấy: vẫn còn hàng triệu người
thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa tham gia, đồng thời qua
số liệu cũng phản ánh thực tế tình trạng trốn đóng BHXH của các doanh nghiệp tại
Hà Nội. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác phát triển đối tượng tham gia
BHXH, đặc biệt là chiến lược phát triển đối tượng tham gia BHXH trong các năm
tới tại Hà Nội.
Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội gửi tới Quốc hội
về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, đối
tượng tham gia BHXH tiếp tục tăng nhưng tốc độ tăng thấp. Tính đến hết
31/12/2014, tổng số đối tượng tham gia BHXH là 11.647.784 người, tăng
590.356 người. Trong đó, BHXH bắt buộc là 11.451.530 người nhưng so với
tổng số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chỉ mới đạt khoảng 70%.
Như vậy, trong năm 2014 Bộ LĐ-TBXH hoàn thành kế hoạch về mở rộng
đối tượng, có tăng trưởng, nhưng số lượng tham gia BHXH vẫn chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng lực lượng lao động, khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng diện bao phủ
BHXH đến năm 2020 (chiếm khoảng 50% lực lượng lao động) là khó khăn.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, quận Hoàng Mai nói riêng tỷ lệ
tham gia BHXH của các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc vẫn còn thấp, tình

trạng trốn, tránh đóng BHXH diễn ra khá phức tạp. Để khắc phục những hạn chế,

2


bất cập nói trên, nhằm mở rộng và tăng trưởng nguồn thu BHXH, phát triển bền
vững quỹ BHXH trên địa bàn quận, rất cần có những giải pháp cụ thể.
Qua thời gian công tác tại BHXH quận Hoàng Mai, với những kiến thức cơ
bản, những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác thu BHXH, tác giả chọn vấn đề:
“ Quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội quận
Hoàng Mai, TP Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở những lý luận về BHXH, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung
trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại các cơ quan BHXH
hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu tại BHXH Quận Hoàng Mai để đề xuất các giải
pháp quản lý có hiệu quả các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về BHXH, BHXH bắt buộc
và quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại các cơ quan bảo hiểm hiện nay;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình quản lý các đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc tại BHXH Quận Hoàng Mai, TP Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp quản lý đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, an sinh xã hội của địa phương trong điều kiện mới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về BHXH bắt buộc và giải pháp
quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ở các địa phương hiện nay.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu công tác quản lý thu, các nội dung

quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, các giải pháp quản lý đối tượng tham
gia tại cơ quan BHXH hiện nay.
Do điều kiện về thời gian và nguồn lực, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
về BHXH BB; không nghiên cứu về BHYT, BHXH tự nguyện, BH thất nghiệp.

3


- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện tại BHXH Quận Hoàng Mai và
các đối tượng liên quan trên địa bàn.
- Phạm vi thời gian: Đề tài sử dụng số liệu, thông tin liên quan từ năm 2012
đến năm 2014, số liệu điều tra thời điểm hiện tại. Thời gian thực hiện đề tài từ 2014
đến 2015.

4


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái quát chung về BHXH bắt buộc
2.1.1.1 Khái niệm BHXH
Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948
đã xác nhận “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền
hưởng bảo hiểm xã hội”.
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng của vấn đề an sinh xã
hội, là cơ chế chính trong hệ thống an sinh xã hội. Vì thế, chính sách bảo hiểm xã
hội trước tiên là một trong các chính sách an sinh xã hội.
Cơ sở của hệ thống BHXH là dựa trên sự đóng góp nhằm bảo vệ sức khỏe và
thu nhập, gồm các phương pháp thoát khỏi rủi ro và đóng góp tài chính vào quỹ
BHXH. BHXH là nhu cầu tất yếu của người lao động, được ra đời và phát triển

cùng với sự phát triển của xã hội.
Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa
thống nhất về BHXH và BHXH được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau.
Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng
nguồn đóng góp của mình, đóng góp của người sử dụng lao động (nếu có) và được
sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo
hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc người
lao động bị chết.

(Võ Thành Tâm,2013)

Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính
giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta thể hiện
tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả “ mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người”. Làm sao để cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là một
mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm.

