Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Luận văn ứng dụng hóa học trong thực tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LÊ QUỲNH TRANG

SỬ DỤNG BÀI TẬP HÓA HỌC PHẦN PHI KIM – CHƯƠNG TRÌNH
HÓA HỌC 10 NÂNG CAO NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN
DỤNG TRI THỨC VÀO THỰC TIỄN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM HÓA HỌC

1


Hà Nội - 2016

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

SỬ DỤNG BÀI TẬP HÓA HỌC PHẦN PHI KIM – CHƯƠNG TRÌNH
HÓA HỌC 10 NÂNG CAO NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN
DỤNG TRI THỨC VÀO THỰC TIỄN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM HÓA HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS.NGUYỄN THỊ BÍCH LIÊN
Sinh viên thực hiện khóa luận: LÊ QUỲNH TRANG

3


Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô Trường Đại
học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã luôn tạo mọi điều kiện và giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô thuộc Khoa các khoa học giáo dục
– Trường Đại học Giáo dục, đặc biệt là cô giáo TS. Nguyễn Thị Bích Liên đã
luôn tận tình hướng dẫn, chỉ dạy tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, thầy cô giáo tổ Hóa học
và các tôi HS trường THPT Chuyên, trường THPT Tân Trào – tỉnh Tuyên Quang
đã giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành việc khảo sát về thực trạng sử dụng
BTHH trong việc phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS
THPT.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những
người đã luôn ở bên động viên để tôi có thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình làm khóa luận tốt nghiệp do trình độ lý luận cũng như
kinh nghiệm còn hạn chế nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô để tôi có thêm được nhiều
kinh nghiệm và cũng là trang bị thêm kiến thức cho bản thân sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016

Lê Quỳnh Trang

4


DANH MỤC VIẾT TẮT
BTHH

BTHH

HS

Học sinh

GV

Giáo viên

THPT

THPT

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển không ngừng của xã hội, của công nghệ thông tin và các thành tựu
khoa học đã làm thay đổi những quan niệm về giáo dục trong thời đại hiện nay. Giáo
dục trong thời kì đổi mới không chỉ có chức năng truyền tải những kinh nghiệm lịch sử,
kinh nghiệm xã hội của thế hệ đi trước cho thế hệ sau mà còn hướng tới mục đích phát
triển năng lực, tư duy cho người học. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm

2011 – 2020 của Đảng ta cũng đã xác định: Trong 10 năm tới, đến năm 2020, chúng ta
phải tạo được nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện được điều đó thì ba đột phá trong việc thực hiện chương trình hành động
quốc gia đó là: thể chế, hạ tầng kĩ thuật và chất lượng nhân lực. Cả ba đột phá đó đều
rất cần nhân tài, do đó phải nỗ lực đầu tư cho Giáo dục và đào tạo. Đi cùng với sự đầu
tư này, xã hội đặt ra yêu cầu cho ngành Giáo dục và đào tạo là phải đào tạo, bồi dưỡng
ra lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Lực lượng lao động này
không chỉ có trình độ mà còn có khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật
vào sản xuất, những người gắn lý thuyết với thực tiễn, sáng tạo và có khả năng thích
ứng với nghề nghiệp….
Đứng trước yêu cầu đó, cùng với việc đổi mới chương trình dạy học, sách giáo
khoa thì việc đổi mới phương pháp dạy học cũng đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ và
nhận được sự quan tâm lớn từ Đảng và nhà nước. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy
học là nhiệm vụ then chốt để có thể đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục.
Việc dạy học suy cho cùng là trang bị cho HS hệ thống kiến thức, kĩ năng riêng
cho bản thân mỗi người, để các tôi có thể thích ứng với những hoàn cảnh trong tương
lai, để hình thành cơ sở kiến thức cũng như kinh nghiệm nền tảng cho cuộc sống và
nghề nghiệp của mỗi tôi sau này.Theo Unessco thì bốn trụ cột của việc học là: học để
biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để chung sống. Như vậy thì thay
6


cho việc dạy một lượng lớn kiến thức lý thuyết thì việc quan trọng hơn là phải dạy cho
HS kĩ năng và cách thực hành, vận dụng những lý thuyết đó vào thực tiễn, kĩ năng tổng
hợp các kiến thức đo để giải quyết các tình huống hay những vấn đề xuất hiện trong
cuộc sống, những khó khăn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nói cách khác là hãy dạy cho
HS kĩ năng sử dụng, áp dụng những tri thức đã học được vào việc giải quyết những vấn
đề, tình huống trong cuộc sống, để tri thức đó trở nên có ý nghĩa.
Hóa học là một môn khoa học nhiều ứng dụng, có vai trò quan trọng trong đời
sống. Hóa học là môn học then chốt để trang bị cho HS những kiến thức hóa học cơ

