Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện kinh môn, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.54 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

PHẠM VĂN HÙNG

QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI CỤC
THUẾ HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

PHẠM VĂN HÙNG


QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI CỤC
THUẾ HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ

: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Hùng

ii


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình

của các cá nhân, tập thể để tôi có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Trước tiên, cho phép tôi xin trân trọng cảm ơn thầy cô giáo, cán bộ của Học
viện Nông nghiệp Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức
quý báu và tạo điều kiện học tập cho tôi trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Hữu Ảnh,
Trưởng khoa Kế toán & QTKD, đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, chỉ bảo tận tình
để tôi có thể hoàn thành đề tài của mình.
Trong quá trình thu thập thông tin, tôi còn được Ban lãnh đạo và cán bộ công
chức của Chi cục Thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương tạo điều kiện cũng như
giúp đỡ nhiệt tình. Vì vậy, tôi rất mong được gửi lời cảm ơn chân thành của mình
tới Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp của tôi.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan, khách quan, luận văn
nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự
thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Phạm Văn Hùng

iii

năm 2015


MỤC LỤC
Trang

ii

Lời cam đoan
Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục chữ viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục các sơ đồ

ix

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

1


1.2. Mục tiêu nghiên cứu

2

1.2.1. Mục tiêu chung

2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

2

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

2

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

3

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

4

2.1. Lý luận chung về thuế giá trị gia tăng


4

2.1.1. Sự ra đời và phát triển của thuế giá trị gia tăng

4

2.1.2. Khái niệm về thuế giá trị gia tăng

4

2.1.3. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng

5

2.1.4. Vai trò của thuế giá trị gia tăng

6

2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thu thế giá trị gia tăng

7

2.2. Đặc điểm, vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

10

2.2.1. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay

10


2.2.2. Vai trò của kinh tế ngoai quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta

12

2.3. Quản lý thu thuế giá trị gia tăng của cơ quan thuế

14

2.3.1. Mục tiêu, nguyên tắc quản lý thu thuế giá trị gia tăng

14

2.3.2. Nội dung của công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng

17

iv


2.4. Cơ sở thực tiễn

24

2.4.1. Bài học kinh nghiệm của một số địa phương trong nước

24

2.4.2. Bài học rút ra trong công tác quản lý thuế giá trị gia tăng đối với Chi
cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương


26

3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

28

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện kinh môn, tỉnh hải dương

28

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

28

3.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội

30

3.2. Đặc điểm của chi cục thuế huyện kinh môn, tỉnh Hải Dương

32

3.2.1. Chức năng, nhiệm vụ Chi cục thuế huyện Kinh Môn

32

3.2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy

34


3.2.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức thuế

35

3.2.4. Tình hình thu thuế ở Chi cục thuế huyện Kinh Môn giai đoạn 2012 2014

36

3.3. Phương pháp nghiên cứu

37

3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu

37

3.3.2. Phương pháp phân tích

38

3.3.3. Chỉ tiêu phân tích

39

4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

41

4.1. Thực trạng công tác quản lý thuế giá trị gia tăng tại các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh huyện kinh môn, tỉnh Hải Dương

41

4.1.1. Công tác quản lý người nộp thuế

41

4.1.2. Quản lý căn cứ tính thuế, kê khai thuế giá trị gia tăng

47

4.1.3. Quản lý thu nộp thuế và xử lý nợ thuế giá trị gia tăng

53

4.1.4. Quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng

56

4.1.5. Kiểm tra và thanh tra thuế

57

4.1.6. Tổng hợp ý kiến của doanh nghiệp điều tra về quản lý thuế giá trị gia
tăng tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

61

4.2. Đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại chi cục

thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

v

65


4.2.1. Những kết quả đạt được

65

4.2.2. Những hạn chế

66

4.2.3. Nguyên nhân

68

4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

70

4.3.1. Phương hướng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh

70

4.3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý quản lý thuế giá trị gia tăng tại

Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

73

5. KẾT LUẬN

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC

82

vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Có nghĩa là

CQT

Cơ quan thuế

CTCP


Công ty cổ phần

DN

Doanh nghiệp

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

GTGT

Giá trị gia tăng

HTKK

Hộ trợ khê khai

HTX

Hợp tác xã

NNT

Người nộp thuế

NQD

Ngoài quốc doanh


NSNN

Ngân sách nhà nước

PP

Phương pháp

QL

Quản lý

QLT

Quản lý thuế

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

SXKD


Sản xuất kinh doanh

UBND

Ủy ban nhân dân

XDCB

Xây dựng cơ bản

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

vii


DANH MỤC BẢNG
Số bảng
3.1

Tên bảng

Trang

Giá trị sản xuất của huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương qua 3 năm từ
2012 -2014

3.2


30

Trình độ chuyên môn của các cán bộ, công chức Chi cục thuế huyện
Kinh Môn

3.3

36

Kết quả thu ngân sách nhà nước của chi cục thuế Kinh Môn giai đoạn
2012-2014

4.1

37

Quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh về số lượng, loại hình doanh
nghiệp và tình hình hoạt động giai đoạn 2012 - 2014

4.2

43

Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo ngành nghề kinh doanh
trên địa bàn huyện Kinh Môn năm 2012 - 2014

45

4.3


Quản lý hộ kinh doanh theo ngành nghề kinh doanh

45

4.4

Quy mô kinh doanh theo bậc thuế môn bài của doanh nghiệp ngoài
quốc doanh trên địa bàn huyện các năm từ 2012-2014

4.5.

Tổng hợp doanh thu kê khai thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh từ năm 2012 -2014

4.6.

53

Tình hình nợ đọng thuế giá trị gia tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ở Chi cục thuế Kinh Môn năm 2012-2014

4.9.

51

Tình hình khai thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh ở huyện Kinh Môn các năm 2012-2014

4.8.


50

Tình hình và kết quả ấn định doanh thu, điều chỉnh doanh thu tính
thuế giá trị gia tăng đối với hộ kinh doanh

4.7.

47

55

Các hình thức cưỡng chế thuế đã thực hiện, kết quả thu nợ thuế qua
cưỡng chế ở Chi cục thuế Kinh Môn giai đoạn 2012-2014

56

4.10. Tình hình quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Chi cục thuế Kinh Môn
4.11. Số đơn vị được kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế từ năm 2012-2014

57
60

4.12. Ý kiến của doanh nghiệp về công tác quản lý thuế giá trị gia tăng tại
Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

62

4.13. Tổng hợp đánh giá của doanh nghiệp về chính sách thuế và tình hình

quản lý thuế giá trị gia tăng

64

viii


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số sơ đồ
3.1

Tên sơ đồ

Hệ thống bộ máy quản lý thuế huyện Kinh Môn

ix

Trang
35


1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước (NSNN), đồng thời cũng
là một công cụ chính sách để Nhà nước thực hiện việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền
kinh tế - xã hội, đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững và công bằng xã hội. Do
vậy, việc xây dựng, ban hành một hệ thống thuế tối ưu cùng với việc thực thi hiệu
quả hệ thống thuế đó có vai trò to lớn, quyết định đến việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước thông qua thuế như đảm bảo chi tiêu công, đảm bảo an ninh
trật tự xã hội, quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội...

Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống thuế được quy định thành nhiều sắc thuế, trong
đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) là một trong những sắc thuế đóng vai trò quan trọng
nhất trong việc tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế GTGT có phạm vi áp dụng rộng, cơ
sở đánh thuế ổn định nên khả năng mang lại nguồn thu lớn, ổn định của thuế GTGT
cho NSNN là rất lớn. Chính vì vậy, để ổn định nguồn thu, đảm bảo sự ổn định và
phát triển đất nước, công tác quản lý thu thuế GTGT ở Việt Nam trong điều kiện
hiện nay cần phải được tăng cường nhiều hơn nữa.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) ở nước ta là bộ phận có số lượng
chủ thể kinh doanh, lực lượng lao động tham gia lớn nhất, có xu hướng tăng nhanh
qua các năm và có đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế -xã hội cũng như
nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có ý thức chấp hành pháp
luật nói chung, pháp luật thuế nói riêng còn hạn chế nên công tác quản lý thu thuế
GTGT đối với khu vực này còn rất nhiều khó khăn mặc dù công tác quản lý thuế
thường xuyên được cải tiến, đổi mới.
Thời gian qua, trước sự phát triển nhanh chóng, đa dạng của khu vực kinh tế
NQD trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, công tác quản lý thu thuế
GTGT của cơ quan thuế huyện Kinh Môn với khu vực kinh tế NQD đã có nhiều
chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao ý thức chấp hành của người nộp thuế, hạn
chế thất thu NSNN. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số bất cập như: quản lý
người nộp thuế chưa đầy đủ, chưa sát, chưa đúng; việc thực hiện hóa đơn, chứng từ,