5


Theo Điều 3 Luật Bảo hiểm số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006: “Bảo hiểm
xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm
xã hội”
Từ những cách tiếp cận trên, chúng ta có thể khái quát về Bảo hiểm xã hội
như sau: Bảo hiểm xã hội là sự chia sẻ giá trị vật chất xã hội, là sự bảo vệ của xã hội
bằng cách đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi

họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động,
mất việc làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình
thành bởi các bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp mà việc sử dụng quỹ đó cung
cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động góp
phần đảm bảo an sinh xã hội.
2.1.1.2 Sự cần thiết khách quan của BHXH và phân loại BHXH
a) Sự cần thiết khách quan của BHXH
Theo giáo trình BHXH năm 2013 của tác giả Võ Thành Tâm
Lao động là hoạt động thường xuyên của con người để tạo ra của cải vật chất, để
lao động được con người cần có sức khoẻ và một khả năng lao động nhất định. Thế
nhưng trong cuộc sống không phải người lao động nào cũng có thể trạng tốt như nhau
và có may mắn như nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ lao động của mình và tạo ra cho
mình một cuộc sống sung túc và ấm no. Hơn nữa trong cuộc sống luôn thường trực
những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm
do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như
các tác nhân xã hội khác.
Khi chẳng may con người rơi vào những trường hợp đó, nhu cầu thiết yếu
không những không mất đi. Trái lại, còn gia tăng thêm. Do vậy, muốn tồn tại
con người phải tìm những biện pháp để vượt lên trên hoàn cảnh và khắc phục
những khó khăn. Để vượt qua những lúc khốn khó đó thì ngoài sự nỗ lực của
bản thân và gia đình, người lao động cần được sự hỗ trợ của cộng đồng tập thể
của các tổ chức cơ quan Nhà nước nước và xã hội. Sự hỗ trợ này không thể chỉ

6


bằng tinh thần là sự cảm thông, sự động viên thăm hỏi chung chung, mà còn
phải cụ thể hoá nó bằng hiện vật và nguồn vật chất cần thiết, nhằm nhanh
chóng phục hồi sức khoẻ, duy trì sức lao động xã hội góp phần làm giảm bớt
những khó khăn của bản thân và gia đình người lao động khi có những hẫng hụt

về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, mất việc làm, hoặc khó khăn khi về già… Lúc này, tất cả những
rủi ro đó đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của người lao
động, sự đối mặt với cuộc sống thật nan giải. Tình cảnh này đưa đến những
hành động tập thể phát huy truyền thống tương thân, tương ái vốn có từ trong
nhân dân, đồng thời cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nước từng bước can
thiệp để duy trì lực lượng nhân công cần thiết cho xã hội.
Sự mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ có nguồn gốc từ Chế độ Chiếm hữu
nô lệ, khi mà sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới xuất hiện. Sự mâu thuẫn này trải
qua nhiều thời kỳ và đi cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo thời gian trình
độ chuyên môn và nhận thức của người lao động về BHXH ngày càng được nâng
cao, cách chủ động khắc phục khi không may gặp phải rủi ro xảy ra ngày càng hoàn
thiện. Thế nhưng, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng
như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Đó
cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát
triển của đất nước.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên
trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết
phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và
quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan,
một trong những quyền lợi của con người
b) Phân loại BHXH
Căn cứ vào Luật bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2006, có thể phân bảo hiểm
xã hội thành hai loại:
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Là loại hình BHXH mà NLĐ và người SDLĐ bắt

7


buộc phải tham gia với mức đóng góp tối thiểu theo quy định của pháp luật.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Là loại hình bảo hiểm mà người lao động tự
nguyện tham gia với mức đóng góp, phương thức đóng góp do người lao động đăng
ký phù hợp với thu nhập của họ.
2.1.1.3. Bản chất của bảo hiểm xã hội
- Bản chất kinh tế của bảo hiểm xã hội
Bản chất kinh tế của bảo hiểm xã hội thể hiện ở chỗ chia sẻ giá trị vật chất
của người sử dụng lao động và người lao động, nhà nước, những thành viên trong
xã hội với nhau thông qua việc tạo lập một quỹ dự trữ nhằm đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp về mặt kinh tế cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro. Việc đóng góp
nhằm tạo lập quỹ dự trữ phải đảm bảo không làm ảnh hưởng quá lớn đến thu nhập
của người lao động và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. BHXH
cũng là một kênh huy động nguồn lực tài chính cho nền kinh tế quốc gia.
- Bản chất xã hội của bảo hiểm xã hội
Bản chất xã hội của bảo hiểm xã hội thể hiện ở chỗ nó đảm bảo an sinh xã
hội trong hiện tại cũng như tương lai, thể hiện tinh thần tương trợ lẫn nhau giữa các
đối tượng liên quan đến quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là một dạng thức của
văn hóa và văn minh xã hội, góp phần làm tăng chỉ số hạnh phúc của người dân
trong xã hội khi họ được bảo đảm rằng khi về già hoặc khi gặp rủi ro sẽ được bảo vệ
về mặt tài chính.
Do tính an sinh xã hội nên BHXH đã trở thành một trong những quyền con
người và được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thừa nhận và ghi vảo tuyên ngôn
nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên
của xã hội đều có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nhu cầu cho nhân cách và sự tự do
phát triển của con người”. (Tuyên ngôn Nhân quyền, 1948)
2.1.1.4 Vai trò của BHXH
BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình
trên nhiều phương diện khác nhau trong thực tế cuộc sống cũng như trong phát triển

