TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG 3 TÁC PHẨM:
“ĐƯỜNG CÁCH MỆNH”; “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”; “DI CHÚC”
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm sâu sắc và
toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về con đường
giải phóng dân tộc, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội… Tư
tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ là là một bộ phận quan trọng trong tư
tưởng của Người, là kết quả của sự nhận thức sâu sắc những quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ vào điều kiện lịch sử cụ thể ở nước
ta, là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới.
Dân chủ là một nguyên tắc trong tổ chức sinh hoạt và hoạt động của
các tổ chức, là khát khao, nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời
dân chủ cũng là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước…. Nghiên cứu 3 tác phẩm “Đường cách
mệnh”(1925); “Sửa đổi lối làm việc”(1947); “Di chúc”(1969) trong kinh
điển gốc của Hồ Chí Minh giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về dân
chủ, đồng thời quán triệt và thực hiện tốt những quan điểm của Đảng về
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hồ Chí Minh luôn ý thức sâu sắc rằng, dân chủ không chỉ là "dân là
chủ" mà còn là "dân làm chủ". Dân có thực sự làm chủ thì mới tiếp tục bắt
tay vào xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới, thực hiện dân chủ mới,
có điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấy rõ
dân chủ là động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh
phúc, tự do và bình đẳng. Hồ Chí Minh luận bàn dân chủ là để thực hiện
dân chủ trong thực tiễn. Dân là giá trị lớn nhất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Dân chủ là cái quý
báu của nhân dân. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò và động lực của
dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển. Thực hành dân
chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ là một chế độ
chính trị - xã hội, dân chủ tất yếu tồn tại gắn với một nhà nước, một chế độ
chính trị - xã hội nhất định. Dân chủ luôn gắn với một hình thái nhà nước,
vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp. Dân chủ đạt được đến đâu phụ
thuộc vào bản chất của nhà nước và bản chất của giai cấp thống trị. Nhà
nước chính là cơ quan quyền lực được nhân dân ủy quyền để tổ chức quản
lý xã hội và thực hiện quyền dân chủ ấy.
Để truyền bá những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác- Lênin, truyền
bá dân chủ, truyền bá đường lối cứu nước vào phong trào yêu nước, phong
trào công nhân, tiến tới xây dựng một chính đảng độc lập tiến tới đấu tranh
giành chính quyền, giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lược, đô hộ của thực
dân, đánh đổ phong kiến, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, cộng hoà.
Năm 1925 trước khi Đảng ta ra đời. Trong những bài giảng của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc giảng trong các lớp huấn luyện của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc), trước đối tượng tuyên
truyền giáo dục là những người yêu nước, ưu tú nhưng do chính sách cai trị
của thực dân Pháp, chúng thực hiện chính sách ngu dân để trị, nhân dân ta
đa phần là không biết chữ… mặc dù là những người ưu tú trong phong trào
yêu nước nhưng trình độ nhận thức còn hạn chế, nên để tuyên truyền được
chủ nghĩa Mác – Lênin vào những người ưu tú này thì phải có phương pháp
tuyên truyền giáo dục phù hợp. Trong các bài giảng của mình trong
“Đường cách mệnh” khi nói về dân chủ, Nguyễn Ái Quốc không trình bày
vấn đề dân chủ như cách nói của Mác – Lênin. Mác – Lênin bàn nhiều tới
chế độ dân chủ, nhưng nước ta chưa có Đảng lãnh đạo, chưa giành được
độc lập, lại bị chính sách ngu dân của Pháp cai trị. Để chủ nghĩa Mác Lênin đi vào những người yêu nước, làm cho họ hiểu chủ nghĩa Mác –
Lênin là gì? Người đã nói rất vắn tắt cho dễ hiểu, dễ nhớ. Nguyễn Ái Quốc
đã đi từ sự so sánh, khái quát, chỉ ra nỗi khổ của nhân dân Việt nam vì sao
khổ? Nguyên nhân dân ta đói rét, khổ sở…cho nên phải làm cách mệnh.