bản để làm nền tảng cho các bậc học tiếp theo cũng là hành trang để các tôi bước vào
cuộc sống. Hóa học hình thành cho HS kĩ năng thao tác với hóa chất, dụng cụ thí
nghiệm, kĩ năng quan sát, giải thích các hiện tượng hóa học, hình thành phương pháp
nghiên cứu khoa học, thế giới quan khoa học, đạo đức, phẩm chất của người lao động
mới….
Tuy nhiên một trong những hạn chế, khó khăn của bộ môn Hóa học hiện nay
đang gặp phải đó là tài liệu còn thiếu, chưa cập nhật và liên kết giữa các trường. Đi
cùng với xu hướng phát triển mới của giáo dục là dạy học theo hướng phát triển năng
lực, thì hệ thống BTHH còn đang thiếu những bài tập phù hợp để phát huy tối đa sự
sáng tạo cũng như tính chủ động của HS, đặc biệt là tính tích cực khi vận dụng những
tri thức hóa học đã học được vào thực tiễn.
Thực tế cho thấy, nếu chỉ cung cấp cho HS những kiến thức hóa học về mặt lý
thuyết thì HS sẽ khó ghi nhớ, khó hiểu rõ bản chất cũng như hiểu được ý nghĩa của
những kiến thức đó. Chỉ khi vận dụng được những kiến thức đó vào thực tiễn, vào việc
xử lý các bài tập, hay giải quyết những vấn đề thực sự gần gũi trong cuộc sống, thì các
tôi mới hiểu hết ý nghĩa cũng như có sự chú ý, thu hút đối với tri thức đó. Trong quá
trình này, BTHH đóng vai trò vô cùng quan trọng, bài tập vừa là mục đích, vừa là nội
dung, lại là một phương pháp dạy học hiệu quả để hướng người học vào thực tiễn đồng
thời hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục trong thời kì mới mà Đảng và nhà nước ta đã đề
ra.
7


Với mong muốn phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, đồng thời
nâng cao năng lực học tập, năng lực vận dụng kiến thức vào các tình huống cụ thể
trong lao động sản xuất hay trong cuộc sống thông qua các dạng bài tập gắn liền với
thực tiễn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội với con người trong thời đại
mới, tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng bài tập hóa học phần phi kim – chương trình Hóa
học 10 nâng cao nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS
THPT”.

Với hi vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo có ích cho bản thân, cho các tôi HS
trong quá trình học tập và trang bị thêm kiến thức cho bản thân cũng như trong thời kì
dạy học theo hướng tích cực, chủ động ngày càng được quan tâm và đóng nhiều vai trò
quan trong trong đời sống hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn và sử dụng BTHH định tính và định lượng phần phi kim – chương trình
Hóa học 10 nâng cao, nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS
THPT, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học hóa học theo hướng tích cực ở
trường THPT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy và học môn hóa học ở trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về hệ thống BTHH phần phi kim – chương trình Hóa học 10 nâng cao
nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận
- Tìm hiểu thực trạng về việc sử dụng BTHH nhằm phát triển năng lực vận dụng
tri thức vào thực tiễn của HS THPT.
8


- Lựa chọn và sử dụng hệ thống BTHH phần phi kim – chương trình Hóa học 10
nâng cao nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức của HS THPT.
- Đề xuất các biện pháp sử dụng hệ thống BTHH đã lựa chọn nhằm phát triển
năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Hệ thống BTHH phần phi kim, chương trình Hóa học 10 – nâng cao
nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT
- Địa bàn: Thành phố Tuyên Quang

- Phạm vi: Trường THPT Chuyên và THPT Tân Trào.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nhằm thu thập, phân tích và hệ thống hóa các tài liệu lý luận liên quan đến đề
tài: Các tài liệu về tâm lí học, giáo dục học, phương pháp dạy học hóa học đặc biệt là
các tài liệu dạy học về phát triển năng lực, đặc biệt là về năng lực vận dụng tri thức vào
thực tiễn của HS THPT.
- Tập hợp và nghiên cứu các tài liệu: sách giáo khoa THPT, chương trình bộ môn
hóa học cơ bản, đặc biệt là sách giáo khoa hóa học 10 nâng cao, nhằm xây dựng được
hệ thống bài tập phát huy tối đa khả năng sáng tạo, tổng hợp tri thức và vận dụng tri
thức của HS.
- Nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học, các tài liệu có nội
dung gắn liền lý thuyết với thực tiễn.
- Thu thập tài liệu và truy cập thông tin trên Internet có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu quá trình học tập của lớp khảo sát và đặc điểm của HS.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

9


- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm
6.3. Các phương pháp toán học
Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu, phân tích các kết quả khảo sát thu được.
7. Cấu trúc của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng BTHH để phát triển năng lực vận dụng tri
thức vào thực tiễn của HS ở một số trường THPT tại thành phố Tuyên Quang – tỉnh