1


quản lý các căn cứ tính thuế, kê khai thuế chưa đúng với thực tế kinh doanh; tình
trạng dây dưa nợ đọng còn nhiều... và chưa đáp ứng được một cách đầy đủ các mục
tiêu, yêu cầu trong quản lý thuế GTGT. Thực tế đó cho thấy, việc đánh giá toàn
diện thực trạng hoạt động quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế NQD tại
huyện Kinh Môn cũng nằm trong thực trạng chung đó. Do đó, công tác quản lý thu
thuế GTGT đối với khu vực kinh tế NQD là vấn đề hết sức cấp thiết nên đề tài

“Quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi
cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương” được lựa chọn nghiên cứu nhằm giải
quyết các thực trạng trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý thu thuế GTGT đối khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế GTGT tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh
Hải Dương.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thuế GTGT và quản lý thu thuế GTGT đối với
khu vực kinh tế NQD.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực
kinh tế NQD của Chi cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế GTGT đối
với khu vực kinh tế NQD trên địa bàn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương trong thời
gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề có liên quan đến công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi Cục thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương,
bao gồm: công tác quản lý đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế GTGT, quản lý
kê khai, nộp thuế GTGT, công tác hoàn thuế GTGT và công tác thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm về thuế GTGT.

2


1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc

quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD tại Chi cục thuế huyện Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương do Chi cục thuế huyện Kinh Môn quản lý thu.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại Chi cục thuế
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài thực hiện dựa vào thu thập tài liệu có liên quan
đến nội dung nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2014 và giải pháp đến năm 2020.

3


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Lý luận chung về thuế giá trị gia tăng
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của thuế giá trị gia tăng
Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT tiếng anh là Value Added Tax (VAT),
tiếng pháp là Taxe sur la Value Ajoutee (TVA) là loại thuế tính trên phần giá trị
tăng thêm của hàng hoá, dịch phát sinh trong quá trình từ sản xuất đến tiêu
dùng. Thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành
nguồn thu quan trọng của nhiều quốc gia, đến nay đã có trên trăm nước áp dụng
thuế GTGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mỹ la tinh, các nước trong khối
cộng đồng châu Âu (EC) và một số nước Châu Á (Trương Quang Hùng, 2006).
Sự phổ biến của việc áp dụng thuế GTGT trên thế giới là nhờ vào tính ưu
việt của loại thuế này và việc vận dụng vào Việt Nam là một đòi hỏi mang tính tất
yếu khách quan. Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 10 đã nêu ra một số hướng xây dựng
một hình thức GTGT phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và thông lệ quốc
tế. Thuế GTGT ra đời ở Việt Nam là nhằm thay thuế doanh thu vốn đã phổ biến
song trong điều kiện mới của đất nước ta lại bộc quá nhiều nhược điểm. Đây là một
sắc thuế rất mới đối với nước ta nên sự hiểu biết trong nhân dân còn rất nhiều hạn
chế dẫn tới nhận khác nhau về bản chất của thuế GTGT.
Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật
là: thuế thu chồng chéo, trùng lặp... đến năm 1954 Chính phủ Pháp đã ban hành loại

thuế mới với tên gọi là thuế GTGT. Quá trình thống nhất Châu Âu những
năm 1950 đã có tác dụng thuận lợi để VAT được triển khai nhanh chóng ở các nước
khác. Việt Nam chính thức áp dụng thuế GTGT từ năm 1999.
2.1.2. Khái niệm về thuế giá trị gia tăng
Thuế là khoản thu nhập được chuyển giao bắt buộc từ các tổ chức và cá nhân
trong xã hội cho Nhà nước với mức độ và thời hạn do pháp Luật quy định, nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng.