Người đã đi từ giảng giải, giải thích lịch sử cách mệnh Mỹ, Pháp, Nga, các
Quốc tế... để nói về dân chủ, những khẩu hiệu dân chủ mà các cuộc cách
mạng trước đây giai cấp tư sản đã thực hiện, những khẩu hiệu dân chủ mà
thực dân vẫn bắt chúng ta phải nghe đều là giả dối “tư bán nó dùng chữ Tự
do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi
đánh đổ phong kiến rồi thì nó lại thay phong kiến áp bức nhân dân”1. Để
truyền đạt các nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế vào phong trào yêu nước là điều không dễ, trình độ dân
trí của ta thấp, không thể hiểu được ngay để xây dựng chế độ dân chủ là thế
nào, không thể hiểu ngay những quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
dân chủ. Từ đặc điểm đó Nguyễn Ái Quốc đã rất khéo léo giảng giải về dân
chủ, Người đã đi từ giảng giải thành công của “Pari Công xã” và mục đích
của Công xã ấy là thế nào. Công xã đã lập nên chính phủ nhân dân và thực
hành những việc của một chế độ dân chủ ra sao: Người viết về Công xã:
“1. Bao nhiêu cơ quan sinh sản (tức chính phủ của nhân dân) riêng
đều đem làm của công. 2. Tất cả trẻ con trong nước, bất kỳ con trai con
gái, đều phải đi học. Học phí nhà nước phải cho. 3. Dân có quyền tự do tổ
chức, làm báo, khai hội, xuất dương…4. Bất kỳ đàn ông đàn bà, ai cũng
được quyền chính trị, tuyển cử và ứng cử. 5. Chính phủ tự dân cử lên, và
dân có quyền thay đổi Chính phủ”2. Thực chất ở đây Nguyễn Ái Quốc
muốn giảng giải mô hình xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, những kết
1
2
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 274
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 273
quả đấu tranh của công nhân Công xã Pari và nguyên nhân thất bại của
Công xã trong đấu tranh “giành lấy dân chủ” “Pari Công xã vì tổ chức
không khéo và vì không liên lạc được với dân cày, đến nỗi thất bại”3. Có
thể thấy cách tuyên truyền cho đối tượng hết sức khéo léo khi truyền đạt
chủ nghĩa Mác vào Việt nam đúng theo tinh thần chủ nghĩa Mác là giai cấp
công nhân phải “giành lấy dân chủ” về tay mình trong điều kiện trình độ
dân trí của ta thấp, nhận thức còn hạn chế. Trong tác phẩm Nguyễn Ái
Quốc cũng giảng giải cách mệnh An Nam phải theo cách mệnh nào trên thế
giới. “cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục (tước đoạt) công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”4, vì
vậy Nguyễn Ái Quốc khẳng định: cách mạng Việt Nam phải theo Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi (thành công triệt để),
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp khoe khoang bên
An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức
cho công, nông các nước và các dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách
mệnh để đập đổ tất cả các đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” 5 .
Như vậy Hồ Chí Minh đã giải thích để giành lấy dân chủ từ tay đế quốc,
phong kiến tất yếu phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin, phải theo cách mạng
Tháng Mười Nga một cách rất ngắn gọn rõ ràng phù hợp với trình độ của
dân ta lúc bấy giờ. Nếu nói tới chế độ dân chủ như kinh điển Mác – Lênin
về dân chủ sẽ là không phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân ta thời
điểm đó. Sự tài tình của Nguyễn Ái Quốc là mặc dù truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin về dân chủ vào phong trào yêu nước nhưng Người đã hết sức
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 274
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 274
5
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập. 2, tr. 280
3
4
khéo léo kết hợp cách truyền đạt dễ hiểu, dễ nhớ không dài dòng, trừu
tượng làm cho nhận thức về chế độ dân chủ mà chúng ta hướng tới dễ dàng
thâm nhập vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt nam.
