Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Tăng cường thu hút FID của Malaysia vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.96 KB, 63 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực, xuất phát từ thực tế
của đơn vị thực tập.
Hà Nội, 03 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

APEC
ASEM

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương
Diễn đàn hợp tác Á – Âu

BOT

Hợp đồng xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao

BT



Hợp đồng xây dựng – Chuyển giao

BTO

Hợp đồng xây dựng – Chuyển giao - Kinh doanh

CNH – HĐH
ĐTNN

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

ĐTRNN

Đầu tư ra nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FII

Đầu tư nước ngoài

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

IMF

Quỹ tiền tệ thế giới


M&A

Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp

ODA

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức

UBHH

Ủy ban hỗn hợp

UNCTAD

Hội nghị liên hợp quốc tế về thương mại và phát
triển

WTO

Tổ chưc thương mại thế giới

TPP

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

EU

Liên minh Châu Âu

GDP


Tổng sản phẩm quốc nội

TNCs

Công ty xuyên quốc gia

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

4


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Tăng trưởng và phát triển là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới, là
thước đo về sự tiến bộ trong mỗi quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng
đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và
hội nhập với các phát triển. Mà thực trạng của các nước đang phát triển là tình
trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Trong đó vốn lại là điều kiện tiên quyết cho sự
tăng trưởng và phát triển cần phải huy động vốn từ bên ngoài.
Trong các đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay,
Malaysia vẫn luôn được đánh giá là một trong những nhà đầu tư quan trọng hàng
đầu và đầy tiềm năng đối với Việt Nam. Việc thu hút được nhiều và có các biện
pháp để sử dụng hiệu quả các dự án đầu tư FDI từ Malaysia sẽ đem lại cho Việt

Nam nhiều lợi ích lâu dài.
Để tiếp tục thu hút FDI của Malaysia, từ năm 2010, cũng như trong những
năm tiếp theo, hoạt động ngoại giao kinh tế của cơ quan Đại diện Việt Nam tại
Malaysia đã chú ý thu hút các dự án công nghệ hiện đại, thân thiện và tăng
cường sự liên kết giữa các khu vực; xúc tiến đầu tư vào các ngành, lĩnh vực tạo
ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, như công nghệ cao, cơ khí, công nghệ thông tin và
truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ môi trường và các ngành sử dụng
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật liệu mới… Bên cạnh đó, cũng có một số
lĩnh vực khác sẽ được tập trung thu hút đầu tư, như đầu tư vào các khu, cụm
công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp; chế biến và bảo quản sản phẩm nông
nghiệp, gồm cả thủy, hải sản. Các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng giao thông,

5


cũng như các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn như: y tế, giáo dục, đào
tạo cũng sẽ được ưu tiên, khuyến khích thu hút đầu tư.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên và qua thời gian thực tập tại Cục Đầu
tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch đầu tư, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tăng cường
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaysia vào Việt Nam” tìm hiểu thực
trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaysia vào Việt Nam. Từ đó, đưa ra một
số giải pháp từ phía nhà nước và từ phía các doanh nghiệp nhằm tăng cường thu
hút vốn FDI của Malaysia vào Việt Nam.
2.

Mục đích nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về tình hình thu hút vốn FDI từ
Malaysia vào Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp giúp tăng cường thu hút vốn

FDI phù hợp với định hướng của Nhà nước.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4.
-

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thu hút vốn FDI vào Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Các dự án có vốn FDI của Malaysia vào Việt Nam.
+ Về thời gian: từ 2010– 2015.
Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng cơ sở lý luận đã được nghiên cứu ở trường.
Thông kê các số liệu theo các chỉ tiêu số lượng, quy mô, cơ cấu đầu tư qua các

-

năm và phân tích mối quan hệ giữa chúng.
Áp dụng so sánh các chỉ tiêu tương ứng để đưa ra các nhận xét, nhìn nhận cụ

5.

thể.
Kết cấu của khóa luận.

