Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tổ chức, hoạt động của chính quyền thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH XUÂN HẬU

TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN
THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH XUÂN HẬU

TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN
THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã đƣợc chỉ rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Tác giải luận văn

Đinh Xuân Hậu


LỜI CẢM ƠN
Thật vinh dự cho cá nhân em khi đƣợc tham gia học tập tại Học viện Hành
chính Quốc gia Em xin trân trọng bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn tới các thầy,
cô giáo tại Học viện hành chính quốc gia, đặc biệt là PGS.TS. Vũ Đức Đán - Khoa
Nhà nƣớc và Pháp Luật, Học viện Hành chính Quốc gia, đã nhiệt tình hƣớng dẫn,
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại học viện cũng nhƣ quá trình thực hiện,
hoàn thiện luận văn cao học về nội dung "Tổ chức, hoạt động chính quyền thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc "
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhƣng do thời gian và năng lực có hạn, chắc
chắn luận văn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp
quý báu của các thầy, các cô.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày… tháng … năm 2016

Tác giải luận văn

Đinh Xuân Hậu


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHXHCN

:

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

TAND

:

Tòa án nhân dân

UBHC

:

Ủy ban hành chính


UBKCHC

:

Ủy ban kháng chiến hành chính

UBMTTQ

:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

CQCM

:

Cơ quan chuyên môn

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG
CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH ................... 7
1.1NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG ................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm chính quyền địa phƣơng....................................................................... 7
1.2.1 Tính chất đặc điểm của chính quyền địa phƣơng................................................ 9
1.1.3. Vị trí vai trò của chính quyền địa phƣơng .........................................................13

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐÔ THỊ ........................................................................................... 16
1.2.1. Khái niệm, vị trí, tính chất, vai trò đô thị...........................................................16

1.2.2. Đặc điểm, Phân loại của đô thị........................................................... 20
1.2.3 Tổ chức, hoạt động của chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh ....................30

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 45
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN TỈNH VĨNH PHÚC ......................... 46
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VỀ TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH QUA CÁC
THỜI ..................................................................................................................................46


2.1.1 Giai đoạn 1945 -1959............................................................................ 46
2.1.2. Giai đoạn 1959 - 1980.......................................................................... 47
2.1.3. Giai đoạn 1980 - 1992.......................................................................... 48
2.1.4. Giai đoạn 1992 đến năm 2015: ........................................................... 50
2.2. TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ
VĨNH YÊN TỈNH VĨNH PHÚC .................................................................. 54
2.2.1 khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội ........................................................ 54


2.2.2 Tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố Vĩnh Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................... 57
2.2.3. Tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh
Vĩnh Phúc ....................................................................................................... 63
2.2.4 Những ƣu điểm, hạn chế bất cập về tổ chức, hoạt động của chính quyền
thành phố Vĩnh Yên .........................................................................................................77

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 86
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG
BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN Ở TỈNH VĨNH PHÚC
HIỆN NAY ........................................................................................................................87
3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................................87

3.2 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG BỘ MÁY
CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN TỈNH VĨNH PHÚC .......... 91
3.2.1 Giải pháp đối với Chức năng nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức
và bố trí nhân sự của chính quyền thành phố Vĩnh Yên phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội với đặc thù của địa phƣơng. ...................................... 91
3.2.2 Giải pháp đối với xây dựng mô hình chính quyền thành phố Vĩnh

Yên tinh gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu quả trong hoạt động ...... 93
3.3.3 Giải pháp đối với phân cấp quản lý, thẩm quyền cho chính quyền
thành phố Vĩnh yên. .................................................................................... 103
3.4.4 Giải pháp tăng cƣờng công tác kiểm tra thanh tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật ở thành phố Vĩnh Yên .............................................. 106
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 109
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110


1
Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, việc cải cách bộ máy nhà nƣớc và cải cách nền
hành chính nhà nƣớc đƣợc Đảng và nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm.Các chủ chƣơng,
chính sách và các nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật đƣợc đƣa ra bƣớc đầu đã
phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của việc cải cách.Tuy vậy cải cách hành chính tiến
hành còn chậm, thiếu kiên quyết và hiệu quả còn thấp. Tình hình này do có nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Về mặt khách quan khi chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, còn nhiều vấn đề lý luận về chức năng nhà nƣớc, xây dựng bộ máy nhà nƣớc
nói chung, bộ máy chính quyền địa phƣơng nói riêng, đặc biệt bộ máy chính quyền
thành phố trực thuộc tỉnh chƣa đƣợc làm sáng tỏ, đòi hỏi cần phải tìm tòi, thử
nghiệm và qua thực tiễn để khẳng định. Về mặt chủ quan chƣa có quyết tâm cao,
còn bị những lực cản trong quá trình cải cách hành chính từ phía các cán bộ, công
chức nhà nƣớc ở nhiều cấp, nhiều ngành.
Hiến pháp 1992 đã đƣợc sửa đổi bổ sung một số điều và hàng loạt Luật về
tổ chức bộ máy nhà nƣớc đã đƣợc ban hành, Hiến pháp 2013 đã đƣợc sửa đổi bổ
sung nhƣng vẫn chƣa có những thay đổi lớn và cơ bản về mô hình tổ chức bộ máy
nhà nƣớc, tuy có một số thay đổi, nhƣng nhìn chung vẫn nhƣ trƣớc đây. Luật Tổ
chức chính quyền địa phƣơng đƣợc Quốc hội thông qua năm 2015 đã có mục dành

cho Chính quyền đô thị và Chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh, tuy nhiên về mặt
tổ chức chính quyền đô thị thành phố trực thuộc tỉnh vẫn là chính quyền cơ sở, điều
đó có nghĩa về mặt pháp lý vẫn chƣa có thay đổi nhiều về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phƣơng ở cả nông thôn và đô thị.
Trong khi đó tốc độ phát triển nhanh của khu vực đô thị cùng với tăng
trƣởng kinh tế nhanh qua hơn hai thập kỷ nên nhiều thành phố trực thuộc tỉnh đƣợc
thành lập, dẫn đến có nhiều quy định, tổ chức bộ máy, năng lực quản lý trở nên lạc
hậu với thực tiễn. Quá trình đô thị, thành phố hóa ở Việt Nam diễn ra đồng thời với
quá trình chuyển đổi nền kinh tế, thể chế kinh tế - chính trị và hiện đại hóa về nhiều