Năm 1947 sau khi chúng giành được chính quyền 2 năm, tình hình
quốc tế có nhiều diễn biến mới. Trong nước, guồng máy của hệ thống
chính trị mới hoạt động, bên cạnh những ưu điểm, đã bộc lộ những hạn
chế, yếu kém, những thói hư tật xấu mới trái với đạo đức cách mạng, trái
với chế độ dân chủ mà chúng ta đang xây dựng, do vậy cần phải nhanh
chóng khắc phục những hạn chế này để đưa cách mạng tiến lên. Đội ngũ
cán bộ trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là đảng viên chủ yếu là nông dân
với tâm lý thói quen của người sản xuất nhỏ, lại có học vấn thấp, chưa
được đào tạo đã tác động tiêu cực đến hiệu quả công việc. Khi được giao
chức quyền thì lại dễ nảy sinh bệnh gia trưởng, quan liêu. Một số tật bệnh
đã xuất hiện: kém lý luận, coi khinh lý luận, bệnh hẹp hòi, địa phương chủ
nghĩa, gia trưởng, địa vị, hủ hoá…những căn bệnh đó rất giống với nước
Nga, sau 5 năm giành được chính quyền để Lênin phải viết tác phẩm Thà ít
mà tốt mà Hồ Chí Minh đã đọc và tiếp thu. Sự xuống cấp về đạo đức được
đánh giá như một thứ vi trùng độc hại. Do đó, vấn đề đạo đức của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cần phải được chấn chỉnh lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
yêu cầu phải sửa đổi lối làm việc, chỉ ra những căn bệnh của Đảng và cán
bộ Đảng viên ta và cách chữa trị, nhằm tạo nên một thế giới quan, nhân
sinh quan mới phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh chống Pháp và xây
dựng kiến thiết Tổ quốc. Trong tác “sửa đổi lối làm việc” Hồ Chí Minh
không đề cập nhiều, nói nhiều, sử dụng nhiều thuật ngữ “dân chủ” vì trình
độ dân trí của ta thấp, rất có thể dễ hiểu lầm dân chủ mà chủ yếu người hay
dùng chữ “bàn bạc” với nhân dân. Thực chất của thuật ngữ này đó chính là:
Dân chủ.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi
công việc khó khăn của cách mạng. Thực hành dân chủ chính là nhằm phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Vì vậy, muốn thực hành dân
chủ, phải đẩy mạnh dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và trong mọi
cán bộ, đảng viên để làm gương cho dân chủ trong xã hội. Phát huy dân chủ
trong Đảng không chỉ là yêu cầu nội tại của công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn là để khắc
phục bệnh độc đoán, chuyên quyền; bảo đảm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân.
Dân chủ thực chất là một biện pháp, biện pháp có tính nguyên tắc để
xây dựng Đảng ta thành một Đảng Cộng sản luôn trong sạch vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, mở rộng
phê bình và tự phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, trong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc, ngay chương I, Người đặt vấn đề Phê bình và sửa chữa lên
đầu tiên. Trong tác phẩm Người đã chỉ ra các bệnh và yêu cầu phải chống
các tật bệnh của Đảng, tật bệnh từ phía Nhà nước. Muốn chống các tật bệnh
đó phải phát triển dân chủ, phải thực hành rộng rãi dân chủ, phải dựa vào
nhân dân.
Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh
vô bờ của dân là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động của Hồ
Chí Minh, là điều sáng rõ trong tư duy của Hồ Chí Minh. Người viết:
“chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. lúc họ đã hiểu
thì việc gì khó khăn mấy họ cùng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ.
nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng:
những việc đó là vì lợi ích cho họ và họ phải làm”6 Người khẳng định: “Tin
vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải
quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân
6
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 246
chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa
chữa...”7 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước khi làm bất cứ việc gì “Việc gì
cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng”8 và
Người coi đó là nguyên tắc. Cùng với dân chúng đặt kế hoạch cho phù hợp
với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức họ thi hành. Trong lúc
thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân; thi
hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê
bình, khen thưởng.