8



kinh tế. Có thể khái quát vai trò của BHXH trên các mặt sau:
Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia
BHXH, những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Nhờ có sự thay
thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được
những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục
quá trình hoạt động bình thường.
Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế xã
hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt
chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với NLĐ,
quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho NLĐ nhanh ổn định cuộc sống và sản
xuất… Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế xã hội.
Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người
sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước
đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho:
- Người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất.
- Người sử dụng lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao
động được hưởng các chế độ BHXH cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với
người lao động
- Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa điều hành hoạt động của quỹ BHXH,
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, cho mọi đối tượng thụ hưởng…
- Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước - người sử dụng
lao động - người lao động, góp phần ổn định nền kinh tế xã hội.
Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Qũy BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia
đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo
tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện chi trả các chế độ BHXH
cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy

sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo
hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của

9


những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu,
gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy,
BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo,
góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.
Năm là, BHXH là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, góp phần điều tiết các
chính sách, các chương trình an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Khi BHXH phát
triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao
đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm
giảm số đối tượng được hưởng các chính sách an sinh xã hội khác như ưu đãi xã
hội, cứu trợ xã hội, làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Sáu là, đối với Việt Nam ta BHXH trực tiếp thể hiện vai trò mục tiêu, lý
tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
đã và đang phấn đấu, xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. ( Võ Thành Tâm, 2013).
2.1.1.5. Chức năng của BHXH
Thứ nhất, "thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham
gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm”. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra, vì suy cho
cùng, người lao động khi đến độ tuổi hết tuổi lao động theo quy định của BHXH, họ
sẽ mất khả năng lao động. Trong trường hợp mất việc làm hoặc mất khả năng lao
động tạm thời dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ nhận
được trợ cấp từ BHXH, mức trợ cấp phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời
điểm, thời hạn được hưởng phải đúng theo quy định của pháp luật. Đây chính là
chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó sẽ quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ

chế hoạt động của BHXH.
Thứ hai, tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao
động tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có những người lao động mà
còn có những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ
BHXH" Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động tham gia khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập. Số lượng người bị giảm hoặc mất thu nhập chiếm một số lượng

10


nhỏ, còn số lượng người đóng góp vào quỹ BHXH lại lớn, do đó, theo quy luật số
đông bù số ít, BHXH đã thực hiện được việc phân phối lại thu nhập giữa những
người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe
mạnh, đang làm việc có thu nhập và những người ốm yếu, phải nghỉ việc bị mất
hoặc giảm thu nhập… Thực hiện chức năng này cũng có nghĩa là BHXH đã góp
phần thực hiện công bằng xã hội.
Thứ ba, BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái làm việc
nâng cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội”.
Khi khỏe mạnh, người lao động tham gia lao động và được người chủ trả công để
trang trải cuộc sống nhưng khi ốm yếu, thai sản hay khi tuổi già người lao động
không thể làm việc được thì họ đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị
mất. Vì vậy, cuộc sống của họ cũng như của gia đình họ vẫn được đảm bảo ổn
định. Vì thế, người lao động có thể yên tâm lao động, làm việc gắn bó với nơi
làm việc và với công việc, từ đó họ có thể tích cực lao động nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này đóng vai trò như một đòn bẩy kinh
tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao
năng suất lao động xã hội.
Thứ tư, "gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội”. Từ trước đến nay, trong thực tế lao động sản xuất, giữa
người lao động và người sử dụng lao động có tồn tại những mâu thuẫn nội tại,

khách quan về tiền lương, về thời gian lao động … nhưng khi BHXH xuất hiện nó
đã giải quyết và điều hòa được những mâu thuẫn đó. Người lao động cảm thấy mình
được bảo vệ, những rủi ro được giàn trải, cuộc sống gia đình được ổn định. Còn
người sử dụng lao động thì thấy mình có lợi vì các hoạt động sản xuất diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Từ đó, BHXH đã làm cho họ
hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau.
2.1.1.6 Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
a) Khái niệm quỹ BHXH bắt buộc
“Quỹ BHXH bắt buộc là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân
sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH bắt