2
mặt. Cơ sở để quản lý là hệ thống luật pháp và công cụ quản lý theo thị trƣờng
chƣa hoàn thiện còn nhiều thiếu sót, bất cập. Hệ thống quản lý thành phố đô thị
chƣa từng đƣợc phát triển riêng mà cùng chung thiết kế với quản lý lãnh thổ bao
gồm cả nông thôn. Quá trình chuyển đổi về nhiều mặt dẫn đến sự điều chỉnh không
theo kịp yêu cầu thực tiễn, nhất là trong bối cảnh phát triển nhanh nhƣ hiện nay. Sự
suy giảm về chất lƣợng môi trƣờng, sự phân hóa nhanh chóng về nhóm thu nhập và
gia tăng ngƣời nghèo, chênh lệch trình độ phát triển và chất lƣợng sống càng cao
giữa các vùng miền, sự suy kiệt các nguồn tài nguyên tái tạo, sự mất mát các di sản
văn hóa và cảnh quan tự nhiên, sự gia tăng tội phạm có tổ chức, sự thiếu hụt nguồn
lực quản lý kết cấu hạ tầng, sự chăm sóc các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng, và sự suy
thoái đạo đức và liên kết hòa hợp trong xã hội đã phản ánh sự bất cập trong quản lý
khu vực công tại các đô thị. Có thể nói tốc độ phát triển nhanh, đặc biệt là các đô
thị lớn trong gần 30 năm qua là thách thức rất lớn cho quá trình đổi mới hệ thống
chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh ở nƣớc ta hiện nay.
Thành phố trực thuộc tỉnh ở bất kỳ quốc gia nào và ở bất kỳ thời đại nào đều
là những trung tâm chính trị-kinh tế-xã hội của tỉnh, của vùng, hoặc của từng đơn
vị hành chính lãnh thổ có những đặc thù riêng, vai trò quản lý nhà nƣớc riêng của
nó. Quá trình đô thị hóa ở nƣớc ta đang diễn ra với quy mô lớn và tốc độ

nhanh.Việc đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh là vấn
đề cấp bách để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, giải quyết các vấn đề phức tạp
của quản lý ở thành phố trực thuộc tỉnh nƣớc ta hiện nay. Từ đó đòi hỏi cần phải
xây dựng chính quyền thành phố trục thuộc tỉnh phù hợp và chuyên biệt là một xu
thế tất yếu.
Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã và đang rất quan tâm đến việc hoàn
thiện, đổi mới mô hình tổ chức, phƣơng thức quản lý của chính quyền địa phƣơng
các cấp nói chung cũng nhƣ của chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh nói riêng.
Nghị quyết trung ƣơng 3 (khóa VII) đã xác định: “Nghiên cứu phân biệt sự khác
nhau giữa hoạt động của Hội đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính đô thị
với hoạt động của Hội đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở nông


3
thôn...”; Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục đặt ra yêu cầu “Điều chỉnh cơ cấu
chính quyền địa phƣơng cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ.
Phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn để
tổ chức bộ máy phù hợp” và “Tổ chức hợp lý chính quyền địa phƣơng, phân định
lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo”; Nghị quyết trung
ƣơng 5 (khóa X) đặt ra mục tiêu: Tổ chức hơp lý chính quyền địa phƣơng, phân
biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn và tổ
chức chính quyền đô thị phải đảm bảo tính thống nhất và liên thông trên địa bàn...”.
Ban Chỉ đạo Trung ƣơng xây dựng Đề án thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô
thị cũng đã đƣợc thành lập theo Quyết định số 192/QĐ-TTg, ngày 25/02/2012 của
Thủ tƣớng Chính phủ.
Đây là những vấn đề đƣợc quan tâm, nhƣng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Cho đến nay, vẫn chƣa có một mô hình cụ thể, khả thi trong bối cảnh vai trò, vị trí
của đô thị, cấu trúc của chính quyền đô thị chƣa đƣợc hoàn thiện, chƣa phù hợp.
Tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc tái lập từ tỉnh Vĩnh Phú, thành phố Vĩnh Yên trở lại là
tỉnh lỵ, thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc, Chính quyền Thành phố Vĩnh yên nói

riêng, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc nói chung. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức, hoạt
động của chính quyền Thành phố Vĩnh yên nói riêng, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc
nói chung những năm qua và yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới cho thấy tổ chức,
hoạt động của chính quyền thành phố Vĩnh Yên hiện hành đã bộc lộ những hạn chế
nhất định nhƣ chƣa thể hiện rõ sự phân cấp cho chính quyền thành phố Vĩnh Yên
thẩm quyền trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể trong hoạt động của chính quyền
thành phố Vĩnh Yên còn một số nội dung chƣa đƣợc làm rõ, mô hình tổ chức bộ
máy và phƣơng thức hoạt động của chính quyền thành phố Vĩnh Yên nhiều điểm
chƣa hợp lý làm hạn chế hiệu quả hoạt động của chính quyền. Mặt khác, xuất phát
từ yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng, của quá trình hội nhập kinh tế cũng nhƣ chủ
trƣơng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân,
công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia đòi hỏi phải đổi mới toàn diện cả về nội
dung và hình thức đối với tổ chức, hoạt động của chính quyền thành phố Vĩnh yên .