Trong “mấy điều kinh nghiệm” Người chỉ ra phải nâng cao sáng kiến
và lòng hăng hái. Để cán bộ, Đảng viên ta có sáng kiến và lòng hăng hái
phải thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, biết
cách phê bình một cách sáng suốt, khôn khéo. “Dân chủ, sáng kiến, hăng
hái ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và
quần chúng đề ra sáng kiến, những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những
người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi
tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt
cũng sửa chữa được nhiều”9. Như vậy, có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đề
cao dân chủ, coi dân chủ là nguồn gốc của những sáng kiến, dân chủ làm
cho sáng kiến nảy sinh và tạo nên sự hăng hái đồng thời làm hạn chế được
những khuyết điểm. Đã làm việc tất yếu sinh ra khuyết điểm, nhưng những
khuyết điểm nhỏ, khuyết điểm lặt vặt của cán bộ, đảng viên ta cũng sẽ bớt
đi nhiều. Chính dân chủ làm cho người ta được bàn bạc để đi đến thực hiện,
làm cho tư tưởng, hành động thống nhất và làm cho người thực hiện công
việc bớt đi được khuyết điểm trong quá trình thực hiện.
Có dân chủ mới có những sáng kiến hay, những kinh nghiệm quý
trong thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên. Để nâng cao sáng
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 297
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 297
9
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 244
7
8
kiến và lòng hăng hái Người yêu cầu “Chúng ta cần phải nâng cao mở
rộng dân chủ, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày
cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi… Khi họ đã có ít nhiều
sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng
hái”10. Có thể thấy Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu phải mở rộng dân chủ,
thực hành dân chủ ở mọi nơi, mọi lúc, mọi việc mà Người còn chỉ ra phải
biết động viên, khen ngợi những người có sáng kiến để họ phát huy tài
năng, sở trường của mỗi cá nhân phục vụ cho Đảng, cho đất nước.
Cũng trong tác phẩm này, vấn đề cán bộ được Hồ Chí Minh đề cập rất
nhiều vì Người coi “cán bộ là gốc của mọi công việc”, Hồ Chí Minh chỉ ra
muốn cán bộ làm việc có hiệu quả cao phải thực hành dân chủ, làm cho cán
bộ phát huy năng lực, có gan làm việc, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trước những việc mình làm. Cán bộ “không dám nói, họ sợ. Thế là
mất hết dân chủ trong đảng, thế là nội bộ của đảng âm u, cán bộ trở nên
những cái máy, trong lòng uất ức không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra
oán ghét chán nản”11. Để cán bộ của ta cống hiến phải thực hành dân chủ,
phát huy dân chủ. Người yêu cầu trong thực hiện nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nước giao cho, cán bộ phải học hỏi dân chúng, mọi việc phải bàn bạc với
dân chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu trong công tác lãnh đạo không được quan
liêu, dùng mệnh lệnh, “cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm.
Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân
chúng, bắt dân chúng làm theo... làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán.
Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là
thất bại”12. Trong 2 cách làm việc mà Người chỉ ra thì cách thứ 2 là “làm
theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 245
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 280
12
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 293
10
11
chúng vui lòng ra sức làm” thì sẽ rất hiệu quả. Ngược lại “có nhiều cán bộ
không bàn bạc, không giải thích với dân chúng, không để cho dân chúng
phát biểu ý kiến, giải quyết các vấn đề, chỉ bắt buộc dân chúng làm theo
mệnh lệnh. Thậm chí khi dân chúng đề ra ý kiến và nêu rõ vấn đề, họ cũng
tìm cách dìm đi. Họ chỉ làm theo ý kiến của họ. kết quả là làm cho dân
chúng nghi ngờ, bất mãn”13 không phát huy được dân chủ trong dân chúng
kết quả “sẽ không đến nơi đến chốn, việc đó không được lâu dài, bền vững”.