11


buộc là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các
biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH bắt buộc chính là những người tham
gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước” ( Luật BHXH, 2006).
Về bản chất, hoạt động của Ngân sách Nhà nước và của quỹ BHXH đều
không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Việc thu-chi Ngân sách Nhà nước cũng
như của quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải tuân
theo nguyên tắc cân đối giữa thu và chi …
Một số điểm khác nhau cơ bản:
- Quan hệ phân phối của Ngân sách Nhà nước mang tính pháp lý cao và dựa
vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước, quan hệ phân phối này mang tính
hoàn trả và phản ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia. Trong khi đó, quan hệ phân
phối của quỹ BHXH có tính pháp lý thấp hơn và mối quan hệ phân phối này phản
ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH trước, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
- Ngân sách Nhà nước hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà

nước. BHXH hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế
hàng hóa với các mối quan hệ thuê mướn người lao động.
b) Đặc điểm của quỹ BHXH bắt buộc
Quỹ BHXH bắt buộc có các đặc điểm chủ yếu như sau:
Một là, mục đích của quỹ là đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao
động và gia đình của họ khi họ gặp phải các biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất
thu nhập. Nguyên tắc của quỹ là cân bằng thu – chi. Quỹ hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận.
Hai là, phân phối quỹ BHXH bắt buộc vừa mang tính chất hoàn trả vừa
mang tính không hoàn trả. Tính chất hoàn trả này thể hiện ở chỗ đối tượng tham gia
và đóng góp BHXH là người lao động và cũng chính họ là người được nhận trợ cấp,
được chi trả từ quỹ BHXH bắt buộc cho dù thời gian nhận trợ cấp, mức trợ cấp của
mỗi người sẽ khác nhau, tùy thuộc vào những biến cố mà họ gặp phải cũng như phụ
thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng góp của họ. Trong khi đó, tính không

12


hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp
nhiều lần với các chế độ trợ cấp khác nhau, lại có những người được hưởng trợ cấp
ít lần thậm chí không được hưởng. Do vậy, nên một số đối tượng được hưởng trợ
cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại.
Ba là, quá trình tích lũy để đảm bảo an toàn và bảo tồn giá trị về tài chính
đối với quỹ BHXH bắt buộc là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Có thể nói như
vậy là do chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về mặt thu nhập
cho người lao động, vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự đảm bảo an toàn về mặt
tài chính. Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của NLĐ và được tích lũy
trong suốt quá trình lao động. Nếu xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH
luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi nhất định để chi trả trong tương lai, lượng tiền
này có thể biến động tăng hoặc biến động giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Vì vậy,

để quỹ có thể tồn tại và phát triển được thì việc bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ
BHXH đã trở thành một yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động
của quỹ BHXH .
Bốn là, quỹ BHXH bắt buộc là hạt nhân, là nội dung vật chất chính của tài
chính BHXH, nó cũng là khâu tài chính trung gian cùng với Ngân sách Nhà nước và
tài chính doanh nghiệp để hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên,
mỗi khâu tài chính sẽ gắn với một chủ thể nhất định và việc tạo lập, sử dụng lại gắn
với những mục đích riêng của từng khâu nên trong quản lý và sử dụng chúng luôn
độc lập với nhau. Tuy vậy, Ngân sách Nhà nước, tài chính DN, tài chính BHXH lại
có mối quan hệ hữu cơ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
Năm là, sự hình thành, tồn tại và phát triển quỹ BHXH bắt buộc phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và phụ thuộc và điều kiện
lịch sử trong từng thời kì nhất định của đất nước. Một đất nước có nền kinh tế – xã
hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH và nhu
cầu thỏa mãn về BHXH của người lao động sẽ được nâng cao hơn. Đồng thời khi
đó, NLĐ và người SDLĐ sẽ có thu nhập cao hơn, do vậy, họ càng có điều kiện để
tham gia và đóng góp vào quỹ BHXH.