4
Trong bối cảnh nhƣ vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện tổ chức, hoạt động của
chính quyền thành phố Vinh Yên trong giai đoạn hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận,
vừa có tính thực tiễn cấp thiết. Chính vì vậy đề tài "Tổ chức, hoạt động của chính
quyền thành phố Vĩnh yên, tỉnh Vĩnh phúc" đƣợc chọn làm luận văn thạc sĩ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, vấn đề cải cách, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính
quyền địa phƣơng nói chung cũng nhƣ chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh nói
riêng đã và đang đƣợc quan tâm nghiên cứu thông qua các đề tài khoa học cấp nhà
nƣớc, cấp bộ, sách chuyên khảo, bài viết trên các tạp chí nghiên cứu, luận văn, luận
án:

- Các đề tài khoa học và sách chuyên khảo nhƣ: “Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chính quyền địa phƣơng ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Lê Minh
Thông; “Thực trạng việc tổ chức đơn vị hành chính Việt Nam, những vấn đề đang

đặt ra và phƣơng hƣớng đổi mới” của PGS.TS Bùi Xuân Đức; “Nghiên cứu mô
hình chính quyền đô thị một cấp ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải; “Tổ
chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thành phố trực thuộc trung ƣơng” của
TS. Vũ Đức Đán và TS. Lƣu Kiếm Thanh, do NXB Thống kê phát hành năm 2000;
“Đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thành phố trong
giai đoạn hiện nay” của TS. Vũ Đức Đán...

- Các bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu nhƣ: Tạp chí cộng sản,
Nghiên cứu và lập pháp, Nhà nƣớc và pháp luật, Quản lý nhà nƣớc, Tổ chức nhà
nƣớc... của các nhà khoa học, quản lý về quá trình hình thành, phát triển và vấn đề
đổi mới chính quyền địa phƣơng; những vấn đề bức xúc trong thực tiễn và lý luận
tổ chức chính quyền địa phƣơng, phƣơng hƣớng đổi mới mô hình tổ chức chính
quyền đô thị hiện nay, đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND...

- Một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở Học viện Hành chính Quốc gia,
Đại Học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có đề cập đến vấn đề hoàn thiện chính
quyền địa phƣơng, chính quyền đô thị dƣới các góc độ khác nhau.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu nói trên đều xem xét về chính


5
quyền địa phƣơng, chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh ở bình diện chung, trong
một chừng mực nhất định có đề cập tới tổ chức bộ máy và hoạt động của chính
quyền thành phố trực thuộc tỉnh trên diện rộng hoặc về một chính quyền đô thị,
thành phố cụ thể nhƣng chƣa có công trình đi sâu nghiên cứu cụ thể về tổ chức, hoạt
đông bộ máy chính quyền của thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp với
điều kiện ở Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình triển khai đề tài " Tổ chức, hoạt động của chính quyền
thành phố Vĩnh yên, tỉnh Vĩnh phúc"tôi có kế thừa chọn lọc kết quả của các công
trình nghiên cứu nói trên.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu:
Nghiên cứu đề tài với mục tiêu là đƣa ra kiến nghị, đề xuất mang tính giải
pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh
Phúc phù hợp với điều kiện ở Việt Nam hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt mục tiêu trên, tôi đặt ra nhiệm vụ:
- Tìm hiểu về nguyên lý tổ chức chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh nói
chung và chính quyền thành phố Vĩnh Yên nói riêng làm cơ sở lý luận để đề xuất,
kiến nghị đổi mới chính quyền thành phố Vĩnh Yên.
- Xem xét quan điểm khác nhau về tổ chức bộ máy chính quyền đô thị thành
phố ở một số quốc gia trên thế giới để so sánh, phân tích.
- Chỉ ra những ƣu điểm và hạn chế của tổ chức bộ máy chính quyền thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay;
- Xem xét, đánh giá thực trạng, phân tích các điều kiện để bộ máy chính
quyền đô thị hoạt động hiệu quả và đƣa ra mô hình, những đề xuất mang tính giải
pháp nhằm đổi mới tổ chức bộ máy của chính quyền thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh
Phúc để phù hợp với điều kiện hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hệ thống thể chế về tổ chức bộ máy


6
chính quyền, các mô hình tổ chức, bộ máy chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh và
tổ chức, hoạt động của chính quyền Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2.Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức bộ máy
chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh, và đi sâu nghiên cứu chính quyền thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010 - 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
5.2. Phương pháp kỹ thuật: Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp:tra
cứu tài liệu, so sánh, tổng hợp, phân tích, đánh giá, hệ thống hóa...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn
để hoàn thiện về tổ chức và hoạt động chính thành phố trực thuộc tỉnh nói chung và
chính quyền thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Những kết luận, kiến
nghị đƣa ra trong luận văn có thể có ý nghĩa đối với việc tìm ra mô hình tổ chức và
phƣơng thức hoạt động hợp lí của chính quyền thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những cán bộ, công chức chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh và thành phố Vĩnh
Yên trong việc tìm hiểu cũng nhƣ áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật
trong tổ chức, hoạt động của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1 Cơ sở lý luận, pháp lý về tổ chức, hoạt động của chính quyền thành phố
trực thuộc tỉnh.
Chƣơng 2 Thực trạng tổ chức, hoạt động của thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Chƣơng 3 Quan điểm giải pháp hoàn thiện tổ chức, hoạt động bộ máy chính quyền
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH
1.1NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
1.1.1 Khái niệm chính quyền địa phƣơng