Tuyên Quang.
Chương 3: Sử dụng BTHH phần phi kim – chương trình Hóa học 10 nâng cao
nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tác dụng của BTHH đến quá trình phát triển năng lực
vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT, tôi đã tìm hiểu và nhận thấy rằng từ
trước đến nay có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Tôi
xin nêu một số nghiên cứu gần đây có liên quan đến BTHH như:
Năm 2009, khi nghiên cứu về “Tuyển chọn và xây dựng hệ thống BTHH gắn với
thực tiễn dùng trong dạy học hóa học ở trường THPT” tác giả Lê Thị Kim Thoa đã tìm
hiểu về thực trạng, xây dựng các BTHH gắn liền với thực tiễn cho toàn bộ chương trình
hóa học ở THPT. Trong đó hệ thống BTHH bao gồm cả bài tập trắc nghiệm tự luận và
bài tập trắc nghiệm khách quan được phân ra ở 4 mức. Ngoài ra, tác giả còn đứa ra một
số ví dụ cụ thể về việc sử dụng BTHH trong việc truyền thụ kiến thức mới, trong kiểm
tra đánh giá, trong hoàn thiện kiến thức, kĩ năng kĩ xảo ở HS. Tuy nhiên, do phạm vi
xây dựng hệ thống bài tập (toàn bộ chương trình hóa học THPT) là quá rộng nên lượng
bài tập tác giả xây dựng cho mỗi nội dung cụ thể còn ít và chưa đi sâu vào việc phát
triển năng lực vận dụng tri thức, hầu hết đều dừng ở mức đưa hiện tượng, cho HS giải
thích, gắn Hóa học với thực tiễn nhưng không kích thích các tôi chủ động khám phá và
tìm tòi.
Cũng là nghiên cứu về “Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập tự luận và trắc
nghiệm khách quan phần vô cơ 11 – chương trình nâng cao nhằm phát huy tính tích
cực của HS THPT”, năm 2010, tác giả Tống Đức Huy trong quá trình nghiên cứu của
mình đã xây dựng được 7 dạng BTHH được dùng để phát huy tính tích cực của HS

trong đó có các BTHH phát huy năng lực gắn tri thức vs thực hành như BTHH có sử
dụng hình vẽ, đồ thị, BT lắp dụng cụ thí nghiệm đồng thời đưa ra các nguyên tắc và
biện pháp phát huy tính tích cực của HS chủ yếu về khả năng tự học, tư duy và chủ
động. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa đề xuất đến việc gắn liền tri thức với thực tiễn, các
11


BTHH xây dựng chưa đưa ra được các vấn đề trong thực tiễn, có liên quan đến hóa học
và vai trò của hóa học trong việc ứng dụng vào thực tiễn.
Trong nghiên cứu “Xây dựng và sử dụng hệ thống BTHH phần phi kim lớp 10
THPT theo hướng dạy học tích cực” của tác giả Trương Đình Huy vào năm 2011, tác
giả đã chú trọng việc lựa chọn và sử dụng các bài tập có mô hình, hình vẽ sau đó yêu
cầu HS khái quát, hoàn thành đồng thời tác giả sử dụng nhiều bài tập có hình vẽ nhằm
nâng cao khả năng thực hành của HS. Thêm vào đó, tác giả còn đưa ra được các
phương pháp sử dụng hệ thống bài tập để dạy học theo hướng tích cực như: Truyền thụ
kiến thức mới, rèn luyện một số kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực tư duy và sáng
tạo……Tuy nhiên, trong khi đề xuất các nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập theo
hướng dạy học tích cực, tác giả không đề cập đến việc sẽ phát triển khả năng thực
hành, ứng dụng tri thức vào thực tiễn của HS, một trong nhưng vấn đề cốt lõi của việc
dạy học theo hướng tích cực. Các vấn đề, hệ thống bài tập tác giả đưa ra đều chủ yếu
mang tính lý thuyết, GV chủ động, vai trò của HS còn ít, HS không được giao nhiệm
vụ chủ động, là người trực tiếp tham gia vào tình huống và nảy sinh ra vấn đề, chưa
đưa ra những bài tập gắn liền với cuộc sống thực tiễn (Ví dụ: HS phải tìm hiểu một quy
trình sản xuất, một hiện tượng tự nhiên….)
Cũng vào năm 2011, tác giả Lê Văn Hiến đã nghiên cứu về “Xây dựng hệ thống
BTHH về kinh tế, xã hội và môi trường ở trường THPT”. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả đã nghiên cứu và xây dựng hệ thống BTHH chuyên sâu về việc bảo vệ môi
trường, một trong những vấn đề cấp bách và cần thiết hiện nay. Nhưng trong luận văn
chưa đề cập những BTHH này sẽ được sử dụng ở bước lên lớp nào (trong việc truyền
thụ kiến thức mới, vào bài, củng cố hay kiểm tra đánh giá).

Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BTHH có nội dung liên quan đến
thực tiễn được sử dụng trong dạy học hóa học ở trường phổ thông nhằm các mục đích
khác nhau như: Giáo dục môi trường, phát triển năng lực nhận thức, phát triển năng lực
sáng tạo, tư duy cho HS…..
12


Tuy nhiên, trong số những công trình nghiên cứu về BTHH, còn ít công trình
nghiên cứu chuyên sâu về việc phát triển năng lực vận dụng kiến thức của HS thông
qua những BTHH cụ thể. Trong khi đó, phương hướng đổi mới và phát triển giáo dục
hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là dạy học lấy người học làm trung tâm,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, gắn liền lý thuyết với thực hành, gắn
liền tri thức với thực tiễn…. Chính những phương hướng trên đã khiến tôi có những
trăn trở, suy nghĩ mới đòi hỏi về việc làm thế nào để dạy học hóa học gắn liền với thực
tiễn. Từ những trăn trở, suy nghĩ này, tôi đã định hướng và xác định được đề tài nghiên
cứu của mình là vẫn tiếp tục nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng BTHH dựa trên các
công trình nghiên cứu trước đây, nhưng theo một hướng tiếp cận khác, hướng tới mục
đích là gắn liền hóa học với thực tiễn, với đổi mới giáo dục theo hướng phát huy năng
lực đang được Đảng và Nhà nước đặt ra. Cụ thể là nghiên cứu về việc sử dụng BTHH
nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT.
1.2. Lý luận cơ bản về BTHH
Có thể nói quá trình học tập là một quá trình có hệ thống, trong đó có quá trình xử
lý và tính toán các bài tập đa dạng, phong phú. Trong thực tế, mỗi nội dung kiến thức
có thể đến với HS một cách thành công hay không phụ thuộc nhiều vào việc biên soạn
hệ thống bài tập (cả bài tập định tính và bài tập định lượng).
Trong việc dạy và học hóa học ở trường phổ thông, BTHH được coi là một trong
những nội dung kiến thức có vai trò quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng học
tập của HS ở bộ môn hóa học.
1.2.1. Khái niệm về bài tập, BTHH.
Có nhiều khái niệm về bài tập đã từng được đề cập đến.