-

Ngoài các phần như mở đầu, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu đồ
và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu sau:


6


Chương 1: Một số lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Malaysia
vào Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
Malaysia vào Việt Nam.

7


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
1.1. Khái niệm, đặc
1.1.1.
Khái niệm

điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau, hiện nay trên
thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI:
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy
ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó”. Phương diện
quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ
sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay gọi là “công
ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.

Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được hiểu là một khoản đầu tư với những
quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu
được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích
của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh
nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển UNCTAD đưa ra khái
niệm FDI trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài
là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc
thể nhân (nhà ĐTNN hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh
tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh
nghiệp).”

88


Từ một số khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại một quốc gia là việc
nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ một tài sản nào khác
vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một
thực thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
Như vậy, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là sự di chuyển
một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi
nhuận cao hơn. Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao hơn.
Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và trí thức kinh doanh nên hình
thức này thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước
nhận đầu tư.
Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngoài các đặc điểm vốn có của hoạt động đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.


còn có các đặc trưng khác:
- Nhà ĐTNN trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý, điều hành đối tượng
bỏ vốn. Đặc điểm này giúp phân biệt FDI với FII, cụ thể là: đối với FII thì nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp, mà chỉ góp vốn theo một
tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật.
- Các bên tham gia dự án FDI có quốc tịch khác nhau, văn hoá khác nhau,
đồng thời sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Do đó, trong các doanh nghiệp
FDI thường xảy ra những xung đột, mâu thuẫn do những khác biệt nói trên giữa
nhà đầu tư, lao động nước ngoài với nhà đầu tư và lao động nước sở tại.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự chi phối của đồng thời nhiều
hệ thống pháp luật, bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các Bên và
luật pháp quốc tế.
- FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có tính đặc thù. Đó là
việc hình thành các pháp nhân mới có yếu tố nước ngoài, hoặc là sự hợp tác có

99


tính đa quốc gia trong các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, BT…
hoặc tạo ra những khu vự đầu tư tập trung đặc biệt có yếu tố nước ngoài như:
khu chế xuất, đặc khu kinh tế mở…
- Hầu hết hoạt động ĐTNN đều gắn liền với 3 yếu tố: hoạt động thương mại,
chuyển giao công nghệ, di cư lao động quốc tế, chuyển giao kỹ năng quản lý
doanh nghiệp ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
- FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, chính sách
về đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi quốc gia tiếp nhận thể hiện chính sách
mở và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế về đầu tư của quốc gia đó.
1.2. Các hình thức FDI.
Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là cách thức nhà đầu tư ở một
nước có thể và được phép áp dụng để chuyển đổi quyền sở hữu vốn (bằng tiền

hoặc bất kỳ tài sản nào) của mình thành quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền
kiểm soát một thực thể kinh tế ở một nước khác. Với quan niệm này, mọi cách
thức huy động vốn FDI từ bên ngoài của nước chủ nhà hoặc các cách thức nhà
đầu tư sử dụng số vốn của mình nhằm đạt được quyền sở hữu và quản lý hoặc
quyền kiểm soát một thực thể kinh tế ở nước ngoài đều được xem là hình thức
đầu tư. Tùy vào mức độ sở hữu vốn của nhà đầu tư mà FDI tồn tại ở nhiều hình
thức khác nhau:
* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một văn bản được ký kết
giữa một chủ ĐTNN và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến
hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở
quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập
một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào.
Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài này có đặc điểm:
+ Cả hai bên cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký kết
giữa các bên về sự phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ.