Trƣớc khi có Hiến pháp 2013 ở Việt Nam, nội hàm của khái niệm CQĐP đƣợc hiểu
về cơ bản theo hai nghĩa:
-Theo nghĩa hẹp (theo cách hiểu thông thường): Chính quyền địa phƣơng (CQĐP)
bao gồm Hội đồng nhân dân (HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND). Trong tổ chức bộ
máy nhà nƣớc ta, HĐND và UBND đƣợc tổ chức ở cả 3 cấp hành chính là Tỉnh - Huyện Xã. Quan niệm này bắt nguồn từ thực tiễn pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐP ở
nƣớc ta trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945): Hiến pháp và pháp luật
nƣớc ta khi quy định về CQĐP thƣờng đề cập 2 cơ quan là: HĐND và UBHC (UBND).
Từ tên chƣơng của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 đến tên của các Luật về
tổ chức CQĐP (trừ Luật năm 1958), CQĐP thường được hiểu chủ yếu và trước hết
gồm 2 cơ quan là HĐND và UBND hoặc Uỷ ban hành chính (UBHC).
- Theo nghĩa rộng, chính quyền địa phương là cơ quan tổ chức chính quyền
ở địa phƣơng không bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát (là những cơ quan thực hiện
quyền tƣ pháp). Ngoài ra, cũng không bao gồm các cơ quan của các Bộ, Ngành
trung ƣơng đóng ở địa phƣơng (công an, quân sự, hải quan, thuế…) vì những cơ
quan này là của các Bộ ngành trung ƣơng đặt ở địa phƣơng, do các cơ quan Bộ,
ngành ở trung ƣơng thành lập, bổ nhiệm, thủ trƣởng các cơ quan này và trực tiếp chỉ
đạo hoạt động của chúng [47]
Hiện nay về mặt chính thức, CQĐP đƣợc ghi nhận trong Chƣơng IX của
Hiến pháp 2013. Theo đó, “CQĐP là chính quyền được tổ chức ở các đơn vị hành
chính của Việt Nam” (Điều 111) và tại Điều 110 thì qui định “Các đơn vị hành
chính của nước ta bao gồm: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận,


8
thị xã, thành phố thuộc tỉnh, đơn vị hành chính tương đương; xã, phường, thị trấn
và ở đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt”.
Cụ thể hóa qui định của Hiến pháp, Luật Tổ chức CQĐP đã xác định “Chính
quyền địa phương là hệ thống các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước nhằm quản
lý mọi mặt của đời sống xã hội và làm nghĩa vụ chung với cả nước trên một đơn vị
hành chính, do nhân dân địa phương bầu ra hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền thành lập (Điều 2 luật TCCQĐP, 2015). Nhƣ vậy với khái niệm
này,CQĐP bao gồm cấp CQĐP và cả nhƣng nơi không có cấp CQĐP (nơi không tổ
chức HĐND – gọi là CQĐP không hoàn chỉnh).
Nhƣ vậy, theo Hiến pháp hiện hành thì có thể hiểu CQĐP theo các cách hiểu
sau:
- Ở mỗi đơn vị hành chính cũng có thể đƣợc coi là CQĐP, có điều qui chế
có khác nhau. Bởi theo Điều 111 của Hiến pháp 2013 thì chỉ qui định “CQĐP là
chính quyền được tổ chức ở các đơn vị hành chính của Việt Nam”. Qui định này cho
phép hiểu ở đơn vị hành chính đƣợc tổ chức chính quyền địa phƣơng và ở đây có
hai loại chính quyền địa phƣơng: CQĐP hoàn chỉnh và CQĐP không hoàn chỉnh;
- CQĐP cũng đƣợc hiểu là chính quyền đƣợc tổ chức ở tất cả các đơn vị
hành chính đó (theo nghĩa rộng nhất). Nghĩa là CQĐP là chính quyền đƣợc tổ chức
ở tất cả những nơi đó gọi chung là CQĐP. Điều này cho phép hiểu có hai loại chính
quyền: chính quyền trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng. Chính quyền địa
phƣơng là loại chính quyền đƣợc thiết lập cấp dƣới - các đơn vị hành chính của đất
nƣớc;
- Có thể CQĐP không có ở đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt vì thực chất
chính quyền địa phƣơng theo Hiến pháp đƣợc tổ chức ở các đơn vị hành chính
(Điều 111) trong khi đó đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt thì chắc chắn không phải
là đơn vị hành chính [34]
Nhƣ vậy, mặc dù còn nhiều tranh luận về thuật ngữ CQĐP theo Hiến pháp
2013, nhƣng về cơ bản Hiến pháp này cũng đã cho phép hiểu một cách linh hoạt về
tổ chức CQĐP địa phƣơng ở nƣớc ta.


9
1.2.1 Tính chất đặc điểm của chính quyền địa phƣơng
Quyền lực nhà nƣớc về bản chất là thống nhất, không có sự phân chia, dù
cho là kiểu nhà nƣớc nào và đƣợc tổ chức theo hình thức liên bang hay đơn nhất,
theo nguyên tắc phân quyền hay tập quyền, đƣợc phân cấp quản lý theo hình thức

phân quyền, tản quyền hay tập quyền. Nhƣng nhà nƣớc nào cũng phân chia lãnh thổ
thành các đơn vị hành chính để quản lý, và do đó chính quyền nhà nƣớc phải thiết
kế tƣơng ứng với các đơn vị hành chính lãnh thổ đẻ quản lý, từ đó dẫn đến khái
niệm chính quyền Trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng. Nhƣ vậy, khi nói đến
chính quyền Trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng là nói đến phạm vi, quyền hạn
giữa bộ máy cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng với bộ máy cơ quan chính quyền địa
phƣơng.
Tính thống nhất của quyền lực nhà nƣớc về phƣơng diện cấu trúc hành chính
lãnh thổ đòi hỏi bộ máy nhà nƣớc phải đƣợc tổ chức theo một hệ thống, thống nhất
đảm bảo tính liên thông của quyền lực từ trung ƣơng xuống địa phƣơng. Trong quan
hệ quyền lực theo đơn vị hành chính lãnh thổ, quyền lực nhà nƣớc phải đƣợc xác
định theo từng cấp đơn vị hành chính lãnh thổ theo các mục tiêu, mức độ phân cấp,
phân quyền giữa trung ƣơng và địa phƣơng, giữa các cấp hành chính lãnh thổ khác
nhau trong một quốc gia. Mặt khác yêu cầu của tổ chức quyền lực nhà nƣớc trong
một nhà nƣớc pháp quyền. Quyền lực không chỉ thống nhất mà còn phải đảm bảo
các yêu cầu cấp dƣới phụ thuộc cấp trên, chịu trách nhiệm trƣớc cấp trên, vừa phải
đảm bảo tính độc lập tự chủ của cơ cấu mỗi chính quyền trong mỗi cấp hành chính
lãnh thổ.
Bộ máy chính quyền địa phƣơng vừa là một hình thức tổ chức thể hiện quyền
lực nhà nƣớc là thống nhất ở địa phƣơng, vừa là hình thức tổ chức các cộng đồng
dân cƣ trong mỗi cấp hành chính - lãnh thổ để thực hiện quyền làm chủ của bản
thân mình. Nhƣ vậy xét về tính chất của chính quyền địa phƣơng đƣợc nhìn nhận
theo hai phƣơng diện có gắn bó với nhau.
Chính quyền địa phƣơng với ý nghĩa là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa
phƣơng, tức là trong quan hệ quyền lực của nhà nƣớc thống nhất, chính quyền địa