Trong giáo dục, theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, thuật ngữ
“Bài tập” có nghĩa là “bài ra cho HS làm để vận dụng những điều đã học”.
Theo Thái Duy Tuyên “Bài tập là một hệ thông tin xác định bao gồm những điều
kiện và những yêu cầu được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi hỏi người học một lời

13


giải đáp, mà lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần không ở trạng thái có sẵn của
người giải tại thời điểm mà bài tập được đặt ra”.
Theo cố GS.Nguyễn Ngọc Quang: “Bài toán là hệ thống thông tin xác định, bao
gồm những điều kiện và những yêu cầu luôn luôn không phù hợp với nhau, dẫn tới nhu
cầu phải khắc phục bằng cách biến đổi chúng”.[10 – tr.114]
Từ những quan niệm và những ý kiến trên có thể hiểu rằng: Bài tập là một hệ
thống thông tin được đưa ra một cách có vấn đề, đòi hỏi HS phải sử dụng những kiến
thức đã có bằng cách lập luận hay tính toán để giải quyết vấn đề.
Về mặt lí luận dạy học hóa học, bài tập bao gồm cả câu hỏi và bài toán mà khi
hoàn thành hệ thống những bài tập này, HS sẽ nắm được hay hoàn thiện một kiến thức,
một kĩ năng nào đó thông qua việc xử lý, tính toán bài tập, hệ thống bài tập.
BTHH là những câu hỏi hay bài toán về lĩnh vực hóa học được sử dụng như là
các vấn đề hoặc các tình huống học tập để HS suy luận, tư duy dựa trên những kiến
thức đã học, mục tiêu là khi hoàn thành những câu hỏi hay bài toán này, HS sẽ nắm
được một lượng kiến thức hay một kĩ năng nhất định.
1.2.2. Phân loại BTHH.
Có nhiều cách phân loại BTHH, tùy theo việc lựa chọn cơ sở để phân loại. Có
thể phân loại BTHH theo một số cách như sau:
a, Phân loại BTHH dựa vào nội dung:
* Bài tập định tính: Là các dạng bài tập có liên hệ với quan sát để mô tả, giải
thích các hiện tượng hóa học.
* Bài tập định lượng: Là các loại bài tập cần dùng các kĩ năng toán học kết hợp

với kĩ năng hóa học để giải quyết.
* Bài tập thực nghiệm: Là dạng bài tập có liên quan đến các kĩ năng thực hành
như: Quan sát, giải thích các hiện tượng thí nghiệm, làm thí nghiệm nghiên cứu về tính
chất của các chất…..
b, Phân loại BTHH dựa trên hình thức:
* Bài tập tự luận: Khi làm bài, HS phải viết, trình bày câu trả lời, lập luận bằng
ngôn ngữ của bản thân.
14


* Bài tập trắc nghiệm: Khi làm bài, HS đọc và lựa chọn đáp án đúng trong các
phương án đã được cho hoặc điền khuyết những từ, cụm từ ngắn vào chỗ trống hay
ghép đôi các ý kiến.
c, Phân loại bài tập theo mức độ nhận thức:
Có thể phân loại BTHH ở các mức độ: Hiểu – Biết – Vận dụng – Sáng tạo.
Trên thực tế, còn nhiều cơ sở để phân loại BTHH, song sự phân loại chỉ mang
tính tương đối, vì giữa các cách phân loại không có ranh giới rõ rệt, sự phân loại
thường để nhằm cho một mục đích nhất định.
1.3. Lý luận về năng lực ứng dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT
1.3.1. Năng lực và sự phát triển năng lực của HS THPT
1.3.1.1. Khái niệm năng lực
Năng lực là một khái niệm khá quen thuộc trong giáo dục hiện nay. Khái niệm
năng lực được hiểu và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Theo Từ điển Tâm lí học của tác giả Vũ Dũng xuất bản năm 2000 thì: “Năng lực
là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lí cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên
trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một hoạt động nhất định.”
Theo GS.Nguyễn Quang Uẩn thì “Năng lực là những thuộc tính độc đáo của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm
bảo cho hoạt động đó có kết quả” [ 9 – tr 118] có nghĩa là, năng lực là điều riêng biệt
thuộc về mỗi cá nhân, điều riêng biệt này phát huy được hết vai trò của mình với một

hoạt động cụ thể, phù hợp với đặc trưng của hoạt động đó và làm tăng hiệu quả của
hoạt động đó.
Theo F.E.Weinert lại cho rằng: “Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được
hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng
về động cơ xã hội…và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt”.
15