10


+ Không thành lập một pháp nhân mới, tức là không cho ra đời một công ty
mới.
+ Thời hạn của hợp đồng hợp tác kinh doanh do hai bên thoả thuận, phù hợp
với tính chất hoạt động kinh doanh và sự cần thiết để hoàn thành mục tiêu của
hợp đồng.Vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải được đề cập trong văn
bản hợp đồng hợp tác kinh doanh.
* Hình thức doanh nghiệp liên doanh: doanh nghiệp liên doanh được thành
lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầu tư và một bên là các chủ
đầu tư ở nước khác tham gia. Một doanh nghiệp liên doanh có thể gồm hai hoặc
nhiều bên tham gia liên doanh. Đặc điểm của hình thức liên doanh này là:
+ Cho ra đời một doanh nghiệp mới, với tư cách pháp nhân mới và được

thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn.
+ Thời gian hoạt động, cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp liên doanh
được quy định tùy thuộc vào luật pháp cụ thể của mỗi nước.
+ Các bên tham gia liên doanh phải có trách nhiệm góp vốn liên doanh, đồng
thời phân chia lợi nhuận và rủi ro theo tỉ lệ góp vốn.
* Hình thức doanh nghiệp 100% vốn từ nước ngoài: Đây là hình thức các
doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và
do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh. Đặc điểm của các công ty này là:
+ Được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một
pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư.
+ Hoạt động dưới sự chi phối của Luật pháp nước nhận đầu tư.
* Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế,
mua lại và sáp nhập, công ty mẹ con, chi nhánh công ty nước ngoài, thực hiện
những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T), hợp đồng xây dựng
– chuyển giao – kinh doanh (B.T.O), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (B.T).

11


Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi
điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3.1. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn
đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Hầu hết các
nước đang phát triển đều rơi vào vòng luẩn quẩn đó là thu nhập thấp dẫn đến tiết
kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn
quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải vượt qua để hội nhập
vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói

bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác. Vốn ĐTNN đóng vai trò
như một “cú huých” phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. FDI bổ sung
nguồn vốn cho đầu tư khi mà tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Đối với các
nước nghèo và kém phát triển, nguồn vốn trong nước huy động được chỉ đáp ứng
hơn 50% tổng số vốn yêu cầu. Vì thế gần 50% số vốn còn lại phải được huy
động từ bên ngoài để bù đắp sự thiếu hụt đó.


Thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt là
dòng vồn FDI không ảnh hưởng đến nợ Chính Phủ. Vốn ĐTNN đóng vai trò như
một “cú huých” phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. FDI là nguồn quan
trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước nhận đầu
tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi
công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế
hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi
quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.

12




FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù hợp với
các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các dây
chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này sẽ cho
phép các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện
đại. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty
đa quốc gia) đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc từ nước khác sang
nước nhận đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ
quan chi phối, song điều không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao

này mà các nước chủ nhà nhận được những kỹ thuật tiên tiến cùng với nó là kinh
nghiệm quản lý, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ
kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động… Tuy nhiên, việc có tiếp cận
được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại từ các nước phát
triển lại tùy thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động môi trường đầu
tư hay không.


Thu hút vốn đầu tư FDI góp phần tạo công ăn việc làm cho địa phương

và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Khu vực có vốn FDI đã tạo ra chỗ
làm việc trực tiếp, ngoài ra còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động gián
tiếp trong lĩnh vực xây dựng, cung ứng nguyên liệu cho sản xuất…Góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm cho nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và chất
lượng; đồng thời tạo điều kiện khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên và góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.


Với các nước đang phát triển thì FDI giúp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
phá vỡ cơ cấu sản xuất khép kín theo kiểu tự cung tự cấp. Đầu tư sẽ góp phần
giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những
vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa những lợi

13


thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị… Cơ cấu ngành, cơ cấu công
nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều
hướng ngày càng đáp ứng tốt hớn các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước.

Tuy vậy, FDI cũng có mặt trái, đó là:


Nhà ĐTNN có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc

lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài. Thông qua các
công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu
thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước
này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì
sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn. Và
nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của
nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác.


Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của các nhà

đầu tư, mà nhiều khi nó không theo ý muốn của nước tiếp nhận đầu tư. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc chủ động trong bố trí cơ cấu đầu tư bị hạn chế. Nước
nhận đầu tư khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và theo
vùng lãnh thổ, vì chủ đầu tư quốc tế chỉ quan tâm đến lợi nhuận.