10
phƣơng là một bộ phận trong một hệ thống cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa
phƣơng. Sự khác nhau giữa nội hàm và ý nghĩa của tập hợp từ “ ở địa phương” và “

của điạ phương” là khác nhau rất cơ bản, vì thế cần đƣợc quán triệt hiểu sâu sắc
hơn quan điểm về tính thống nhất của quyền lực nhà nƣớc. mặt khác căn cứ vào
hiến pháp và luật tổ chức chính quyền địa phƣơng về vị trí, chức năng thẩm quyền
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể thấy rằng hoạt động của
chính quyền địa phƣơng xét trên bình diện thực thi quyền lực và loại hoạt động
mang tính chấp hành.
Chính quyền địa phƣơng không chỉ đại diện cho quyền lực nhà nƣớc ở địa ở
địa phƣơng mà còn đại diện cho lợi ích, ý chí nguyện vọng của các cộng đồng dân
cƣ trong một phạm vi lãnh thổ. Vì vậy chính quyền địa phƣơng ở mỗi cấp còn là
hình thức tổ chức thực hành dân chủ nhân dân của mỗi địa phƣơng và thật sự là một
tổ chức của nhân dân, do nhân, vì nhân dân trong mỗi phạm vi lãnh thổ cụ thể. Do
đó, việc tổ chức và vận hành chính quyền địa phƣơng ở mỗi cấp phải căn cứ vào
đặc điểm phạm vi và nhu cầu, khả năng thực hành dân chủ của các cộng đồng dân
cƣ trên địa bàn.
Chính quyền đại phƣơng với tƣ cách là hình thức thực hiện dân chủ của
nhân dân trong từng cấp hành chính – lãnh thổ mới đại diện đƣợc quyền lợi, ý chí
nguyện vọng của ngƣời dân, sâu sát gắn bó ngƣời dân, phục vụ đúng kịp thời các
yêu cầu của ngƣời dân và chịu sự giám sát thực tế của ngƣời dân.
Để đảm bảo đƣợc yêu cầu này chính quyền địa phƣơng phải đƣợc giao tự
chủ ở mức độ cần thiết có thể đọc lập giải quyết các công việc, các nhu cầu xác thực
của từng địa phƣơng, của từng cộng đồng dân cƣ. Trong ý nghĩa này lịch sử phát
triển của các mô hình chính quyền địa phƣơng tên thế giới đã chỉ ra nhiều dạng thức
khác nhau của chế độ tự quản địa phƣơng.
Tính tự quản của chính quyền địa phƣơng ở nƣớc ta chƣa đƣợc xác định một
cách cụ thể trên nhiều phƣơng diện pháp luật. tuy vậy trên nhiều mức độ khác nhau
đặc điểm này đã đƣợc thể hiện mức độ tự chủ của mỗi cấp chính quyền trong các
đơn vị hành chính – lãnh thổ. Thực tiễn hoạt động của các cấp chính quyền trong


11

việc tự quyết định các công việc thuần túy mang tính chất địa phƣơng bằng nguồn
lực và công cụ của địa phƣơng cho thấy tính tự quản hay tính tự chủ của chính
quyền địa phƣơng luôn là cơ sở quan trọng để xác lập mức độ khả năng đại diện cho
quyền, lợi ích và ý chí nguyện vọng của cộng đồng dân cƣ trên mỗi địa bàn.
Về phƣơng diện lý luận ta có thể thấy chính quyền địa phƣơng hoạt động
trong tƣ cách của một cơ quan quyền lực nhà nƣớc, tức là lúc chính quyền địa
phƣơng đại diện cho quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, đại diện cho lợi ích quốc
gia. Nhƣng khi chính quyền địa phƣơng hoạt động trong tƣ cách là cơ quan quản lý
địa phƣơng (hay tự chủ) chính là lúc chính quyền này đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân, đại diện cho một vùng đơn vị hành chính – lãnh thổ xác định.
Tuy rằng trong thực tiễn hoạt động của các cấp chính quyền địa phƣơng khó phân
biệt rạch ròi và cụ thể khi nào chính quyền đó đại diện cho quyền lực nhà nƣớc cấp
trên, khi nào đại diện cho nhân dân địa phƣơng và không phải lúc nào hai loại lợi
ích này thống nhất với nhau.
Tính chất kép của chính quyền địa phƣơng hai vai trò của chính quyền địa
phƣơng trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc và các cộng đồng dân cƣ, giữa tập trung
và dân chủ trong đời sống nhà nƣớc và các cộng đồng dân cƣ, giữa tập trung và dân
chủ trong đời sống nhà nƣớc và xã hội theo chế độ pháp quyền.
Với vai trò là đại diện cho quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, chính quyền
địa phƣơng là cấp độ tổ chức của quyền lực nhà nƣớc là thống nhất trong phạm vi
từng đơn vị hành chính – lãnh thổ, là công cụ của nhà nƣớc thực thi quyền lực, thực
thi luật pháp, đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong vị thế này chính quyền
địa phƣơng các cấp tồn tại trong mối quan hệ quyền uy và phục tùng theo nguyên
tắc cấp dƣới phục tùng cấp trên, địa phƣơng phục tùng trung ƣơng.
Với vai trò là đại diện cho các cấp hành chính lãnh thổ trong mối quan hệ với
chính quyền cấp trên, chính quyền địa phƣơng cấp nào đại diện cho lợi ích ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phƣơng cấp đó và hành động với tƣ cách là hình thức
đại diện của nhân dân, công cụ thực hiện dân chủ của ngƣời dân. Trong ý nghĩa này
mỗi cấp chính quyền địa phƣơng là một tổ chức của địa phƣơng có nhiệm vụ giải