13


c) Nguồn hình thành quỹ BHXH bắt buộc
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
- Người lao động đóng góp.
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ đối với
người lao động dưới các hình thức:
+ Bù thiếu
+Tài trợ hoàn toàn cho một hoặc một vài chế độ như đối tượng chính sách,
bảo trợ xã hội, người nghèo…

+ Nhà nước cũng đóng góp nhất định cho quỹ với tư cách là người sử dụng
lao động đối với cán bộ công chức, viên chức.
- Thu từ nộp phạt do chậm nộp BHXH của doanh nghiệp.
- Thu từ tài trợ, viện trợ (nếu có)
- Thu từ lãi đầu tư phát triển quỹ
- Thu khác (nếu có)
Quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau:
- Quỹ ốm đau và thai sản: Do người sử dụng lao động đóng góp bằng 3% quỹ
tiền lương tại thời điểm nghị định này có hiệu lực.
- Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Do người sử dụng lao động
đóng góp bằng 1% quỹ tiền lương tại thời điểm nghị định này có hiệu lực.
- Quỹ hưu trí và tử tuất: Được hình thành từ đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và nguồn kinh phí được Nhà nước chuyển từ quỹ bảo hiểm
xã hội đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng
01 năm 1995.
- Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư phát triển quỹ (cho các ngân hàng thương
mại quốc doanh, ngân hàng Đầu tư phát triển, ngân hàng chính sách vay, đầu tư vào
các dự án trọng điểm, mua công trái...)
- Hỗ trợ của Nhà nước
- Các nguồn thu nhập khác
(Nguồn: Nghị định 152,2006)

14


2.1.1.7 Quản lý thu quỹ BHXH bắt buộc
Quỹ BHXH bắt buộc hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một
công quỹ độc lập với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các
chế độ BHXH cho NLĐ. Vì thế công tác thu BHXH bắt buộc ngày càng trở thành
khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính

sách BHXH.
Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH bắt buộc có
vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách
BHXH: Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập
quỹ BHXH bắt buộc. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia
BHXH bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Chính vì tầm quan trọng của công tác thu BHXH bắt buộc như vậy nên bên
cạnh việc thu quỹ BHXH bắt buộc chúng ta còn cần các biện pháp để quản lý thu
quỹ BHXH bắt buộc thật hiệu quả. Cụ thể là:
- Quản lý tốt đối tượng tham gia.
Việc xác định đối tượng tham gia BHXH là một trong những nhiệm vụ lớn và
quan trọng nhất của công tác thu BHXH.Trên cơ sở nhiệm vụ của công tác thu là
phải thu đúng, thu đủ, thu đúng đối tượng và rõ ràng minh bạch nhằm đảm bảo tính
công bằng và quyền lợi giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên việc quản lý
đối tượng tham gia BHXH (bao gồm cả người sử dụng lao động và người lao động)
là việc rất phức tạp và khó khăn. Để thực hiện tốt công tác này cần thực hiện phân
cấp quản lý, phân công từng cán bộ theo dõi, quản lý, đôn đốc thu BHXH đến từng
đơn vị tham gia BHXH. Việc này giúp cho công tác thu BHXH được dễ dàng hơn,
tránh hiện tượng thu thiếu, thu trùng.
Tham gia BHXH là nhiệm vụ, nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động
nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ. Việc đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc của
các bên tham gia BHXH bắt buộc là tất yếu vì nguyên tắc có đóng có hưởng. Vậy
thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH bắt buộc là nguồn nguồn thu chủ
yếu quan trọng nhất cho quỹ BHXH bắt buộc ở hầu hết các quốc gia.

15


- Quản lý quỹ lương đóng BHXH bắt buộc
Tiền lương, tiền công do Nhà nước quy định: Người lao động thuộc đối

tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng
BHXH bắt buộc là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các phụ cấp
chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền
lương này tính trên mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Tiền lương, tiền công do đơn vị quyết định: Người lao động thực hiện chế độ
tiền lương, tiền công do đơn vị quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH bắt buộc là mức tiền lương, tiền công ghi trên hợp đồng lao động (HĐLĐ).
Người lao động có tiền lương, tiền công tháng ghi trên HĐLĐ bằng ngoại tệ thì tiền
lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được tính bằng đồng Việt Nam trên cơ
sở tiền lương, tiền công bằng ngoại tệ được chuyển đổi bằng Đồng Việt Nam theo
tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước công bố tại thời điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm và ngày 01
tháng 07 cho 6 tháng cuối năm.
Trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định của Nhà nước về
chế độ tiền lương và căn cứ vào quyết định tăng lương của cấp có thẩm quyền để
thu BHXH đúng quy định. Do đó cần phải theo dõi, ghi chép đầy đủ mức đóng
BHXH của từng người, từng đơn vị.
- Quản lý tiền thu BHXH bắt buộc
+Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung
quản lý, điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam.
+Việc tham gia BHXH của người lao động, người sử dụng lao động đảm bảo
công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh tế. Các đơn vị tham gia
BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng BHXH và số tiền đóng
theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát
của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị-xã hội. Tính công bằng được thể
hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau.
Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của