Hiệu quả chuyển giao công nghệ chưa cao. Các công nghệ được chuyển

giao thông qua con đường FDI thường là những công nghệ không mới, ít nhiều
đã lạc hậu so với thế giới và so với nước đi đầu tư. Còn các công nghệ mới mà
nước đi đầu tư có khả năng khai thác hiệu quả trong nước thì họ không thực hiện
chuyển giao do sợ bị cạnh tranh. Ngoài ra, hoạt động chuyển giao cũng diễn ra

14



chậm và nhiều khi không nghiêm túc so với chuyển giao công nghệ thông qua
các dự án ODA.


Tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong

nước. Nếu chính sách, pháp luật cạnh tranh không đầy đủ còn dễ dẫn tới tình
trạng doanh nghiệp nước ngoài chèn ép doanh nghiệp trong nước. Có thể dẫn
đến suy giảm sản xuất hay là tác nhân làm phá sản các doanh nghiệp trong nước
vì họ là đối thủ cạnh tranh giàu kinh nghiệm và quá mạnh về tiềm lực kinh tế.


Ngoài ra, FDI còn có các tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế nước

tiếp nhận mà nhà nước rất khó hoặc chưa đủ khả năng để quản lý như: hiện
tượng trốn thuế, hành vi gian lận trong kinh doanh, khai thác cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường.
1.3.2.


Đối với nước đầu tư.

Nước đi đầu tư có thể tận dụng được lợi thế so sánh của nước nhận đầu

tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong
nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản.
Bằng ĐTRNN, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận
đầu tư để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất

hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của
vốn đầu tư.


Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ.

Thông qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một
phần các sản phẩm công nghiệp (phần lớn là các máy móc thiết bị) ở giai đoạn
cuối của chu kỳ sống của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng
chúng như là sản phẩm mới ở các nước này hoặc ít ra cũng như các sản phẩm

15


đang có nhu cầu trên thị trường nước nhận đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì
được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho các nhà đầu tư.


Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư có thể mở rộng

thị trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất
khẩu sản phẩm là máy móc thiết bị sang đây để góp vốn và xuất khẩu sản phẩm
tại đây sang các nước khác (do chính sách ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất
hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn ĐTNN), nhờ đó mà giảm được giá thành
sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập từ các nước.


Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khuyến khích xuất khẩu của nước đi đầu


tư. Cùng với việc đem vốn đi đầu tư sản xuất ở các nước khác và nhập khẩu sản
phẩm đó về nước với một số lượng lớn sẽ làm cho đồng nội tệ tăng. Điều này sẽ
ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ có xu hướng
giảm dần. Sự giảm tỷ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản
xuất trong nước tăng cường xuất khẩu, nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, FDI cũng có những bất cập đối với nước chủ đầu tư, đó là:


Khi các doanh nghiệp thực hiện việc ĐTRNN thì trong nước sẽ mất đi

khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng như
giải quyết việc làm. Do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái, vì thế mà
nước chủ nhà không đưa ra những chính sách khuyến khích cho việc đầu
ĐTRNN.


ĐTRNN thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong

môi trường mới về chính trị, sự xung đột vũ trang của các tổ chức trong các quốc
gia hay những tranh chấp nội bộ của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự thay đổi
trong chính sách và pháp luật của quốc gia tiếp nhận… tất cả những điều đó đều

16


khiến cho các doanh nghiệp có thể rời vào tình trạng mất tài sản cơ sở hạ tầng.
Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về chính trị cũng như
trong chính sách và môi trường kinh tế.
1.4. Hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.4.1. Khái niệm của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp


nước ngoài
Cùng với hoạt động ngoại thương, các hoạt động thu hút FDI trên thế giới

đang ngày càng phát triển mạnh mẽ với nhiều phương pháp, hình thức tuỳ thuộc
vào đặc điểm của từng quốc gia. Các phương pháp và hình thức đó chung quy lại
cũng là quá trình xây dựng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều
kiện không những cho vốn ĐTNN mà cả vốn đầu tư trong nước (phần vốn góp
của nước sở tại trong liên doanh) cũng được thực hiện một cách thuận lợi và hiệu
quả. Về bản chất, thu hút FDI chính là hình thức nhập khẩu vốn (đối với nước
tiếp nhận đầu tư) và xuất khẩu vốn (đối với nước ĐTRNN), một hình thức cao
hơn xuất nhập khẩu hàng hoá.