12
quyết các công việc của địa phƣơng, đáp ứng các yêu cầu nguyện vọng hợp pháp
của ngƣời dân địa phƣơng không chỉ quan hệ với các cơ quan quyền lực cấp trên mà
cả trong quan hệ với địa phƣơng khác.
Nhƣ vậy trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nƣớc, chính quyền địa phƣơng ở
mỗi cấp đều có vị trí phụ thuộc vừa có vị trí độc lập.
Vị trí phụ thuộc của chính quyền địa phƣơng đƣợc xác định trên cơ sở quan
niệm tính chất hoạt động của chính quyền địa phƣơng, dù đó là hoạt động của Hội
đồng nhân dân hay của Uỷ ban nhân dân đều là hoạt động chấp hành. Mặt khác
trong cơ cấu chính quyền địa phƣơng, Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà
nƣớc ở địa phƣơng và là một bộ phận trong trong hệ thống hành chính nhà nƣớc
thống nhất do chính phủ chỉ đạo. với vị trí này chính quyền địa phƣơng cấp dƣới
chịu sự chỉ đạo của cơ quan hành nhà nƣớc chính cấp trên trong phạm vi mức độ
phân cấp, phân quyền theo luật định.
Vị trí độc lập của chính quyền địa phƣơng đƣợc thể hiện chủ yếu trong địa vị
pháp lý của Hội đồng nhân dân và phạm vi quyền tự chủ đƣợc phân cấp quản lý.
Theo các quy định của Luật chính quyền địa phƣơng 2015, Hội đồng nhân dân
không chỉ là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, mà là cơ quan đại diện ý
chí, nguyên vọng của ngƣời dân địa phƣơng. Do vậy Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực của địa phƣơng, độc lập quyết định các vấn đề của địa phƣơng theo các
mức độ khác nhau về quyền tự chủ của mỗi cấp chính quyền. Mặc du chƣa đƣợc tổ
chức và hoạt động theo mô hình tự quản địa phƣơng nhƣ một số nƣớc, nhƣng xết về
quyền hạn, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và thực tiễn hoạt động có thể thấy rằng ở
một mức độ nhất định, tính tự quản của chính quyền địa phƣơng đã đƣợc xác định,
đặc biệt là ở cấp xã, phƣờng, thị trấn. Những yếu tố của quyền tự quản địa phƣơng
cũng nhƣ các cơ quan đại diện từ (Quốc hội đến Hội đồng nhân dân các cấp không
hình thình một hệ thống, thống nhất mà chúng độc lập với nhau), đã tạo nên vị trí
độc lập cho chính quyền địa phƣơng các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà
nƣớc ta. Tuy vậy khi nhấn mạnh đến tính tự quản của Hội đồng nhân dân cũng có ý

nghĩa là cần phải tăng cƣờng vai trò tự quản, tính chất đại diện, tính chất độc lập, tự


13
chủ của từng cấp chính quyền nói chung cũng nhƣ Hội đồng nhân dân từng cấp phải
đa dạng linh hoạt, phù hợp với từng điều kiện cụ thể của địa phƣơng và phải bảo
đảm một chính thể thống nhất.không nên lặp lại một mô hình cứng nhắc cho mọi
địa phƣơng (đô thị vùng đồng bằng miền núi, biên giới hải đảo, vùng có ngƣời đồng
bào dân tộc thiểu số) với mọi cấp tỉnh, huyện, xã cũng có các cơ quan tƣơng ứng
nhƣng không rõ chức năng nhiệm vụ và kém về hiệu quả.
1.1.3. Vị trí vai trò của chính quyền địa phƣơng
Để quản lý xây dựng phát triển kính tế, văn hoá xã hội của đất nƣớc, Việt
Nam cũng giống nhƣ tất cả các nƣớc trên thế giới đều phải tổ chức các đơn vị hành
chính – lãnh thổ và thành lập các cơ quan nhà nƣớc ở đại phƣơng nhằm mục đích.
Thứ nhất, để triển khai các quyết định của các cơ quan nhà nƣớc Trung
ƣơng.
Thứ hai, để nhân dân địa phƣơng tham gia vào các hoạt động của các cơ
quan nhà nƣớc và quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân
địa phƣơng;
Thứ ba, phân cấp cho địa phƣơng để giảm bớt công việc cho cơ quan nhà
nƣớc ở Trung ƣơng, từ đó tạo điều kiện cho Trung ƣơng tập trung giải quyết những
vấn đề có tính quốc gia;
Thứ tƣ, việc tổ chức cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng còn thể hiện bản chất
của nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân mọi lợi ích nhà nƣớc đều xuất phát từ nhân
dân;
Thứ năm, là việc tổ chức cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng cũng là để giải
quyết tốt quyền lợi của Trung ƣơng và quyền lợi của mỗi địa phƣơng.
Chính quyền địa phƣơng ở các đô thị có vai trò quan trọng không chỉ trong
việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nƣớc trên địa bàn mà còn có vai trò đầu
tàu thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của cả vùng hoặc khu vực; là đơn vị hạt nhân

của đơn vị hành chính – lãnh thổ lớn hơn, gắn kết chặt chẽ với các đơn vị hành
chính lãnh thổ ngoại vi và các khu vực lân cận thành các vùng, các khu vực lãnh thổ