4


Thuế GTGT là sắc thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
phát sinh qua các giai đoạn luận chuyển từ sản xuất, kinh doanh đến tiêu dùng.
GTGT là khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ khi qua mỗi giai đoạn
của quá trình sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Phần giá trị tăng thêm ở mỗi giai
đoạn bao gồm: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức cổ phần, tiền lãi vay ngân
hàng phải trả và các khoản chi phí phát sinh. Nói cách khác, GTGT là phần chênh
lệch giữa giá đầu ra với giá đầu vào do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình thực hiện
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (Hoàng Đình Cơ, 2011).
2.1.3. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
- Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào thu nhập của người tiêu dùng
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thông qua hành vi mua hàng hoá, dịch vụ đó (vì
vậy thuế GTGT là một loại thuế tiêu dùng), là một yếu tố cấu thành trong giá cả
hàng hoá và dịch vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp,
hay nói cách khác giá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng mua bao gồm cả
thuế GTGT.
- Thuế GTGT là loại thuế gián thu nên nó cũng mang tính chất luỹ thoái, do đó
nó không đảm bảo được sự công bằng giữa những người nộp thuế. Tính chất luỹ
thoái so với thu nhập được thể hiện ở chỗ: Người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ là
người phải trả khoản thuế đó, nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu

thuế, người có thu nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua
một loại hàng hoá, dịch vụ. Như vậy khi so sánh tỷ suất thuế GTGT trên tổng thu
nhập thì người có thu nhập cao có tỷ suất thấp hơn so với người có thu nhập thấp
(Hoàng Đình Cơ, 2011).
- Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao. Tính trung lập biểu hiện ở
hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của
người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ
khoản thuế này vào NSNN. Do vậy thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí sản
xuất mà chỉ đơn thuần là một khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người
cung cấp hàng hoá dịch vụ.

5


+ Thứ hai, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia
quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số
thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.
2.1.4. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
- Thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của nền kinh tế (điều tiết gián
tiếp) thông qua điều tiết phần thu nhập của tổ chức, cá nhân được đưa ra tiêu dùng
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, qua đó điều tiết sản xuất, tiêu dùng, trên cơ sở
đó điều tiết nền kinh tế.
- Thuế GTGT là khoản thu quan trọng của NSNN. Do đối tượng điều chỉnh
của thuế GTGT là vô cùng rộng, chỉ có một số ít đối tượng không thuộc diện chịu
thuế đó là: sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi của nông dân tự sản xuất, tự bán ra, sản
phẩm muối, các dịch vụ không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận, các dịch vụ
công cộng, dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng… cho nên
thuế GTGT tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho NSNN.
Ở các nước trên thế giới, số thu từ thuế GTGT trong tổng số thu từ thuế chiếm

tỷ trọng tương đối lớn trong tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam, thuế GTGT hiện nay
chiếm tỷ trọng khoảng 20-23% trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.
- Thuế GTGT không trùng lắp nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá
sản xuất, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới.
- Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thông qua áp dụng thuế suất
0%, doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ không những không phải chịu thuế
GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được hoàn toàn bộ số thuế đầu vào đã thu ở khâu
trước nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo
điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
- Thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế
GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy doanh nghiệp hạch
toán đầy đủ doanh số chưa có thuế, thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào và thực
hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ, hạch toán kế toán.

6


Tóm lại: Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến; việc áp dụng thuế GTGT
khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu là “thuế chồng lên thuế”. Thuế GTGT đã
đem lại rất nhiều lợi ích cho quốc gia áp dụng nó thông qua việc khuyến khích sản
xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu cho NSNN.
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thu thế giá trị gia tăng
2.1.5.1. Hệ thống pháp luật về quản lý thuế và thuế giá trị gia tăng
Theo Phạm Đình Thi (2008). Pháp luật về quản lý thuế và thuế GTGT đóng
vai trò quyết định đến việc triển khai thực hiện công tác quản lý thu thuế GTGT bởi
đây chính là hành lang pháp lý để triển khai thực hiện các công tác quản lý thuế
được chuẩn mực, thống nhất trên phạm vi cả nước.
Để thuế GTGT phát huy được hiệu quả tích cực khi triển khai áp dụng đòi hỏi