17


1.4.2.
1.4.2.1.


Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút FDI
Các nhân tố từ nhà đầu tư
Xu hướng và chiến lược ĐTRNN của nước nhà đầu tư.
Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có
sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra
bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI.
Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án
thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để
phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu

và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh
hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của
họ. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á trong thời gian qua
đã làm giảm tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút



vốn hoặc không đầu tư nữa vì sợ rủi ro cao.
Quan hệ kinh tế - chính trị của nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
Hoạt động đầu tư còn phụ thuộc không nhỏ và quan hệ chính trị kinh tế của
nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Các hoạt động đối ngoại sôi nổi sẽ góp
phần tạo xung lực, đưa quan hệ kinh tế với các đối tác đi vào chiều sâu, phục vụ
thiết thực và hiệu quả cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mối
quan hệ kinh tế - chính trị tốt đẹp lâu dài giữa hai quốc gia sẽ là nhân tố thúc đẩy
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của hai nước. Nước tiếp nhận đầu tư có
thể đưa ra nhiều chính sách ưu đãi và tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã chủ động tham gia tích cực và
tranh thủ các diễn đàn quốc tế như APEC, ASEM, ASEAN… để thúc đẩy các
nội dung hợp tác có ý nghĩa thiết thực đối với Việt Nam như đàm phán thiết lập
các khu mậu dịch tự do, phát triển bền vững hỗ trợ kết nối và thu hẹp khoảng

18


cách phát triển, kinh tế biển bảo vệ môi trường và nguồn nước; nỗ lực cùng các
1.4.2.2.

nước ASEAN thúc đẩy xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN…
Các nhân tố từ nước nhận đầu tư


Nhân tố chính trị.
Đối với nhân tố chính trị, đây là vấn đề được quan tâm đầu tiên của các nhà
ĐTNN khi có ý định đầu tư vào một nước mà đối với họ còn nhiều khác biệt.
Khi đó một đất nước với sự ổn định và nhất quán về chính trị cũng như an ninh
và trật tự xã hội được đảm bảo sẽ bước đầu tạo cho nhà đầu tư tâm lý yên tâm
tìm kiếm cơ hội làm ăn cũng như có thể định cư lâu dài. Môi trường chính trị ổn
định là điều kiện tiên quyết để kéo theo sự ổn định của các nhân tố khác như
kinh tế, xã hội. Đó cũng chính là lý do tại sao các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư
vào một nước lại coi trọng yếu tố chính trị đến vậy.

Nhân tố pháp lý.
Pháp luật và bộ máy hành pháp có liên quan đến việc chi phối hoạt động của
nhà đầu tư ngay từ khi bắt đầu tìm kiếm cơ hội đầu tư cho đến khi dự án kết thúc
thời hạn hoạt động. Đây là yếu tố có tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến
hoạt động đầu tư. Nếu môi trường pháp lý và bộ máy vận hành nó tạo nên sự
thông thoáng, cởi mở và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như sức hấp dẫn và
đảm bảo lợi ích lâu dài cho các nhà đầu tư thì cùng với các yếu tố khác, tất cả sẽ
tạo nên một môi trường đầu tư có sức thu hút mạnh đối với các nhà ĐTNN.

Nhân tố kinh tế.
Đối với nhân tố kinh tế, bất cứ quốc gia nào dù giàu hay nghèo, phát triển
hoặc đang phát triển đều cần nguồn vốn nước ngoài để phát triển kinh tế trong
nước tùy theo các mức độ khác nhau. Những nước có nền kinh tế năng động, tốc
độ tăng trưởng cao, cán cân thương mại và thanh toán ổn định, chỉ số lạm phát
thấp, cơ cấu kinh tế phù hợp thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ cao.