Theo OECD (Tổ chức các nước kinh tế phát triển) năm 2002, sau một cuộc
nghiên cứu lớn về năng lực cần đạt của HS THPT đã chỉ ra rằng: “Năng lực là khả
năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong
một bối cảnh cụ thể”.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa rằng: Năng lực là một thuộc tính
riêng biệt, thuộc về mỗi cá nhân, phù hợp với đặc trưng riêng của hoạt động hay vấn
đề cụ thể nào đó, là yếu tố quyết định và đảm bảo hiệu quả của hoạt động, của vấn đề
được thực hiện.
Năng lực không phải một thuộc tính đơn nhất mà là tổng thể của nhiều yếu tố có
liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Năng lực được hình thành, phát triển và thể hiện
thông qua các hoạt động tích cực của con người. Có thể nói rằng, phát triển năng lực
chính là mục tiêu cuối cùng mà quá trình dạy và học hướng tới.
1.3.1.2. Phân loại năng lực
Nếu dựa theo năng lực cá nhân, năng lực được phân thành năng lực chung và
năng lực riêng.
⃰ Năng lực chung bao gồm những thuộc tính tâm lý như khả năng chú ý, quan
sát, ghi nhớ, tưởng tượng và sáng tạo.
⃰ Năng lực riêng gồm những thuộc tính có ý nghĩa với những loại hình nhất định.
Năng lực chung và năng lực riêng có mối liên hệ qua lại chặt chẽ, bổ sung cho
nhau, năng lực riêng được phát triển dễ dàng và nhanh chóng hơn trong điều kiện tồn
tại năng lực chung.

Nếu dựa trên những năng lực cơ bản cần cho người lao động mới trong xã hội
thì năng lực được phân thành 4 loại sau:
⃰ Năng lực tư duy: Khả năng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và nhận biết vấn
đề. Hiểu nguyên nhân của vấn đề cần được xử lí, giải quyết trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ hay công việc đó.
16


⃰ Năng lực hành động: Khả năng tổ chức thực hiện công việc hiệu quả, hoàn
thành nhiệm vụ trong điều kiện thực tiễn phức tạp.
⃰ Năng lực quan hệ, giao tiếp, thuyết phục, làm việc với người khác: Khả năng
quan hệ, giao tiếp hiệu quả, thuyết phục và truyền cảm hứng cho mọi người để cùng
thực hiện tốt nhất công việc.
⃰ Năng lực tiếp thu, đổi mới, sáng tạo và phát triển : Khả năng liên tục cập nhập
thông tin, tiếp thu kiến thức và học tập trong quá trình thực hiện công việc, luôn tìm tòi
những ý tưởng mới.
1.3.1.3. Sự phát triển năng lực của HS THPT
Đào tạo theo hướng phát triển năng lực của người học đã và đang trở thảnh một
xu thế tất yếu, phổ biến trong nền giáo dục hiện đại của thế giới nói chung cũng như
nền giáo dục của Việt Nam nói riêng. Xu hướng chung của chương trình giáo dục hiện
đại là chuyển từ “tập trung vào kiến thức” sang “tập trung vào năng lực”. Việc hình
thành và phát triển năng lực được quan tâm và chú trọng, nhất là phát triển năng lực
cho HS THPT – lứa tuổi đã có sự trưởng thành về mặt nhận thức và tư duy, đầy đủ
phẩm chất, điều kiện để chuẩn bị trở thành một người công dân thực thụ, có những
đóng góp nhất định cho xã hội và đất nước.
Hiện nay, theo khung năng lực của tác giả Nguyễn Minh Phương, Viện Khoa
học Giáo dục Việt Nam, thì có bốn nhóm năng lực mà HS THPT Việt Nam cần đạt
được như sau:
⃰ Năng lực nhận thức: Đòi hỏi HS phải có khả năng quan sát, ghi nhớ, tưởng
tượng, suy luận….từ đó hình thành khả năng phát hiện vấn đề, khả năng tự học, tự trau

dồi kiến thức trong suốt cuộc đời.
⃰ Năng lực xã hội: Đòi hỏi HS phải có khả năng giao tiếp, thuyết trình, giải quyết
các tình huống có vấn đề, khả năng thích ứng, khả năng cạnh tranh cũng như khả năng
hợp tác…
17


⃰ Năng lực thực hành: Đòi hỏi HS phải nắm vững tri thức, kiến thức đã học, sau
đó vận dụng các tri thức, kiến thức này vào thực tiễn một cách linh hoạt, chủ động, giải
quyết vấn đề một cách kiên trì và sáng tạo.
⃰ Năng lực cá nhân: Được thể hiện qua khía cạnh thể chất, trước hết đòi hỏi HS
phải có khả năng vận động linh hoạt, biết bảo vệ sức khỏe, khả năng thích ứng với môi
trường, tiếp đó là các khía cạnh hoạt động cá nhân đa dạng như khả năng lập kế hoạch,
khả năng tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm….
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi đi sâu nghiên cứu về năng lực vận dụng
tri thức vào thực tiễn của HS THPT. Để hình thành và phát triển được năng lực này, HS
THPT phải vận dụng và kết hợp linh hoạt những điều đã biết, đã học. Trong quá trình
này, thay cho việc học hỏi cùng một lúc nhiều lượng kiến thức mới, trước hết HS cần
phải có kĩ năng huy động các kiến thức đã học vào một tình huống cụ thể, giải quyết
được những vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Đây là năng lực cần thiết mà mỗi HS THPT
đều cần được trang bị và phát triển.
1.3.2. Năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn
1.3.2.1. Khái niệm năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.
Năng lực vận dụng tri thức là khả năng của bản thân người học tự giải quyết
những vấn đề đặt ra một cách nhanh chóng và hiệu quả bằng cách áp dụng những kiến
thức, kĩ năng, kinh nghiệm đã có vào các tình huống, hoạt động thực tiễn để tìm hiểu
thế giới xung quanh và có khả năng biến đổi nó. Năng lực vận dụng tri thức vào thực
tiễn thể hiện phẩm chất, nhân cách của con người trong quá trình hoạt động để thỏa
mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức.
1.3.2.2. Biểu hiện của năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.

Năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn được bộc lộ qua 4 cấu phần sau đây:
- Tiếp cận, nhận thức được vấn đề:

18


+ Khả năng tiếp cận, nhận thức và phát hiện vấn đề, tìm được cách giải quyết vấn
đề có trong nội dung bài học.
+ Biết quan sát và sử dụng những kiến thức, kĩ năng hóa học để giải thích những
hiện tượng trong thực tiễn đời sống.
- Tổng hợp được thông tin, đưa ra được kiến thức sẽ vận dụng.
+ Biết thu thập và xử lí thông tin, nêu được phương hướng giải quyết vấn đề đó
bằng những kiến thức, kĩ năng học được từ bộ môn Hóa học.
+ Biết huy động, tổng hợp và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tế
công việc.
- Dự đoán, kiểm tra và đưa ra biện pháp.
+ Dự đoán được kết quả, kiểm tra được lí thuyết đã học và đưa ra kết luận.
+ Đưa ra những phương pháp, cách thức làm việc mới, phù hợp với vấn đề mà
thực tiễn đặt ra dựa trên những kiến thức đã học.
- Tự đánh giá và điều chỉnh
+ Điều chỉnh, bổ sung kiến thức lý thuyết cho phù hợp với thực tiễn sau khi giải
quyết.
+ Tự đánh giá được kết quả, sản phẩm và đưa ra những đề xuất để hoàn thiện.
1.3.2.3. Vai trò của việc vận dụng tri thức vào thực tiễn.
⃰ Vận dụng tri thức là khâu quan trọng nhất của quá trình nhận thức và học tập.
Như chúng ta đã biết, sự phát triển tâm lý nhận thức của con người đi từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp và mang tính kế thừa, tính phủ định rõ rệt. Trong quá
trình phát triển đó, những thành quả đã được tích lũy, được hình thành ở giai đoạn
trước sẽ trở thành nền tảng và làm cơ sở cho việc hình thành những hiện tượng tâm lý ở
mức cao hơn. Vì vậy, nhiệm vụ và mục tiêu mà dạy học hướng đến không những phải

hình thành cho HS những tri thức, khái niệm mà còn phải hình thành cho HS khả năng
19


vận dụng các tri thức, kinh nghiệm đã có để giải quyết các vấn đề đặt ra. Khả năng vận
dụng kiến thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó là giai đoạn đưa kiến thức từ sách vở
thành kiến thức đời sống, đây là giai đoạn kiểm tra được sự hiệu quả của quá trình
giảng dạy cũng như khả năng tổng hợp, huy động kiến thức của HS. Khi HS vận dụng
kiến thức để giải quyết được vấn đề thực tiễn sẽ bộc lộ những điều HS nhận thức được
đồng thời cũng chứng minh được hiệu quả của quá trình học tập.
⃰ Vận dụng tri thức góp phần phát triển nhiều năng lực tổng hợp của người học.
Năng lực là sự kết hợp linh hoạt và độc đáo nhiều đặc điểm tâm lý của một
người, giúp người đó hoạt động hiệu quả cao trong một lĩnh vực nào đó. Bất cứ ai sinh
ra cũng có những tố chất riêng biệt để hình thành năng lực thuộc về bản thân mỗi cá
nhân. Năng lực là cái gốc tự nhiên, sẵn có ở mỗi người nhưng lại rất cần phải được rèn
luyện, trau dồi thường xuyên. Đây là giai đoạn cần thiết và quan trọng trong quá trình
học tập và nhận thức của mỗi người. HS muốn hoàn thiện quá trình nhận thức, học tập
của mình thì phải biết tổng hợp, vận dụng kiến thức. Bởi khi vận dụng kiến thức, đòi
hỏi HS đồng thời phải có khả năng tổng hợp, phân tích những kiến thức đã có để lựa
chọn ra tri thức phù hợp để giải quyết vấn đề.
⃰ Vận dụng tri thức góp phần phát triển tư duy của HS.
Trong quá trình vận dụng tri thức, trí thông minh và khả năng tư duy của HS
được phát huy một cách mạnh mẽ, đặc biệt là tính sáng tạo của HS sẽ được bộc lộ rõ
rệt. Mặc dù trong toàn bộ quá trình học tập, khả năng tư duy của HS vẫn phát huy
nhưng đến với giai đoạn vận dụng tri thức thì yêu cầu với tư duy bao giờ cũng cao hơn.
Những kĩ năng phân tích, so sánh, khái quát, định hướng… được vận dụng nhiều hơn.
Khi vận dụng kiến thức, HS thể hiện được tư duy sáng tạo của mình vì nguồn tri thức
được cung cấp hay nguồn tri thức do HS tự học hỏi thường có những sự khác biệt nhất
định với thực tế, nhất là khi áp dụng để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Nên lưu ý
rằng, mục đích cuối cùng mà toàn bộ hoạt động trí tuệ của con người đều hướng đến là