16



Nhà nước và sử dụng nguồn thu đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích
cộng đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần
được đầu tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu
BHXH về mặt giá trị do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý
nghiêm ngặt về thu BHXH để tránh lạm dụng, thất thoát; Đồng thời nghiên cứu các
lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng
nguồn thu.
Để thực hiện các BHXH các tỉnh, quận được mở tài khoản chuyên thu ở hệ
thống ngân hàng và kho bạc Nhà nước. BHXH tỉnh và BHXH quận mở tài khoản
này chỉ được sử dụng để thu tiền nộp BHXH ở khu vực mình quản lý, không
được sử dụng tiền thu BHXH vào bất cứ mục đích gì khác. Định kỳ, BHXH tỉnh,
quận sẽ chuyển số tiền thu được lên cấp trên, từ đó tiền thu BHXH được tập
trung ở cơ quan cao nhất là BHXH Việt Nam.
- Quản lý thống nhất trên nguyên tắc thu BHXH bắt buộc hiện hành
+ Thu đúng: Là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và
đúng thời gian quy định: Mọi người lao động khi có HĐLĐ hoặc giao kết lao động
theo quy định, được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc
xác định đúng đối tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của
người lao động là cơ sở quan trọng để đảm bảo thu đúng; Việc thu đúng còn phụ
thuộc vào tính chất hoạt động của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối
tượng, mức thu, phương thức thu.
- Thu đủ: Là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền
phải đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động.
- Thu kịp thời: Là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền
công, tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH.
Chế độ BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội
từng thời kỳ, ở mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của
người sử dụng lao động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền

thu, không bỏ sót lao động tham gia BHXH

17


2.1.2 Một số vấn đề về quản lý đối tượng BHXH bắt buộc
2.1.2.1. Phân biệt đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH
Khi nói đến đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất,
thường có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị
giảm hoặc bị mất đi do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu. Chính vì vậy, đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những NLĐ tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng
này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Đối tượng được BHXH trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có
người sử dụng lao động. Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH bao gồm người
lao động tham gia BHXH khi gặp các rủi ro, và thân nhân trong gia đình như bố,
mẹ, con, vợ (chồng)…
Như vậy, người lao động vừa là đối tượng tham gia vừa là đối tượng được
hưởng quyền lợi BHXH trong quan hệ BHXH.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng
không vượt qua khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa bình đẳng giữa
tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động
còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước.
Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo

hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp
của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng
quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ
ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.

18


2.1.2.2 Quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Quản lý đối tượng tham gia BHXH là sự tác động có kế hoạch, có tổ chức
của cơ quan BHXH đối với quá trình tham gia BHXH của các đối tượng thông qua
việc quản lý danh sách tham gia; hồ sơ tham gia; sổ BHXH; mức lương; tổng quỹ
lương, mức đóng góp vào quỹ BHXH, nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các
đối tượng tham gia theo luật định.
a) Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Tham gia BHXH là nhiệm vụ, nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động
nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ. Việc đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc của
các bên tham gia BHXH bắt buộc là tất yếu vì nguyên tắc có đóng có hưởng. Vậy
thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH bắt buộc là nguồn nguồn thu chủ
yếu quan trọng nhất cho quỹ BHXH bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. Trên cơ sở
nhiệm vụ của công tác thu là phải thu đúng, thu đủ, thu đúng đối tượng và rõ ràng
minh bạch nhằm đảm bảo tính công bằng và quyền lợi giữa những người tham gia
BHXH. Tuy nhiên việc quản lý đối tượng tham gia BHXH (bao gồm cả người sử
dụng lao động và NLĐ) là việc rất phức tạp và khó khăn. Để thực hiện tốt công tác
này cần thực hiện phân cấp quản lý, phân công từng cán bộ theo dõi, quản lý, đôn
đốc thu BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH. Việc này giúp cho công tác thu
BHXH được dễ dàng hơn, tránh hiện tượng thu thiếu, thu trùng.
Tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 quy định
đối tượng áp dụng (tham gia BHXH bắt buộc) bao gồm:

- Người lao động tham gia BHXH bắt buộc: là công dân Việt Nam, bao gồm:
+ Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng
lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
+ Cán bộ, công chức, viên chức;
+ Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm
công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
+ Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn;

19


×