Nhân tố văn hóa - xã hội.

19



Môi trường văn hóa – xã hội ở nước nhận đầu tư cũng là một vấn đề được
các nhà đầu tư rất chú ý và coi trọng. Hiểu được phong tục tập quán, thói quen,
sở thích tiêu dùng của người dân nước nhận đầu tư sẽ giúp cho nhà đầu tư thuận
lợi trong việc triển khai và thực hiện một dự án đầu tư. Thông thường mục đích
đầu tư là nhằm có chỗ đứng hoặc chiếm lĩnh thị trường của nước sở tại với kỳ
vọng vào sức tiêu thụ tiềm năng của nó. Chính vì vậy, mà trong cùng một quốc
gia, vùng hay miền nào có sức tiêu dùng lớn, thu nhập bình quân đầu người đi
kèm với thị hiếu tiêu dùng tăng thì sẽ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn.

Nhân tố cơ sở hạ tầng và chất lượng lao động.
Để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được hiện thực hóa và đi vào hoạt động
đòi hỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư phải đảm bảo một cơ sở hạ tầng đủ để đáp ứng
tốt nhất các nhu cầu đầu tư kể từ lúc bắt đầu triển khai, xây dựng dự án cho đến
giai đoạn sản xuất kinh doanh khi dự án đi vào hoạt động. Đó là cơ sở hạ tầng
công cộng như giao thông, liên lạc… các dịch vụ đảm bảo cho sinh hoạt và sản
xuất như điện, nước cũng như các dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh như ngân hàng - tài chính. Bên cạnh đó nước sở tại cũng cần quan tâm
đến việc trang bị một cơ sở hạ tầng xã hội tốt, đào tạo đội ngũ chuyên môn có
tay nghề, nâng cao trình độ nhận thức cũng như trình độ dân trí của người dân,
luôn ổn định tình hình trật tự an ninh - xã hội, có như vậy mới tạo nên sức hấp
dẫn lớn đối với các nhà ĐTNN.
1.5. Sự

cần thiết thu hút FDI đối với các nước đang phát triển
Đối với một nước đang phát triển, nền kinh tế đang cần nhiều vốn,
công nghệ để phát triển hơn thì nguồn vốn FDI là một trong những sự lựa chọn




hàng đầu. Bởi vì những lý do chính sau đây:
Thứ nhất, thu hút vốn đầu tư FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là quá trình phát triển của ngành kinh tế dẫn đến sự tăng

20


trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi tương quan giữa chúng so với
một thời điểm trước đó. Đầu tư chính là phương tiện đảm bảo cho cơ cấu kinh tế
được hình thành hợp lý. Vốn đầu tư FDI chủ yếu đầu tư vào các ngành công
nghiệp, dịch vụ, từ đó giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo
hướng CNH - HĐH. Hoạt động thu hút vốn đầu tư FDI còn tác động mạnh mẽ
đến chuyển dịch cơ cấu vùng, hình thành và phát huy vai trò của vùng trọng
điểm, đồng thời tăng cường tiềm lực kinh tế cho các vùng khó khăn, thúc đẩy
mối liên hệ, giao lưu kinh tế liên vùng, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.
Định hướng và biện pháp thu hút vốn đầu tư FDI hợp lý còn tác động đến cơ
cấu thành phần kinh tế, và tác động đến mối quan hệ giữa đầu tư khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân. Đầu tư công cộng của nhà nước phải có tác động lôi


kéo, dẫn dắt mà không làm suy giảm lấn át đầu tư tư nhân.
Thứ hai, thu hút vốn đầu tư FDI góp phần tăng cường khoa học kỹ thuật và nâng
cao năng lực quản lý điều hành kinh doanh: Thu hút vốn đầu tư FDI sẽ làm cho
trình độ khoa học được tăng lên thông qua các dự án đầu tư được triển khai,
thay thế các thiết bị công nghệ lạc hậu. Đối với các nước đang phát triển, mặc
dù tích lũy vốn và công nghệ thấp nhưng cũng có những lợi thế của người đi sau
tiếp thu, thích nghi và làm chủ công nghệ có sẵn, do đó rút ngắn thời gian và
giảm rủi ro trong áp dụng công nghệ mới. Đồng thời thu hút vốn đầu tư FDI sẽ
góp phần nâng cao được trình độ quản lý, năng lực điều hành của một số nhà