Vấn đề xây dựng, kiến thiết chế độ mới, cách làm tốt nhất là dựa vào
dân, đem tài dân, sức dân, làm lợi cho dân. Đây thực chất là con đường
thực hiện dân chủ. Thực tế đã chứng minh lời căn dặn của Người: “Kinh
nghiệm trong nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát
mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, việc gì làm cũng không
xong”.14 Dựa vào dân, làm theo lợi ích của dân, đó là nguyên tắc bất di bất
dịch trong chủ trương, đường lối cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Hồ Chí
Minh viết: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,
mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ
mãi không ra.”15 Từ những điều mà Hồ Chí Minh chỉ ra, một lần nữa
chúng ta thấy Người rất quan tâm tới dân chủ, trong lãnh đạo cũng như
trong thực hiện các nhiệm vụ. “dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”16 “Khó mười
lần không dân cũng chịu” nhưng nếu phát huy được dân chủ, bàn bạc với
nhân dân thì “khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Những việc từ trước đến
nay thi hành chưa đến nơi đến chốn là do chưa thực hiện đầy đủ dân chủ,
thực hiện không có sự bàn bạc. Hồ Chí Minh viết: “Từ trước đến nay,
nhiều nơi công việc không chạy, chính vì cán bộ không thực hành nguyên
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 294
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 295
15
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 295
16
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995,tập. 5, tr. 293
13
14
tắc đó. Nếu không làm theo nguyên tắc đó, thì dù chính sách hay trăm
phần trăm cũng hóa ra vô dụng”17
Mặc dù rất đề cao dân chủ, coi dân chủ là một trong những phương
thuốc chữa bệnh, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra sự lợi dụng dân chủ sinh ra
bệnh tị nạnh- cái gì cũng muốn bình đẳng. Bệnh này sinh ra vì hiều lầm hai
chữ bình đẳng. Hồ Chí Minh chỉ ra cách chữa, bình đẳng phải hợp lý, hợp
tình, chúng ta phải kiên quyết chống lại thứ bình đẳng xấu, vô lý đó. Để
khắc phục căn bệnh đó Người chỉ ra phải thực hành dân chủ, phê bình và tự
phê bình, coi phê bình và tự phê bình như thuốc uống để chữa “bệnh”.
Trong công tác lãnh đạo Hồ Chí Minh yêu cầu phải dân chủ, bàn bạc
nhưng không theo đuôi quần chúng vì: “…dân chúng không nhất luật như
nhau. Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý
kiến khác nhau. Có tầng lớp tiền tiến, có tầng lớp chừng chừng, có tầng
lớp lạc hậu”18. Để bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của Đảng “chúng ta tuyệt
đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của
quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng…”19. như
vậy dân chủ của Hồ Chí Minh luôn đi liền với tập trung, không phải là dân
chủ hình thức mà dân chủ để lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân,
biến những mong muốn, nguyện vọng của nhân dân thành đường lối lãnh
đạo của đảng, làm cho đường lối ấy đi vào quần chúng nhân dân và chính
họ là người tổ chức thực hiện.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình từ khi ra đi tìm đường cứu
nước đến khi về “gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị đàn anh khác”, Hồ
Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà
được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành. Người đã làm tất cả để thực hiện mục tiêu nước ta
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 297
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 296
19
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 298
17
18
trở thành nước dân chủ, dân ta được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc. Người đã rút ra một chân lý vĩnh hằng không chỉ cho dân tộc mà còn
cho cả nhân loại "không có gì quý hơn độc lập tự do". Hồ Chí Minh khẳng
định bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Từ đó người
chỉ rõ địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân
dân là chủ thể của quyền lực ấy. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân
chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân. Trước khi đi xa người căn dặn Đảng ta phải
“Thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng. Phải củng cố tình đoàn kết và thương yêu lẫn nhau” 20
Làm thế nào để xây dựng nhà nước ta thành một nước dân chủ thực sự
vẫn làm Người trăn trở. Trong bản di chúc những hàng chữ cuối cùng trong
di chúc. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là:… xây dựng
nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp thế giới”. 21 cho ta thấy tư tưởng về dân
chủ là một trong những tư tưởng nổi bật trong 3 tác phẩm trên.
Tựu trung lại những luận điểm về dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện
trong 3 tác phẩm trên ở những điểm nổi bật sau đây:
Mục đích của cách mệnh là làm cho cách mệnh thành công để xây
dựng một xã hội dân chủ. Bàn bạc là để làm cho dân ai cũng được hưởng
quyền tự do, dân chủ. Thực hành dân chủ cũng có nghĩa là phát huy dân
chủ ngày càng đầy đủ, đúng đắn, thực chất hơn. Nó có tác dụng giải phóng
mọi tiềm năng sáng tạo của dân chúng. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì
mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên.