14
để cùng nhau giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tê – xã hội, về cung ứng dịch
vụ công mà không bị cắt khúc bởi địa giới hành chính.
Từ phƣơng diện lý luận về nhà nƣớc, chính quyền nhà nƣớc ở nƣớc ta (gồm
cả Trung ƣơng và địa phƣơng) đƣợc thiết lập nên bởi nhân dân đƣợc tổ chức thành
nhà nƣớc, quyền lực của nhân dân đƣợc tổ chức thành nhà nƣớc. trong đó Hội đồng
nhân dân là những cơ quan do dân trực tiếp bầu ra thông qua cơ chế bầu cử, do đó,
chính quyền địa phƣơng là những cấu chúc quyền lực gắn liền với ngƣời dân, gần
dân và tác động ảnh hƣởng trực tiếp đến các vấn đề dân chủ, nhân quyền của ngƣời
dân đối với nhà nƣớc đƣợc biểu hiện và xác định trƣớc hết ở niềm tin nhân dân đối
với các cấp chính quyền địa phƣơng thể hiện tập trung nhất ở vị trí và vai trò của
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
a, Vị trí vai trò của Hội đồng nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng, vị trí
vai trò của Hội đồng nhân dân thể hiện trên các mặt sau:
- Hội đồng nhân dân và một trong những mắt xích cơ bản trong mối quan hệ
giữa nhân dân địa phƣơng và các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng; là cơ quan trực
tiếp do dân bầu ra, để thay mặt nhân dân địa phƣơng quyết định những vấn đề liên
quan đến đời sống nhân dân địa phƣơng. Thông qua hoạt động của hội đồng nhân
dân để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nƣớc và quản lý xã hội địa phƣơng.
- Hội đồng nhân dân là cơ sở để thành lập các cơ quan nhà nƣớc khác thuộc
địa phƣơng, là nơi thể chế các quyết định của cơ quan nhà nƣớc cấp trên; là trung
tâm điều hòa phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc trên địa bàn lãnh thổ.
- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở đia phƣơng, đại diện
cho ý chí, quyền làm chủ của nhân dân địa phƣơng, do nhân dân địa phƣơng địa
phƣơng bầu ra và chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và các cơ quan nhà

nƣớc cấp trên (Hiến pháp 2013) Hội đồng nhân dân có cơ cấu làm việc nhƣ: hoạt
động của các kỳ họp, hoạt động thƣờng trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội
đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân với vai trò là thay mặt nhân dân quyết định các
chủ trƣơng, giải pháp nhằm huy động nguồn lực để xây dựng phát triển địa phƣơng


15
về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, không ngừng chăm lo cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giám sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân; duy trì
thƣờng thuyên việc tiếp xúc cử tri, thu thập lấy ý kiến, nguyện vọng chính đáng của
cử tri để phán ánh đến cơ quan nhà nƣớc thông qua các hoạt động của Hội đồng
nhân dân.
- Với tƣ cách là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, Hội đồng nhân
dân có quyền, quyết nghị mọi vấn đề liên quan tới đời sống của nhân dân địa
phƣơng, miễn là các quyết định không đƣợc trái với các thẩm quyền quyết định của
cơ quan nhà nƣớc cấp trên. Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân có hiệu lực pháp
lý trên địa bàn của địa phƣơng; mọi tổ chức công dân sống trên địa bàn đó đều phải
tuân thủ và chấp hành. Hội đồng nhân dân có quyền ban hành nghị quyết trong
phạm vi và quyền hạn của mình.
b, Vị trí vai trò của Uỷ ban nhân dân
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là
cơ quan hành chính ở địa phƣơng. Uỷ ban nhân dân là cơ quan song trùng trực
thuộc, có trách nhiệm báo cáo và chịu sự kiểm tra của Hội đồng nhân dân là cơ
quan bầu ra Uỷ ban nhân dân, đồng thời Uỷ ban nhân dân phải báo cáo và chịu sự
kiểm tra của cơ quan cấp trên.
- Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, báo cáo công việc trƣớc Hội đồng nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của Hội
đồng nhân dân, sự kiểm tra đôn đốc của thƣờng trực hội đồng nhân dân, Hội đồng
nhân dân có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân sửa đổi bổ sung hoặc bãi bổ những

quyết định không hợp lý của Uỷ ban nhân dân.
- Uỷ ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, những vấn đề quan trọng
thuộc thẩm quyền Uỷ ban nhân dân đều phải đƣợc thảo luận và biểu quyết theo đa
số, trừ một số nhiệm vụ thẩm quyền riêng của chủ tịch Uỷ ban nhân dân theo luật
định. Theo đó nguyên tắc tập trung dân chủ đƣợc thực hiện trong hầu hết các hoạt


16
động quản lý nhà nƣớc; các nhiệm vụ giải pháp, các chủ trƣơng, đề án kế hoạch lớn
của điạ phƣơng đều đƣợc bàn bạc theo quyết định theo đa số.
- Là cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phƣơng, Uỷ ban nhân dân là cơ quan
thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trên địa bàn, thực thi các quyết định của cơ
quan hành chính nhà nƣớc cấp trên và quy định của pháp luật. Uỷ ban nhân dân có
quyền ban hành quyết định, chị thỉ và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐÔ THỊ
1.2.1. Khái niệm, vị trí, tính chất, vai trò đô thị
1.2.1.1. Một số khái niệm liên quan
Khái niện Đô thị: Đô thị là một không gian cƣ trú của cộng đồng ngƣời
sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp (Từ điển
Bách khoa Việt Nam, NXB Hà Nội 1995) [49]
Đô thị là nơi tập trung dân cƣ, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống làm
việc theo kiểu thành thị ( Giáo trình quy hoạch đô thị, ĐH kiến trúc, Hà Nội)[29]
Ở đây, đô thị đƣợc hiểu theo nghĩa là một đơn vị hành chính - lãnh thổ, do đó,
định nghĩa đô thị sẽ chủ yếu dựa trên các quy định của pháp luật, nói cách khác là các
định nghĩa có giá trị pháp lý.
Vì vậy đô thị đƣợc hiểu là điểm dân cƣ tập chung có vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ có cơ sở hạ tầng đô thị thích hợp và có quy mô dân
số thành thị tôi thiểu là 4000 ngƣời ( đôi với miền núi là 2800 ngƣời) với tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp tối thiểu là 65%. Đô thị gồm các thành phố, thị xã, thị trấn và đô thị gồm