doanh nghiệp.
Thứ ba, thu hút vốn đầu tư FDI góp phần tạo công ăn việc làm cho địa phương
và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thu hút vốn đầu tư FDI còn góp
phần tạo ra công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm cho nguồn nhân lực
phát triển cả về số lượng và chất lượng; đồng thời tạo điều kiện khai thác có
hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và góp phần tăng thu ngân sách nhà
nước.

21


KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Chương 1 đã đi sâu tìm hiểu lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài,
bước đầu nhận thức được khái niệm đúng đắn về FDI, bản chất, đặc điểm cũng
như các hình thức của FDI. Từ đó thấy được những nhân tố tác động dẫn đến
tăng cường thu hút hay cản trở việc đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự cần thiết
phải thu hút nguồn vốn này của nước đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư.

22


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI TỪ MALAYSIA VÀO
VIỆT NAM
2.1.
2.1.1.

SƠ LƯỢC VỀ MALAYSIA

Về tình hình kinh tế Malaysia
Malaysia đã biến đổi từ một nước chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô (cao su,
thiếc) những năm 1970 trở thành một trong những nền kinh tế mạnh nhất, đa
dạng hóa nhất và tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Các ngành sản xuất
chính trước đây vẫn giữ vai trò quan trọng: Malaysia là nước sản xuất hàng đầu
thế giới về cao su và dầu cọ, xuất khẩu một lượng lớn dầu mỏ và khí đốt đồng
thời là một trong những nguồn cung cấp gỗ cứng công nghiệp lớn nhất thế giới.
Malaysia chủ yếu chú trọng đến các ngành sản xuất xuất khẩu để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Tận dụng lợi thế cạnh tranh của nguồn lao động tương đối rẻ
có chất lượng khá cao, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, chính trị ổn định và
đồng tiền yếu, Malaysia đã và đang thu hút được luồng đầu tư nước ngoài lớn,
đặc biệt là từ Nhật Bản và Đài Loan. Nguồn lực trọng tâm phát triển kinh tế là
ngành công nghiệp sản xuất hàng điện tử, điện lạnh và dệt may, những nguồn thu
chủ yếu của xuất khẩu. Sự thành công của việc đẩy mạnh phát triển các ngành
sản xuất được thể hiện qua sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp nặng điển
hình là luyện thép và chế tạo ô tô.
Hiện nay, Malaysia nổi bật là một trong những nước phát triển kinh tế thành
công tại Châu Á. Từ một nước nông nghiệp khi mới độc lập với sản phẩm cao su
và thiếc chiếm một nửa GDP, Malaysia đã trở thành một nước có nền kinh tế mở
và đa dạng.
GDP bình quân đầu người cao gấp 7 lần so với năm 1980 (theo sức mua) và
Malaysia đã trở thành một trong những quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế
giới thông qua thương mại. Phân phối thu nhập giữa những nhóm bản địa cũng

23


đã được cải thiện vượt bậc kể từ năm 1960. Malaysia hiện giờ là nền kinh tế giàu
thứ hai trong khối ASEAN, đứng sau Singapore. Malaysia đặt mục tiêu sẽ trở
2.1.2.