các quy định trong pháp luật thuế GTGT phải chặt chẽ, đơn giản, rõ ràng khi áp
dụng, tránh việc quy định không rõ ràng, có tính chung chung dẫn đến hiểu sai hoặc
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau khi thực hiện. Đồng thời, thuế GTGT là sắc thuế
có phạm vi rất rộng, liên quan đến hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế - xã hội nên các quy định về quản lý thuế
GTGT phải rõ ràng để cơ quan thuế có thể thực hiện tốt công tác quản lý, đồng thời
người nộp thuế có thể tuân thủ được đầy đủ, kịp thời nhất pháp luật thuế GTGT.
Theo quy định của Luật quản lý thuế (2006) và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật quản lý thuế (2012) thì Việt Nam áp dụng cơ chế quản lý thuế là người
nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của số
liệu kê khai. Đây được coi là cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại, dựa trên ý thức
tuân thủ tự giác của người nộp thuế. Đồng thời, cơ quan quản lý thuế cũng tăng
cường các biện pháp theo dõi giám sát, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các
hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế, tránh gây thất thu cho NSNN.
Về thuế GTGT, từ năm 2009 đến hết năm 2013, thuế GTGT được thực hiện
theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008. Bắt đầu từ 01/01/2014,
Luật sửa đổi, bổ sung số 31/2013/QH13 ngày 19/06/2013 có hiệu lực thi hành,
trong đó có một số điểm thay đổi về phương pháp tính thuế GTGT.

7


Luật thuế GTGT quy định đối tượng chịu thuế giá trị GTGT là hàng hoá, dịch vụ
dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ
mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài) và có loại trừ 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ được
quy định chi tiết tại Điều 4, Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013.
Thuế GTGT được tính dựa trên hai căn cứ đó là giá tính thuế và thuế suất. Giá
tính thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ sản xuất, kinh doanh trong nước được
xác định theo nguyên tắc chung là giá chưa có thuế GTGT (đã có thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế bảo vệ môi trường nếu hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu các sắc thuế

này) và được xác định tùy theo từng trường hợp cụ thể đã được quy định trong các
văn bản pháp luật hiện hành. Thuế suất thuế GTGT được áp dụng thống nhất theo
loại hàng hóa, dịch vụ ở các khâu nhập khẩu, sản xuất, gia công hay kinh doanh
thương mại. Hiện hành các mức thuế suất GTGT bao gồm: 0%, 5%, 10%. Thuế
GTGT được xác định theo hai phương pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương
pháp trực tiếp. Pháp luật về thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam cũng quy định các
trường hợp được hoàn thuế GTGT.
2.1.5.2. Ý thức và hành vi của người nộp thuế giá trị gia tăng
Người nộp thuế là các chủ thể chính thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với Nhà
nước. Một khi người nộp thuế thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ thuế của mình, kê
khai đúng số thuế phải nộp, nộp thuế đúng thời hạn quy định thì hoạt động quản lý
thu thuế của cơ quan thuế sẽ được tiến hành thuận lợi, đảm bảo hiệu quả cao.
Ngược lại, khi người nộp thuế không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, cố
tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thuế hoặc có sự gian lận trong kê khai để giảm số
thuế phải nộp thì hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế sẽ gặp nhiều khó khăn,
đòi hỏi cần phải có sự cố gắng trong nội bộ ngành thuế và cả sự hỗ trợ, phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành khác để có thể quản lý được việc thực hiện nghĩa vụ của
người nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật (Đỗ Ngọc Huỳnh, 2006).
Do đó, ý thức tuân thủ pháp luật của người nộp thuế là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến phạm vi và nội dung hoạt động trong công tác quản lý thuế của
cơ quan thuế.

8


2.1.5.3. Năng lực hoạt động của cơ quan thuế và sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng có liên quan
Thực tế cho thấy, năng lực hoạt động của cơ quan thuế trong việc quản lý thu
thuế trước hết phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ thuế.
Với tính chất nghề nghiệp phải luôn tuân thủ theo các quy định của Nhà nước