các khu vực chức năng của đô thị.
Các đô thị trên thế giới đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Các nhà đô thị học đã phân chia lịch sử phát triển đô thị thành bốn giai đoạn: cổ đại
(từ năm 4.000 trƣớc công nguyên đến năm 500 sau công nguyên); trung đại (từ năm
500 đến năm 1.500 sau công nguyên); cận đại (từ năm 1.500 đến năm 1.800) và
giai đoạn thứ tƣ từ năm 1.800 đến nay.
Nhìn chung, các đô thị ngày nay đều mang đầy đủ giá trị về kinh tế, chính


17
trị, hành chính, văn hóa, thể thao và du lịch. Tuy nhiên, với giá trị nào, đô thị cũng
đƣợc hình thành và phát triển từ nhu cầu giao lƣu của con ngƣời, của xã hội, từ yêu
cầu thực tiễn của cuộc sống, quản lý nhà nƣớc. Do đó, những nơi có điều kiện
thuận lợi về giao thông, lợi thế về chính trị, văn hóa, xã hội là những nơi thuận tiện
cho việc phát triển đô thị.
Đô thị so với nông thôn là hai môi trƣờng sống, hai loại hình định cƣ có
những đặc điểm khác nhau về tính chất, quy mô, chức năng, nhiệm vụ, mức độ phát
triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, mật độ dân số, nhu cầu sử dụng, cách thức tổ
chức quy hoạch, xây dựng, khai thác, vận hành các quá trình xã hội và nhất là hệ
thống các cơ sở hạ tầng trong đô thị.
So với nông thôn, nhìn chung các đô thị có quy mô và mật độ dân số lớn
hơn, có mức độ phát triển kinh tế - xã hội, có cơ sở hạ tầng cao hơn, môi trƣờng
sống đƣợc tổ chức khoa học hơn, văn minh và hiện đại hơn và ngƣời dân đô thị
đƣợc cung cấp các dịch vụ công ở mức độ đồng bộ hơn, đa dạng hơn và chất lƣợng
hơn.
Đô thị là điểm tập trung dân cƣ với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi
nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc,
của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc của một vùng trong tỉnh,
trong huyện.

Về mặt nhà nƣớc - pháp luật, không thể sử dụng hoàn toàn các khái niệm về
đô thị đƣợc hiểu theo nghĩa thông thƣờng mà cần phải ghi rõ nội dung dung đầy đủ
của nó trên phƣơng diện pháp lý cũng nhƣ thực tiễn. Vì vậy, pháp luật của các
nƣớc cũng nhƣ Việt Nam đều đƣa ra những tiêu chí, tiêu chuẩn để phân biệt đô thị
với nông thôn. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt đô thị và nông thôn dựa trên cơ
sở pháp luật đó là:

- Là trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế hoặc trung tâm văn
hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật - công nghệ, thể thao... của cả nƣớc hoặc một
vùng lãnh thổ.


18

- Là nơi tập trung trung dân cƣ đông đúc hơn so với nông thôn. Mỗi quốc
gia khác nhau có các quy định khác nhau về quy mô dân số đô thị nhƣng đều đảm
bảo tính chất là một điểm dân cƣ tập trung cao và chỉ tính trong nội thị.

- Dân cƣ hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao và
thƣờng không nhỏ hơn 60%.

- Là nơi tập trung hệ thống các cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng quan trọng,
nhƣ: Trạm viễn thông, sân bay, nhà ga, cảng biển... và hạ tầng xã hội, nhƣ: Nhà ở,
khu công nghiệp, bệnh viện, trƣờng học, viện nghiên cứu...

- Lối sống đô thị là lối sống hợp cƣ, luôn biến động và hầu nhƣ không có sự
liên kết về huyết thống, tập quán, truyền thống... luôn tôn trọng những chuẩn mực
có tính pháp lý hơn là những quy tắc có tính cộng đồng.
Khái niện Thành phố nói chung đƣợc dùng để chỉ một khu định cƣ đô
thị có dân số lớn. Mặc dù không có thỏa thuận nào về cách phân biệt một thành phố

với một thị trấn trong phạm vi ý nghĩa ngôn ngữ, nhiều thành phố đều có một cơ
chế hành chính, pháp lý và vị thế lịch sử cụ thể dựa trên luật pháp địa phƣơng
[51][52]
Thƣờng thì thành phố có những khu nhà ở, khu công nghiệp, và khu thƣơng
mại cùng với những trách nhiệm quản lý có thể có liên quan đến một vùng rộng
hơn. Phần nhiều diện tích của một thành phố là nhà ở dựa vào cơ sở hạ tầng nhƣ
là đƣờng sá và hệ thống giao thông công cộng. Mật độ dân số phát triển rất nhiều
tạo điều kiện cho sự tƣơng tác giữa con ngƣời và các doanh nghiệp, mang lại lợi ích
cho cả hai bên trong quá trình này, nhƣng nó cũng đặt ra những thách thức trong
việc quản lý phát triển đô thị. Một thành phố lớn thƣờng có liên quan đến các vùng
ngoại ô và đi lại giữa các vùng này.Thành phố nhƣ vậy thƣờng liên quan đến
các vùng đô thị và các khu vực nội ô, tạo ra nhiều dịch vụ kinh doanh trong việc đi
lại giữa các vùng này để làm việc.Khi một thành phố mở rộng đủ xa để đến một
thành phố khác, khu vực này có thể đƣợc coi là một siêu đô thị[50]
Khái niện Thành phố trực thuộc tỉnh là một loại hình đơn vị hành chính
nhà nƣớc hiện nay tại Việt Nam, tƣơng đƣơng huyện, quận và thị xã. Thành phố


×