thành nước có thu nhập cao vào năm 2020.
Về tình hình đầu tư ra nước ngoài của Malaysia
Các công ty của Malaysia đã bắt đầu ĐTRNN từ những năm 70, tuy nhiên
chỉ từ đầu thập kỉ 90, dòng vốn ĐTRNN của nước này mới thật sự trở thành
điểm đáng chú ý của nền kinh tế nước này. Malaysia đang nổi lên như là nhà đầu
tư lớn thứ 5 trong số các quốc gia đang phát triển của khu vưc châu Á
(UNCTAD). Dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Malaysia đã tăng từ 0,45 tỷ RM
trong năm 1980 lên đến 10,41 tỷ RM năm 1997 và đạt tới 36,7 tỷ RM năm 2007.
Lần đầu tiên trong năm 2007, dòng vốn ĐTRNN của Malaysia cao hơn dòng vốn
thu hút vào trong nước. Xu hướng này tiếp tục được giữ trong những năm tiếp
theo. Tuy nhiên đến năm 2008 nguồn vốn Malaysia đầu tư vào các nước ASEAN
sụt giảm nhanh chóng chỉ còn 6,5 tỷ RM (chiếm 4,56%). Ngay cả tỉ trọng vốn
ĐTRNN của Malaysia vào một số đối tác quan trọng khác cũng giảm mạnh như:
Hong Kong, Nhật Bản, EU-15. Malaysia đầu tư ra nước ngành chủ yếu vào các
ngành dịch vụ, tiện ích, sản xuất chế tạo, sản xuất dầu và khí đốt. Những ngành
này chiếm đến khoảng 92% vốn đầu tư của Malaysia ra nước ngoài.

2.2.
2.2.1.

Mối quan hệ Malaysia và Việt Nam
Mối quan hệ ngoại giao Việt nam- Malaysia
Ngày 30.3.1973, Việt Nam và Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan
hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp trên nhiều
lĩnh vực. Năm 1976, hai nước lập đại sứ quán ở thủ đô mỗi nước. Quan hệ hai
nước băng giá khi ta đưa quân vào Campuchia (1979). Từ cuối năm 1991, cùng
với chuyển biến chung của cục diện quốc tế và khu vực, đặc biệt là việc ký Hiệp

24



định Paris về Campuchia, cũng như việc ta triển khai chính sách đối ngoại đa
phương hoá, đa dạng hoá, quan hệ Việt Nam - Malaysia đã chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới về chất và ngày càng được củng cố và phát triển trên nhiều
lĩnh vực cả song phương cũng như trong khuôn khổ ASEAN. Năm 1994 hai
nước thiết lập quan hệ Đảng cầm quyền. Tháng 2.1994, Hội Hữu nghị Việt-Mã,
Mã - Việt đã được lập ở mỗi nước. Tháng 9.1995, hai nước đã lập Uỷ ban hỗn
hợp (UBHH) Việt Nam - Malaysia. UBHH đã họp 3 kỳ (tại Kuala Lumpur tháng
9.1995, tại Hà Nội tháng 10.1996, tại Kuala Lumpur tháng 3.2003 và tại Hà Nội
từ 9-10.3.2006). Quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước đang phát
triển tốt đẹp. Hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao và các cấp, các ngành.
Các hoạt động trao đổi kinh tế, văn hóa liên tục diễn ra hàng năm. Năm 2013, hai
nước tổ chức kỉ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Malaysia.
Đến nay hai nước đã ký 13 Hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực như kinh tế,
thương myại, khoa học kỹ thuật, hàng không, đầu tư, bưu điện và viễn thông,
ngân hàng, du lịch, thanh niên, thể thao.
2.2.2. Mối quan hệ kinh tế Việt nam- Malaysia
Từ 1991 đến nay, Malaysia luôn là một trong những đối tác thương mại và
đầu tư lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng trung
bình 25%/năm, tổng kim ngạch hai chiều năm 2010 đạt 5,5 tỷ USD; năm 2011
đạt hơn 6,7 tỷ USD; năm 2012 đạt 7,91 tỷ USD và tiếp tục tăng đến năm 2015
ghi nhận được tổng kim ngạch đạt 9,04 tỉ USD. Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia
chủ yếu là: Máy vi tính, sản phẩm điện tử; xăng dầu; hóa chất; hàng điện gia
dụng; nguyên phụ liệu dệt may; khí đốt và quặng khoáng sản…

25



×