20
21
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, tập. 12, tr. 510
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, tập. 12, tr. 512
Nhờ vậy, dân chủ trở thành động lực của tiến bộ, của phát triển. Thực hành
dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh là một trong những giá trị nổi bật của
di sản tư tưởng mà Người để lại. Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ đã thể hiện sâu sắc lôgic trong tư duy của người
về dân chủ. Vì cuộc sống ấm no, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng, của cả cuộc đời phấn đấu hy sinh
của Người. Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh không chỉ được thể hiện trong 3
tác phẩm nêu trên của Người mà còn được thể hiện trên rất nhiều tác phẩm.
* Ý nghĩa lịch sử:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là sự phát triển các quan điểm về
dân chủ một cách sáng tạo, đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả những tư
tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
là sự đóng góp to lớn vào kho tàng tư tưởng lý luận của Đảng, góp phần vào
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công cuộc xây dựng nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một chủ đề rất hệ trọng, rộng lớn
đó là việc phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, vai trò
của một đảng cầm quyền lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành xây
dựng một nước dân chủ. Trong điều kiện đó, Đảng phải khắc phục nhiều
khuyết điểm, chứng bệnh, thói hư tật xấu, tiêu cực của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, mà ở giai đoạn trước khi giành chính quyền chúng chưa xuất
hiện hoặc chưa lộ rõ. Những biểu hiện này không chỉ gây khó khăn cho sự
nghiệp kháng chiến ở giai đoạn bước ngoặt khó khăn trọng đại có tính sống
còn của cả dân tộc. Chúng còn nguy cơ đe doạ làm thoái hoá, biến chất
chính bản chất cách mạng của Đảng, lý tưởng, mục tiêu và phẩm chất đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cùng với việc chỉ ra và phân
tích rõ khuyết điểm, Hồ Chí Minh cũng cũng tập trung nêu lên những biện
pháp toàn diện, đúng đắn, có tính hệ thống và đồng bộ để khắc phục khuyết
điểm là phải thực hành và phát huy dân chủ.
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ
trong 3 tác phẩm trên có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng
trước đây cũng như trong giai đoạn hiện nay. Nhờ sự chỉ dẫn kịp thời và
kiên quyết của Người, Đảng ta và đội ngũ Cán bộ, Đảng viên của chúng ta
khi ấy đã củng cố lực lượng, xiết chặt đội ngũ, chấn chỉnh kỷ luật, giữ vững
và tăng cường bản chất cách mạng, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo
đức của mình, tiếp tục giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo quần chúng
nhân dân, làm tốt nhiệm vụ cầm quyền thúc đẩy toàn quân, toàn dân tích
cực tham gia công tác, chiến đấu để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đến thắng lợi cuối cùng.
* Ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay:
Những tư tưởng về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn
còn nguyên giá trị thời sự nóng hổi đối với công cuộc Xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhiều vấn đề lý luận về dân chủ được Người đề cập cách đây rất
nhiều năm đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự mà chúng ta đang hướng tới như:
vấn đề tuyên truyền, giải thích về dân chủ, phát huy dân chủ, quyền làm
chủ trên thực tế của nhân dân …
Người đã để lại một kiểu mẫu về phương pháp truyền bá lý luận về
dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, hiệu quả, độc đáo
phù hợp với điều kiện lịch sử đương thời và cả hiện nay. Ý nghĩa to lớn có
sức cảm hóa hơn đó là sự thể hiện của tư tưởng đó trong hành động thực tiễn.
Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong thực hành dân chủ. Càng ở
cương vị cao bao nhiêu Hồ Chí Minh càng thể hiện dân chủ bấy nhiêu.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn trung thành
với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên
quan tâm xây dựng và thực hiện một nền dân chủ thực sự trên thực tiễn đất
nước ta. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã ban hành nhiều
chính sách kinh tế và xã hội nhằm không ngừng phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực xã hội. Trên thực tiễn, dân
chủ xã hội chủ nghĩa đã và đang vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài, vừa là nhu cầu cần thiết và
cấp bách của sự nghiệp cách mạng nước ta, nhất là trong công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay. Hơn lúc nào hết chúng ta phải quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ, phải "làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình". Do vậy, "thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".