phải biết vận dụng và sáng tạo những kiến thức đã học để giải quyết nhanh, chuẩn,
20


chính xác và thành công những nhiệm vụ đa dạng, phức tạp mà thực tiễn đề ra cho con
người.
1.3.2.4. Biện pháp phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS THPT.
Để hình thành và phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS
THPT nên sử dụng một số biện pháp sau:
- Hình thành cho HS một hệ thống kiến thức cơ bản, vững vàng và sâu sắc. Với
hóa học, những kiến thức cơ bản đó là các khái niệm, các định luật, tính chất, các quy
luật…
- Rèn luyện cho HS năng lực tư duy logic: HS thông qua các thao tác quan sát,
phân tích, tổng hợp và dựa vào bản chất của vấn đề để tìm ra cách giải quyết sáng tạo
và ngắn gọn.
- Rèn luyện năng lực tư duy khái quát: Trong giải BTHH khả năng khái quát thể
hiện ở HS qua năng lực phân dạng, nhận biết được dạng bài tập, đưa ra được phương
pháp giải chung cho từng dạng bài.
- Rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ: Khả năng tự đặt ra vấn đề, giải quyết vấn
đề, kiểm tra cách giải quyết vấn đề, không thỏa mãn với những cái sẵn có, luôn tìm ra
cách giải quyết mới ngay cả trong các bài tập quen thuộc.
- Rèn luyện năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn thông qua việc tìm nhiều
cách giải cho một bài tập.
- Phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS thông qua việc
hướng dẫn HS ra đề, tự giải và tự kiểm định kết quả. Tích cực liên hệ giữa kiến thức lý
thuyết với thực tiễn.
- Phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS gắn liền với việc rèn
luyện phong cách làm việc khoa học.
1.4. Lý luận về BTHH nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn
của HS THPT.

21


1.4.1. Khái niệm về BTHH gắn với thực tiễn.
BTHH nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS
(BTHH gắn với thực tiễn) là những nội dung xuất phát từ thực tiễn về ngành hóa học,
đòi hỏi HS phải sử dụng các tri thức đã có vận dụng vào cuộc sống, giải quyết được
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
1.4.2. Phân loại BTHH gắn với thực tiễn
1.4.2.1. Phân loại dựa trên tính chất của bài tập
⃰ Bài tập định tính: Bao gồm các bài tập về giải thích các hiện tượng, các tình
huống nảy sinh trong thực tiễn, đề ra phương hướng để giải quyết các vấn đề trong thực
tiễn.
⃰ Bài tập định lượng: Bao gồm dạng bài tập về tính lượng hóa chất cần dùng, pha
chế dung dịch….
⃰ Bài tập tổng hợp: Bao gồm cả kiến thức định tính lẫn định lượng
1.4.2.2. Phân loại dựa vào lĩnh vực thực tiễn được gắn với nội dung bài tập
⃰ Bài tập về kĩ năng thực hành, làm thí nghiệm và sản xuất
+ Giải thích các hiện tượng, tình huống có vấn đề nảy sinh trong đời sống, lao
động sản xuất.
+ Giải quyết các tình huống có vấn đề trong quá trình thực hành, thí nghiệm: Sử
dụng dụng cụ thí nghiệm, xử lý tai nạn thí nghiệm, xử lý các chất ô nhiễm khi làm thí
nghiệm…
* Bài tập liên quan đến thực tiễn, đời sống
+ Sử dụng và bảo quản hóa chất, sản phẩm hóa học trong ăn uống, chữa bệnh,
giặt giũ, tẩy rửa………..
+ Giải thích các hiện tượng trong thực tiễn có liên quan đến nội dung đã học.
⃰ Bài tập có liên quan đến môi trường và vấn đề bảo vệ môi trường.
1.4.2.3. Phân loại dựa vào mức độ nhận thức của HS
22