về thuế nên đòi hỏi các cán bộ thuế phải nắm chắc, nắm vững các quy định về thuế
nói chung và thuế GTGT nói riêng. Chỉ khi nắm chắc, nắm vững thì mới có thể thực
hiện tốt được công tác quản lý thuế và có thể hướng dẫn, hỗ trợ dân khi dân có yêu
cầu. Nếu khi tiến hành thanh tra, kiểm tra hoặc tiến hành hỗ trợ cho người nộp thuế
là người nước ngoài mà các cán bộ thuế không biết ngoại ngữ thì không thể thực
hiện được công việc của mình. Ngoài ra, thái độ làm việc của các cán bộ thuế cũng
là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Do
đó, có thể nói trình độ, năng lực và thái độ làm việc của các cán bộ thuế có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng công việc cũng như hiệu quả của công tác quản lý
thuế (Nguyễn Thị Huệ, 2012).
Bên cạnh vấn đề chất lượng cán bộ thuế thì số lượng cán bộ thuế cũng là một
yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý thu thuế. Việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ thuế như thế nào là hợp lý để vừa đảm bảo thực hiện được các chức
năng quản lý thu thuế vừa đảm bảo xây dựng một bộ máy quản lý nhà nước không
mang tính cồng kềnh, được tinh giản đến mức hợp lý là vấn đề rất quan trọng.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng liên quan cũng là nhân tố có ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động quản lý thu thuế GTGT. Do thuế là công cụ quan
trọng để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội, hay nói cách khác, thuế là một
phạm trù kinh tế - chính trị tổng hợp nên thực hiện hoạt động quản lý thuế không
phải là công việc đơn phương của ngành thuế mà cần có sự phối hợp với các tổ
chức chính trị, các đoàn thể và cơ quan có liên quan của hệ thống chính trị để triển
khai đồng bộ việc thi hành chính sách thuế với các chính sách khác về quản lý kinh
tế - xã hội trên địa bàn.

9


2.2. Đặc điểm, vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh là loại hình kinh tế khá phong phú, bao gồm mọi
loại hình kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty Cổ phần,

DNTN... hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, kinh tế ngoài quốc
doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất
nước, thu hút lao động xã hội, tận dụng, khai thác tiềm năng của đất nước... Nhận
thức rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế theo hướng:
"kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN". Sự khẳng định này khiến cho kinh tế quốc
doanh không còn vị trí độc tôn như trước nữa, thay vào đó là chủ sở hữu tư nhân
được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh
tế Nhà nước (Đào Thị Phúc, 2012).
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị kinh doanh có tính chất tư hữu
(không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Xét về loại hình doanh nghiệp bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức
hợp tác xã (HTX).
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con đường
công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự khác nhau của các
thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh
chóng và tham gia ngày càng tích cực vào thị trường, làm tăng sự sôi động trong nền
kinh tế.
2.2.1. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho kinh tế ngoài
quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị
trường mọi thành phần kinh tế đều co quyền bình đẳng, chính điều này đã tạo nên sức
mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh nước ta có những đặc điểm sau:

10



2.2.1.1. Chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dễ thích ứng
Người quản lý thường là chủ sở hữu hoặc là người có vốn lớn nhất nên họ được
quyền đưa ra các quyết định. Cũng do quy mô hoạt động nhỏ nên họ được tự do hành
động, họ có khả năng tự quyết, nên họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận
lợi. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự thích ứng nhanh với sự thay đổi
của thị trường. Việc thâm nhập vào thị trường hàng hóa trong giai đoạn này, sẽ đem lại
cho doanh nghiệp thành công và khi sản phẩm bị thị trường từ chối thì doanh nghiệp dễ
dàng rút lui và lựa chọn mặt hàng kinh doanh khác trong phạm vi được phép sao cho
có lợi nhất phù hợp với khả năng của mình. Vi vậy đây là một thế mạnh để doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tham gia thị trường với các doanh nghiệp Nhà nước (Đào Thị
Phúc, 2012).
2.2.1.2. Cơ cấu quản lý linh hoạt
Các doanh nghiệp ngoai quốc doanh thường thích hợp với những cơ cấu tổ chức
đơn giản. Số lượng nhân viên ít và các nhân viên này thường phải đảm nhận công việc
theo kiểu đa năng. Phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa phải đảm nhận vai trò quản trị
(điều hành và chỉ huy nhân viên) vừa phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo (tìm kiếm và
quyết định cơ hội đầu tư). Mặt khác, vốn của thành phần kinh tế này là do những chủ
thể kinh doanh tình nguyện đóng góp, do các cổ đông đóng góp hay do liên doanh liên
kết... bằng tiền hoặc tài sản. Vì thế họ có toàn quyền quyết định ngành nghề kinh doanh
phù hợp với khả năng, trình độ nhu cầu của thị trường đối với loại hàng hóa mà họ sẽ
kinh doanh. Mặc dù quy mô hoạt động khá bé nhỏ, song đó lại là một lợi thế cho các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
(Đào Thị Phúc, 2012).
2.2.1.3. Chi phí gián tiếp thấp
Đặc điểm của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một người chủ và số nhân
viên làm việc không thường xuyên, giúp cho chi phí thấp. Chi phí gián tiếp thấp tạo lợi
thế cạnh tranh về giá của các sản phẩm cuối cùng. Chủ doanh nghiệp có tinh thần trách
nhiệm cao vì lợi ích của họ gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp. Cũng chính vì
vậy, họ đòi hỏi nhân viên lam việc nghiêm túc và hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí

nguồn lực vẫn thường gặp ở các doanh nghiệp quốc doanh. Do vậy khối luợng vốn để

11


hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ không lớn, hiệu quả và sử dụng vốn cao và thời gian
thu hồi vốn nhanh (Đào Thị Phúc, 2012).
Tuy nhiên, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có không ít những hạn chế
của nó.
- Khả năng tài chính còn nhỏ bé: Trong giai đoạn đầu, phần lớn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đều gặp phải vấn đề thiếu vốn. Các tổ chức tài chính thường e
ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp ngoai quốc doanh này vì họ chưa có quá trình
kinh doanh, chưa có uy tín và chưa thể tạo lập được khả năng trả nợ. Do vậy, cac doanh
nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn dựa vào nguồn vốn chính từ bạn bè, thu hút vốn qua
hinh thức mua bán chịu... Việc mở rộng doanh nghiệp luôn bị hạn hẹp về nguồn vốn.
- Trình độ công nghệ sản xuất còn ở mức thấp: Trình độ công nghệ là yếu tố
quyết định đến năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ hiện đại không
nhiều, chỉ có một số công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được
trang bị máy móc và dây truyền tiên tiến, còn lại sử dụng các công cụ thủ công,
thiếu đồng bộ.
- Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung đã làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, không tạo động lực thúc đẩy các thành
phần kinh tế nói chung và nền kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, phát triển (Đào Thị
Phúc, 2012).
2.2.2. Vai trò của kinh tế ngoai quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta
Trong cơ chế mới, khu vực kinh tế ngoai quốc doanh đã được phục hồi dần, tạo
điều kiện cho cac thành phần kinh tế có khả năng cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, kinh tế ngoài quốc doanh đã sớm thích nghi
với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế

và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế (Đào
Thị Phúc, 2012).
Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.

12


Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn đầu tư
không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá nhân, gia đình hay một số tổ chức,
cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương ứng nhiều lao động vì đây là nơi
cung cấp việc nhanh nhất, giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều so với doanh
nghiệp có quy mô lớn.
Trong những năm gần đây, cùng với số lao động được giải quyết việc làm bằng
vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, đã có khá nhiều lao động có thêm việc làm do các
đơn vị tư nhân bỏ vốn vào kinh doanh. Hàng năm có khoảng một triệu lao động có việc
làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực kinh tế này.
Thứ hai, kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh lanh mạnh, là động lực
phát triển của nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề sản xuất kinh doanh đều
do khu vực kinh tế quốc doanh đảm nhận. Sự phát triển của kinh tế ngoai quốc doanh
đã tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp Nhà nước, buộc các doanh nghiệp này phải đổi
mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế
thị trường. Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần
quan trọng hình thành và xác lập vị trí của chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu
của cơ chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thúc
đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước, cải tổ cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở
cửa hợp tác với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng thu ngân sách
Nhà nước.

Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Do vậy, để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng
phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát
triển là phần đóng góp to lớn cho ngân sách Nhà nước (khoảng 30%) thông qua thuế và
các khoản khác. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hòa thu nhập cũng
như đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Thứ tư, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một khối
lượng hàng hóa lớn, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