Mức 1: Chỉ yêu cầu HS tái hiện kiến thức để trả lời câu hỏi lý thuyết.
Mức 2: Yêu cầu HS vận dụng kiến thức để giải thích được các sự kiện, hiện
tượng của các câu hỏi lý thuyết.
Mức 3: Yêu cầu HS vận dụng kiến thức hóa học để giải thích những tình huống
xảy ra trong thực tiễn.
Mức 4: Yêu cầu HS vận dụng kiến thức, kĩ năng hóa học để giải quyết những
tình huống thực tiễn hoặc để thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ, đề ra
kế hoạch và phương pháp giải quyết.
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tôi sử dụng phương pháp phân loại
BTHH thực tiễn dựa vào nội dung.
1.4.3. Vai trò của BTHH trong việc phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực
tiễn của HS THPT.
BTHH có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo chung và mục
tiêu đào tạo riêng của môn Hóa học. BTHH vừa là mục đích, vừa là nội dung, lại vừa là
phương pháp dạy học hiệu nghiệm để truyền thụ kiến thức cho HS.
BTHH có những vai trò, tác dụng to lớn về nhiều mặt trong việc dạy học Hóa học
nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn của HS:
- Là phương tiện để kiểm tra kiến thức, kĩ năng của HS một cách nhanh chóng,
hiệu quả và chính xác.
- Là phương tiện cơ bản, hiệu nghiệm nhất để rèn luyện cho HS khả năng vận
dụng được các kiến thức đã học, biến những kiến thức đã tiếp thu được thành kiến thức
của chính mình và vận dụng những kiến thức này vào thực tế cuộc sống, sản xuất, học
tập và nghiên cứu khoa học….
- Là phương pháp dạy học có hiệu quả cao trong việc rèn luyện kĩ năng hóa học.
BTHH còn được nâng cao lên khi sử dụng để nguồn kiến thức là HS tự tìm tòi chứ
không phải chỉ để tái hiện kiến thức.
23



- Đối với HS, BTHH là phương pháp học tập trong việc phát hiện và giải quyết
vấn đề mà không một phương pháp nào có thể thay thế. Việc giải BTHH giúp HS nắm
vững kiến thức hóa học, phát triển tư duy, hình thành kĩ năng vận dụng kiến thức hóa
học vào thực tiễn. Từ đó, làm giảm nhẹ sự căng thẳng và nặng nề của khối lượng kiến
thức lý thuyết góp phần tăng sự hứng thú và say mê cho HS.
- Đối với GV, BTHH là phương tiện, nguồn kiến thức để hình thành nên các khái
niêm hóa học, các kĩ năng thực hành, phát huy tính tích cực trong hoạt động học tập bộ
môn Hóa học.
- BTHH được dùng mô phỏng, lồng ghép các kiến thức, tình huống thực tế trong
đời sống để HS vận dụng tri thức đã có vào việc giải quyết vấn đề mà thực tế đã đặt ra.
Kích thích tư duy tìm tòi sáng tạo và rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề.
1.4.4. Đặc điểm của BTHH nhằm phát triển năng lực vận dụng tri thức vào thực
tiễn cho HS THPT.
Để đáp ứng những nhu cầu, định hướng đổi mới giáo dục của Bộ Giáo dục và
đào tạo hiện nay là dạy học lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ
động, năng lực cho HS. Đặc biệt, trọng tâm là chú ý đến việc phát triển năng lực vận
dụng tri thức vào thực tiễn cho HS, BTHH phải có những đặc điểm sau:
- Nội dung bài tập phải chứa kiến thức có liên quan đến thực tiễn, đời sống và có
liên quan đến nội dung kiến thức Hóa học mà HS đã học.
- Nội dung bài tập chú trọng đến việc tăng cường các hoạt động, kĩ năng thực hành,
làm thí nghiệm.
- Nội dung bài tập phải ngắn gọn, súc tích, không quá đè nặng về việc tính toán mà
cần chú ý rèn luyện và phát triển năng thực nhận thức, vận dụng tri thức, kiến thức đã
học.
- BTHH phải đa dạng, có nội dung thiết thực trên cơ sở định hướng, mục tiêu dạy
học của bộ môn Hóa học ở cấp THPT.

24



- BTHH cần chú ý đến việc mở rộng kiến thức hóa học và các ứng dụng của hóa
học trong thực tiễn. Thông qua bài tập, HS thấy được ý nghĩa và sự gần gũi, thiết thực
của bộ môn Hóa học.
1.4.5. Nguyên tắc lựa chọn, sử dụng BTHH nhằm phát triển năng lực vận dụng tri
thức vào thực tiễn của HS THPT.
Khi xây dựng BTHH, tôi dựa theo một số nguyên tắc sau:
1.4.5.1. Hệ thống BTHH phải đảm bảo tính chính xác, khoa học và hiện đại.
Với mục đích của việc xây dựng bài tập là giúp HS vận dụng những tri thức hóa
học đã được học vào thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn nên tính chính xác, khoa
học của BTHH là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Trong một BTHH gắn liền với thực tiễn, bên cạnh nội dung hóa học còn có
những dữ liệu, thông tin liên quan đến thực tiễn. Những dữ liệu này phải được đưa vào
một cách chính xác, không được tùy ý thay đổi để đảm bảo những gì HS đã được học
sẽ vận dụng đúng được với thực tế trong cuộc sống.
Một số BTHH về dây chuyền, quy trình sản xuất trong hóa học cần đảm bảo yếu
tố mới, đúng thực tế đang sử dụng, không đưa những dây chuyền, quy trình sản xuất đã
cũ, không còn sử dụng để đảm bảo tính thiết thực trong quá trình vận dụng tri thức của
HS.
1.4.5.2. Hệ thống BTHH phải đảm bảo tính hệ thống, logic dựa trên nội dung học tập
trong chương trình THPT.
Các BTHH được xây dựng phải dựa trên các chuẩn kiến thức hóa học trong
chương trình THPT, có nội dung sát với chương trình mà HS được học, được sắp xếp
theo một logic nhất định (có thể theo các chủ đề, theo các chương, các bài…) để HS có
thể vận dụng linh hoạt các kiến thức được học một cách cụ thể để giải quyết các vấn đề
đặt ra trong thực tiễn.

25



×