13


Bằng việc sản xuất hàng hóa, khu vực kinh tế ngoai quốc doanh đã góp phần to
lớn vào việc tạo ra sự phong phu về chủng loại hàng hóa, nâng cao chất lượng sản
phẩm, từng bước cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Do đo, cơ hội lựa chọn hàng
hóa và dịch vụ của người dân tăng lên và cac doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh để
có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhanh nhất. Để thắng lợi trong cạnh tranh, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi
phi để từ đó giảm giá thành.
Thứ năm, kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để ngân hàng huy động vốn,
góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển đặc
biệt là khu vực kinh tế tư nhân và cá thể. Kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh
chóng cả về quy mô lẫn chất lượng. Các nhà sản xuất đều mở tài khoản tiền gửi tại hệ
thống ngân hàng thương mại. Đây có thể coi là nguồn vốn rẻ và dồi dào cho việc huy
động vốn của ngân hàng thương mại nếu họ biết tổ chức tốt công tác thanh toán, tạo ra
nhiều dịch vụ hơn và thay đổi phong cách làm việc với khách hàng.
2.3. Quản lý thu thuế giá trị gia tăng của cơ quan thuế
2.3.1. Mục tiêu, nguyên tắc quản lý thu thuế giá trị gia tăng
2.3.1.1. Mục tiêu quản lý thu thuế giá trị gia tăng

Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện những
quy định trong Luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế vào NSNN
theo luật định. Quản lý thuế nói chung, quản lý thu thuế GTGT nói riêng có những
đặc điểm chính sau:
- Chủ thể thực thi các giải pháp thu thuế là các cơ quan thuế từ Trung ương
đến địa phương. Cơ quan thuế là cơ quan được Nhà nước giao trách nhiệm chính
trong việc tổ chức quản lý thu thuế. Tuy nhiên, để công tác quản lý thu thuế đạt hiệu
quả cao, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế và các cơ quan, ban
ngành chức năng có liên quan.
- Đối tượng chịu sự quản lý là các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân
có các hoạt động kinh tế thuộc diện điều chỉnh của Luật quản lý thuế và các Luật
thuế. Trong đó, trách nhiệm chính của các đối tượng này là hiểu và tuân thủ đầy đủ

14


các quy định của pháp luật thuế về đăng ký, kê khai, xác định nghĩa vụ thuế và nộp
thuế vào NSNN.
- Quản lý thuế được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp hành chính. Nội
dung của phương pháp hành chính trong quản lý thuế là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh, là sự thiết lập mối quan hệ giữa con người, giữa cơ quan thuế với các tổ
chức, cá nhân trong xã hội; giữa cơ quan thuế các cấp với nhau và với các cơ quan
Nhà nước khác, trong các quan hệ đó thì cơ quan Nhà nước cấp dưới phải phục tùng
mệnh lệnh của cấp trên theo thứ bậc hành chính, đối tượng bị quản lý (người nộp
thuế) phải chấp hành mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo
nguồn thu vào NSNN. Đồng thời, phương pháp hành chính trong quản lý thuế còn
thể hiện trong quy trình, thủ tục thu, nộp thuế, đó là trình tự các bước công việc phải
tiến hành và các giấy tờ, tài liệu cần thiết ghi nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của
người nộp thuế. Bên cạnh các mệnh lệnh hành chính đó, trong quản lý thuế còn có
các phương pháp về tuyên truyền, hỗ trợ, khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để

đạt được hiệu quả mong muốn (Nguyễn Thị Huệ, 2012).
Thuế GTGT là một sắc thuế rất quan trọng trong hệ thống thuế của nhiều quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Công tác quản lý thu thuế GTGT phải hướng tới đạt
được các mục tiêu cơ bản sau:
Một là, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các Luật thuế, trong đó có Luật thuế
GTGT, đảm bảo việc tuân thủ đầy đủ của người nộp thuế trong việc nộp đúng, nộp
đủ và nộp thuế kịp thời tiền thuế vào NSNN.
Hai là, đề cao ý thức tự giác chấp hành chính sách, pháp luật về thuế và tạo điều
kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế; xoá bỏ những thủ tục
không cần thiết gây phiền hà và tốn kém cho người nộp thuế.
Ba là, cải tiến thủ tục quản lý thuế, phân công, phân nhiệm rõ ràng, chuẩn hoá
dần công tác quản lý thuế nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý thuế, nâng cao chất lượng làm việc của đội ngũ cán bộ thuế.
2.3.1.2. Nguyên tắc quản lý thu thuế giá trị gia tăng
Quản lý thuế nói chung, quản lý thu thuế GTGT nói riêng phải tuân thủ đầy đủ
các nguyên tắc sau đây:

15


×